Thương hoài Mekong
- Kỳ (1/3): Ký ức mùa nước nổi miền Tây
https://www.ntdvn.com/van-hoa/thuong-hoai-mekong-ky-1-ky-uc-mua-nuoc-noi-mien-tay-36865.html
Miền Tây sông nước trong ký ức tuổi thơ tôi.
(Ảnh: Shutterstock)
Thương hoài
Mekong - Kỳ 1: Ký
ức mùa nước nổi miền Tây
Nguyên Phong • 06:30, 13/05/20 • 1141 lượt xem
Đôi điều về trang nhà "Tân Đường Nhân": https://www.ntdvn.com/about.html
(Về
chúng tôi
Tân Đường
Nhân
(NTD - New Tang Dynasty) được
thành lập vào năm 2001,
là kênh truyền
thông toàn cầu thuộc tập đoàn
truyền
thông đa ngôn ngữ
(EMG) có trụ sở tại New
York. Từ khi ra đời,
Tân Đường Nhân luôn nằm trong số 10
kênh truyền thông hàng đầu thế giới. Tân Đường
Nhân Việt Nam
hiện là kênh truyền thông ngôn ngữ tiếng Việt duy nhất được
tập đoàn
EMG uỷ quyền xuất bản.
Tầm nhìn
Với 22 ngôn ngữ, bằng những bài báo chất lượng thể hiện sự
chính trực, phẩm hạnh, Tân Đường Nhân hướng
tới mục
tiêu nâng cao hiểu biết xã hội cũng như khôi
phục, gìn giữ các
giá trị văn hoá
truyền thống và đạo đức
cốt lõi.
Sứ mệnh
Tân Đường Nhân tin tưởng
một thế giới toàn vẹn phải dựa
trên truyền
thông chính xác và trung thực. Đó
là lý do chúng tôi cống hiến hết
mình để cung cấp sự thật và
làm sáng tỏ những vấn đề
xã hội
quan trọng.
Không đại diện cho các nhóm lợi ích, chúng tôi đưa ra thông tin khách quan, cung cấp một bức tranh toàn cảnh, thể hiện trách nhiệm của chúng tôi đối với xã
hội.)
(Theo như quảng cáo trên, họ có tới
22 trang
khác nhau. Báo này đối lập vởi nhà
cầm quyền đương thời, nên họ mới vạch trần những thủ đoạn
của ĐCS
tàu.
Tuy vậy, truyền thống cố hữu
vẫn
còn, nên họ tự xưng là
Trung Quốc.
Bị dị
ứng
với
TQ: nước
ở giữa, bọn ở chung quanh là lũ man di, mọi rợ. Tôi đã đổi TQ thành Trung Hoa.)
Từ hàng vạn năm nay miệt mài không ngừng nghỉ, nó đã mang biết bao nhiêu phù sa từ cao nguyên Tây Tạng, từ đất Trung Hoa, cả những
chất màu mỡ trên đường nó đi qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambot
để xuống đến đây. Chính nó đã lấn biển, thêm rừng, bồi đắp nên đồng bằng xứ Nam Việt, nơi chúng ta đang
đặt chân lên và gửi gắm cho nó cả cuộc sống
Xa quê đã hàng chục năm trời, tôi chưa có
dịp quay lại mảnh đất
miền Tây yêu dấu, nhưng trong lòng tôi
luôn khắc khoải một nỗi nhớ
quê hương. Đêm qua, tôi lại mơ thấy mình được ngồi xuồng cùng ba, lênh đênh giữa cảnh trời nước liền nhau của miền Tây mùa nước nổi, giống như một ngày tháng 9 những năm đầu thập niên 70 thế kỷ trước, lúc tôi lên 12, khi nước lũ về khiến làng quê bồng bềnh trong biển nước; những
cánh đồng, những lũng cạn từ từ biến thành trắng xóa mênh mông.
Là người gốc Bắc, làm giáo sư ở một Viện đại học, nhưng ba đã rời Sài Gòn từ hơn nửa thế kỷ trước để về sống ở miền Tây, lúc đầu là ở mảnh đất Đồng Tháp. Người lấy má tôi là một cô thôn nữ địa phương xinh xắn đảm đang. Rồi anh em chúng tôi ra đời trong lúc ba má cứ đi lại dọc ngang trên sông nước miền Tây, vừa để mưu sinh, vừa để thỏa mãn cái thú “xê dịch” mà chính ba tôi - một trí thức yêu tự do, yêu thiên nhiên và những tâm hồn thuần hậu chân chất – đã truyền cho cả gia đình. Cũng có khi chúng tôi dừng lại một thời gian ở một nơi nào đó bên bờ nước, dựng một ngôi nhà tạm vách đất, mái lợp cỏ bàng, cỏ lát, hoặc một ngôi nhà sàn bằng gỗ cây chàm, lợp lá dừa nước. Ở chán rồi lại đi. Miền Tây đủ rộng cho thú ngao du của chúng tôi. Có thể nói, chúng tôi đã sớm coi nơi đây như quê nhà.
