Một Câu Chuyện Thương Tâm
Friday, April 10, 2020
Một Câu Chuyện Thương Tâm - Duy Xuyên
(Dân tôi sao khổ thế này. Trời cao có thấu)
Tôi Nguyễn Văn Đề, sinh ra là
một ngôi sao xấu trong những ngôi
sao xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh
gần một
vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó,
từ lúc mới lên
bảy, tôi được một nhà
phú hộ mướn chăn dê.
Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa
chúng vào các triền núi
đá từ sáng sớm tinh sương
đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày
chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi
phải gom
dẫn chúng về nhà phú hộ. Công
việc chỉ
đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết.
Đó là việc của người lớn:
– Của cha mẹ tôi
và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi
rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng
nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi
một nắm
cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít
muối ớt,
gói trong miếng lá chuối khô.
Đó là bữa cơm trưa hàng
ngày của tôi.
Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con
cá lép khô muối mặn bằng
hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê
cũng vui tai quá đỗi.
Đời tôi
thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng
18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa
Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân phục ‘lính
áo đen’.
Đời tôi
bắt đầu
sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó!
Tôi được dạy
cho biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và
trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là
‘người tình’ đi theo tôi trong suốt quãng
đời lính tráng này.
Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi
tôi chào đời và
lớn lên trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.
Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm
vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên
di chuyển từ
địa điểm này đến địa hình khác với mục đích
tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy tránh
giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục kích
đêm’ để phá
vỡ đường
dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng.
Tuy nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát
của địch,
song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng
tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.
Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng
của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm
hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục
kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường
nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm
mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá
gần chỗ
anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng
bắn một
băng tiểu liên và
tên du kích ngã gục sau phát
đạn
khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng
hôm sau, chúng tôi lật xác
tử thi
địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và
làm liên lạc viên
cho đám du kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân
nhân anh ta nhận xác
về chôn cất.
Đây là
một chiến
thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
‘thám báo’ của chúng
tôi.
Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo
đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử thi địch như các
đơn vị Chủ Lực Quân
hay Địa Phương Quân.Vì
thế, hôm ấy chúng
tôi phải dùng
2 cây sào tre, rồi lấy áo
đi mưa cá nhân, kết hợp làm
băng ca, khiêng tử thi tên
du kích về xã.
Chúng tôi thay phiên nhau,
hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng
cái xác từ bờ ruộng này
đến bờ
đê khác. Gần đến trụ sở
Xã, chúng tôi được lệnh của
anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.
Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca
xuống:
– Đặt xác
nó tại đây
đi!
Anh bạn vừa thả
băng ca thì trời bất chợt đổ
cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng
băng ca, lôi xác tử thi vào
thẳng
trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.
Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như
thế. Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng
tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:
–
“Cái quân trời đánh!
Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích
cặn kẽ
cho bà ấy.
Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.
Các
anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và
Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm
Ủy Viên Chính Trị Xã, ra
lệnh
chuyển tôi từ địa phương
ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh:
Thành phần ác
ôn, nguy hiểm, có
nợ máu
với nhân
dân…
Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đã không
tìm thấy bất cứ ai, kể cả
anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh
‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!
Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
– Mày
là thằng nghĩa quân
quèn, sao lại trình
diện vào
đây để ngồi tù?!
Ủa, mày
muốn tình
nguyện học tập hả?
Có người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:
– Chứ bộ mày
muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi
cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:
– Dạ em đâu
dám mơ ước như thế đâu
thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng
kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các
ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu,
chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông
này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi. Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp
nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại tù.
Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5
năm, hầu hết ai ai cũng được
về đoàn tụ với gia đình. Cá
nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có
nhiều nợ máu với nhân dân.
Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu
thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có
ngày trở về gặp lại vợ con.
À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm 18 tuổi tôi cũng đã
lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi
gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp
măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng
chẳng hay biết gì!
Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương
lãng mạn để trao cho nhau
làm gì cho mất thì giờ.
Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm
động phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại
lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê,
nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm
nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm.
Lần thứ ba, khi được báo có người nhà
thăm nuôi, tôi vội vàng
ra cổng trại thì
được biết
một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của
các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại.
Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và
năm đứa con tôi
đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào
trại giao cho tôi.
Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh
tráng, một ít mắm ruốc kho…
Năm đứa con, ngồi khóc
vì không có mẹ, nên
trại cho
tôi dẫn chúng vào trại để ở tù
chung với tôi.
Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc
quanh.
Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi
một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.
Cảnh gà trống nuôi
con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười.
Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng
theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em
hai tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm
kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy
con ăn thêm để tránh cái đói
đang hành hạ chúng.
Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh - đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.
Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…
Tôi nghi ngờ là con Thanh
đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.
Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:
“Thanh!
Thanh! Con ở đâu?”
Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong
không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con
Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa
về nhà.
Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ
nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.
Tôi bảo các con đi
ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.
Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.
– Đêm
hôm khuya khoắt mà
mày sai con đi bẻ trộm bắp…
Anh em công
an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi…
Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.
Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi
đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh
đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai
trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.
Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng
đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.
Hồi đó,
anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân
biệt đối
xử với anh em chúng
tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’,
cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!
Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa
càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo
tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi
với con Thanh, hai chị
em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài
trời đang mưa. Con
Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc
ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi
:
”Để cha ra bồng
con Thanh vào
nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con
Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh
và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc vừa vái trước mộ nó:
“Ba đưa
con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà
như thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.
Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn
không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà
tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi:
“Ba ơi!
Nhà không có ly, mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”
Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái.
Các em của Thanh vừa lạy vừa
khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người chị.
Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi
thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày
ấy đến
giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi
vội tìm trong mớ giấy tờ có
cái chứng minh nhân
dân của Nại. Tôi
trang trọng vuốt hình
vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng
đặt hình của Nại lên
miếng gỗ
mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh
giả tạo còn sót lại.
Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng:
“Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu
me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng
soài trên một vũng máu
mà miệng vẫn còn
nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.
Duy Xuyên
at 12:49 AM
3 comments:
NVTDApril 10, 2020 at 2:54 AM
TROI OI LA TROI !!SAO DAN TOI KHO NHU THE
NAY??
Reply
Người Phương NamApril 10, 2020 at 3:22 PM
Đọc câu chuyện này chỉ biết khóc
thôi!
NPN
Reply
lengochongthuy@gmail.comApril 12, 2020 at
2:07 PM
Chị NPN ơi ! em đọc xong mà nước mắt tràn dâng!
Hồng Thúy
Reply