Chúng
tôi dừng lại một thời gian ở một nơi nào đó bên bờ nước, dựng một ngôi nhà tạm vách đất, mái lợp cỏ bàng,
cỏ lát...
(Ảnh: Shuttersstock)
Sáng sớm, khi má và các em
còn đang ngủ, từ xóm nhà lá, hai cha con tôi đã ngồi trên chiếc xuồng tam bản để chuẩn bị ra đồng. Xóm nhà lá
có chừng đôi chục (1) ngôi nhà sàn dựng gần sát nhau. Xưa
kia, người dân thường làm nhà trên những gò cao hơn mặt đồng chừng một vài mét, gọi là Giồng. Nhưng khi dân cư đến ở ngày càng đông hơn, số lượng Giồng cũng có hạn, nên để tránh lũ, người ta làm nhà sàn
để ở.
Những ngôi nhà sàn sơn màu xanh đỏ hắt bóng xuống dòng nước đục nhờ nhờ thật vui mắt. Lúc này, nước chỉ cách mặt sàn chừng đôi ba chục phân. Xung quanh xóm nhà lá, bên những gốc dừa, có những ông lão ngồi trên xuồng tam bản buông câu lơ đãng như một thú vui chứ chẳng phải vì cá, bởi cá lội dưới sàn nhiều không đếm xuể, lũ trẻ chỉ cần phóng đinh ba xuống nước là trúng cá, các bà ngồi rửa chén cũng có thể tiện tay chém được những con cá lóc lớn.
- Ủa, giáo
sư lại ra đồng hén?
Một ngư ông da bánh mật, mặt mũi nhăn nheo, cười hồn hậu hỏi ba.
- Chết nỗi, cụ cứ gọi tôi là Hai Hành thôi. Vâng, cha con tôi ra đồng.
- Nếu giáo
sư ra đồng kiếm cá
thì khỏi, giáo
sư sang tui mà lựa tẹt ga, cá
bự chà
bá, cỡ nào
cũng có hết á.
Mấy hổm rày,
tui bắt được lắm à
nhen.
- Tạ ơn cụ. Cha
con tôi đi
việc khác.
Cụ ngồi câu
vui vẻ nhé.
Có một vài người địa phương biết ba tôi đã từng làm giáo sư đại học, vậy nên bà con vẫn gọi ba tôi là giáo sư. Những người dân quê chân chất chưa từng biết chữ nhưng lại rất trọng những
người có học vấn và đạo đức. Tuy vậy, ba tôi là người giản dị, chẳng bao giờ lên mặt với ai, ba rất yêu quý và sống chan hòa với những tâm hồn thuần hậu nơi đây.
Chiếc xuồng hướng mũi ra cánh đồng nước mênh mông trắng xóa, mái dầm nhịp nhàng khua nước theo sự điều khiển khéo léo của ba tôi. Thân thể ba cao lớn, vững chãi, nước da ngăm ngăm, áo nâu khăn rằn, cánh tay gân guốc và động tác uyển chuyển, thành thử trông ba không khác gì một ngư phủ địa phương; chỉ có vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng, ánh mắt sắc và thâm trầm của một người có tư duy và trải nghiệm sâu sắc… phân biệt ba với những người dân quê chất phác. Người ta có thể yên tâm đi với ba trên các kênh rạch đến cùng trời cuối đất.
Nước vẫn đang lên và nắng cũng đang lên màu sóng sánh và ngọt như mật ong rừng, cái nắng hiếm hoi giữa mùa nước nổi. Được cái, nước lụt ở đây lên từ từ, mỗi ngày chừng đôi ba chục phân là nhiều. Ba nói ở mùa nước nổi của miền Tây, nước không dâng lên và rút đi chớp nhoáng như ở Bắc và Trung kỳ để gây nhiều tai hại, trừ một số ít những năm lụt lớn.
Được cái,
nước lụt ở đây
lên từ từ, mỗi ngày
chừng đôi
ba chục phân
là nhiều. (Ảnh: Shutterstock)
- Sao vậy hả ba? Tôi hỏi
- Chính
là nhờ Biển Hồ Tonle Sap ở Cambot (2) và hai cánh đồng lớn: Đồng Tháp và Cà Mau đóng vai trò làm túi chứa nước. Rồi còn nữa, nước mưa trên thượng nguồn của dòng Mekong được rừng giữ lại bớt nên lũ về không ồ ạt. Trước khi nước nổi lại có những báo hiệu trước, ví như nước chuyển màu đỏ đục, gọi là “nước quay”, hoặc khi thấy có những mảng lục bình hay rau muống từ trên những cánh đồng ở Cambot trôi xuống đây mà người ta có thể chuẩn bị trước.
Trước mắt tôi là một mảng lục bình đang dập dềnh dưới chân một cụm dừa nước lớn, những cây dừa nước với tán lá xanh ngắt cao đến 9m đu đưa trong gió. Người dân nơi đây dùng lá dừa nước để lợp nhà; cơm dừa là món giải khát ngọt nhẹ, mềm dẻo, bùi bùi,
thanh thanh. Dưới chân đám dừa nước là cả một thế giới thủy sản
phong phú.
- Vậy thì đây là nước của dòng Mekong phải không ba? Mekong là sông gì ạ?
- Đúng
vậy con ạ. Mekong là con sông lớn của thế giới. Bắt nguồn từ cao
nguyên Thanh Tạng ở Tây Tạng, nơi quanh năm tuyết phủ, nó chảy băng qua những dãy núi trùng điệp của Trung Hoa, nơi nó được gọi là
Lan Thương Giang và hạ phần lớn độ cao cũng như trải một nửa độ dài trên mảnh đất ấy. Rồi nó xuyên qua đất Miến Điện trong những khu rừng rậm
rạp; mở ra rộng mênh
mang đến vài
cây số trên
đất Luang Prabang của xứ Vạn Tượng – Lào; tạo thành biên giới tự nhiên của Lào
và Thái Lan, nơi xuất phát
cái tên Mekong của nó;
rồi nó
đổ sầm sập từ trên cao 18 thước ở thác Khone, gần biên giới Cambot và nghỉ ngơi trên Biển Hồ Tonle Sap của xứ Chùa Tháp trước khi len lỏi trong những vườn trái cây và trên những đồng nước này của miền Tây.
Ở Việt Nam ta, nó mang một cái tên khác:
Cửu Long Giang, với những phân lưu là Tiền Giang (sông Tiền) và Hậu Giang (sông Hậu).
Rồi nó len lỏi trong những vườn trái cây và trên những đồng nước này của miền Tây.
(Ảnh: Shutterstock)
- Con vẫn chưa hiểu ngoài việc đem nước về thì Mekong có ý nghĩa gì đối với cuộc sống
của chúng
ta?
Ba tôi trầm ngâm một lúc, rồi người chỉ tay xuống dòng nước bảo:
- Con hãy
trông dòng nước đục này,
mỗi giây
con sông Cửu Long đem tới 6000 mét khối nước vào mùa khô, còn mùa mưa là gấp đôi con số đó. Trong mỗi mét khối nước có chừng nửa ký
phù sa. Từ hàng
vạn năm nay miệt mài không ngừng nghỉ, nó đã mang biết bao nhiêu phù sa từ cao nguyên Tây Tạng, từ đất Trung Hoa, cả những chất
màu mỡ trên đường nó đi qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambot để xuống đến đây. Chính nó đã lấn biển, thêm rừng, bồi đắp nên đồng bằng xứ Nam Việt, nơi chúng ta đang đặt chân lên và gửi gắm cho nó cả cuộc sống. Phù sa và nước đã tạo nên
cả một thế giới trù phú này. Vậy con nói xem Mekong có ý nghĩa gì với chúng ta không?
Như để chứng minh lời ba nói, hàng đàn cá lớn đi mừng nước mới làm đen cả vùng nước bên dưới xuồng tam bản. Những con cá lóc, cá trê, cá tra… to như bắp vế người lớn nhiều vô số kể. Xuồng chúng tôi bơi ngang qua những giồng cao giữa đồng, trên đó đậu cơ man nào là cò, là trích (3); cả rùa, rắn, cua đinh (baba)… cũng bò lên giồng. Trên trời rộn rã tiếng chim, dưới nước lao xao
tiếng cá quẫy. Tôi lại nhớ câu thơ của Tế Hanh mà thi thoảng ba vẫn đọc tôi nghe:
“Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu. Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy”.
- Ba, con muốn tấp vào giồng kiếm ít trứng chim.
Ba cười rạng rỡ lộ hàm răng trắng lóa đều tăm tắp, cặp mắt sáng thông minh ánh
lên niềm vui.
- Được, lúc
về ba sẽ đưa con lên đó nhặt ít trứng chim và bắt rùa,
cua đinh về đổi món.
Ở đây,
ta đâu có lo đói. Người miền Nam nói
chung, miền Tây
nói riêng chẳng bao giờ lo đói rét. Thọc tay xuống nước có cá, ra đồng có chim trời, rau dại mọc khắp nơi, nhiều loại
rau ăn được: từ bông
điên điển, bông
súng, củ sen, hạt sen đến đọt xoài, bằng lăng… nhiều vô số kể. Còn
hoa trái ư? Lên vườn là
đủ loại hoa thơm trái ngọt trĩu cành: xoài, cam, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, sầu riêng, sapoche (hồng xiêm), thơm (dứa)...
Còn lúa gạo? chẳng phải gieo cấy vất vả, chỉ cần gieo sạ là có lúa ăn. Con xem chẳng phải ông Trời biệt đãi dân Nam chúng ta là gì, thông qua nước và phù sa của sông Mekong đấy.
Thọc tay xuống nước có cá, ra đồng có chim trời, rau dại mọc khắp nơi, nhiều loại
rau ăn được: từ bông
điên điển, bông
súng, củ sen, hạt sen đến đọt xoài, bằng lăng… nhiều vô số kể. (Ảnh: Shutterstock)
- Con trông
kìa, ba sẽ cho con thấy.
Ba tấp xuồng vào gần một vùng thực vật trông vừa giống lúa, vừa giống cỏ. Thân cây dài,
phần nhô lên khỏi mặt nước cũng đến 2 mét.
- Đây
gọi là
lúa ma, cũng gọi là
lúa Trời, một đặc trưng của đất Đồng Tháp. Nó là lúa dại, tự mọc, thân dài, hạt nhỏ, vỏ đỏ, vị đậm đà, nấu lâu
chín hơn lúa thường. Lúa
chín vào khoảng tháng
11 và chín vào ban đêm. Khi khai thác thì dùng hai cây sào đập vào bông lúa và hứng mền ở dưới. Con xem, không mất công trồng mà có cái ăn, chẳng phải của Trời cho là gì. Cũng như Trời đã cho người dân miền Tây chim trời, cá nước, rau tươi, hoa trái trĩu cành… con người ngày nay không cần quá vất vả, chỉ cần để cho thiên nhiên được yên, đừng can thiệp thô bạo vào
nó là sẽ sống khỏe.
- Vậy người miền Tây sung sướng quá phải không
ba?
Ba bỗng trở nên ngậm ngùi, đôi mắt nhìn xa xăm như nhớ về quá khứ.
- Nhưng chẳng bỗng dưng mà có được mảnh đất phì nhiêu màu mỡ này đâu con. Đó là công sức của bao nhiêu thế hệ người Việt, mồ hôi, nước mắt và cả máu
của họ đã
đổ xuống suốt dọc chặng đường mở đất đó.
- Ba
kể cho con đi ba.
- Đi lại khó khăn, ít đường đất, lắm sình lầy. Giữa đồng nước, nắng chiếu trên cao xuống, hơi sình lầy dưới nước bốc lên, cỏ, sậy lại mọc cao quá đầu người nên gió không lọt vào đồng, nóng như hầm và sinh ra nhiều chướng khí. Lá cỏ lắm khi sắc như dao cứa đứt chân tay, lội đìa cũng dễ thụt lún chết người. Đó là cái nguy hiểm của địa hình cây cỏ. Dưới nước đỉa nhiều, mỗi con to như ngón cái; trên bờ bụi muỗi đông như cỏ, đặc như mây; rắn to rắn nhỏ nhiều vô kể; dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua … thiên nhiên nơi đây đã từng cực kỳ nguy hiểm, con người mất mạng cho nó không phải là ít. Mà nào chỉ có thế.
Rắn to rắn nhỏ nhiều vô kể; dưới sông
sấu lội, trên
rừng cọp đua … thiên nhiên nơi đây đã từng cực kỳ nguy hiểm. (Ảnh: Shutterstock)
- Thế còn
chưa đủ sao ba? Con nghe đã rùng mình ba à.
Ba tôi nhìn những thân lúa dập dờn theo ngọn gió, giọng người vừa có chút thương cảm, lại rất đỗi tự hào:
Rừng thiêng nước độc dù hiểm trở vẫn không
gây tai hại cho những người mở đất bằng nhân họa. Kể từ khi các chúa Nguyễn cùng những lưu dân khai khẩn đất này, họ đã phải tốn bao xương máu để bình
định các
thế lực địa phương: người Miên, người Chân Lạp. Kẻ địch mạnh nhất trong khu vực này là người Xiêm, những người luôn thèm khát vùng châu thổ màu mỡ và
sẵn sàng
tràn xuống theo lối Biển Hồ. Chỉ chừng 90 năm từ 1690 đến 1780 mà những người mở đất theo chúa Nguyễn đã chiếm cứ hết cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, mở ra cho Việt Nam một cuộc
đất rộng lớn hơn mấy trăm năm trước cộng lại. Đất rộng, dân thưa mà ý thức cộng đồng làng xã chưa hình thành và phát triển vững mạnh
như phần Bắc và
Trung kỳ vốn có
thời gian ổn định lâu hơn. Vì vậy, hết Xiêm La và sau này là Pháp quốc, họ đều chọn
đánh vào vùng đất khó phòng thủ dễ tấn công này. Con nhớ bài học lịch sử không?
Nam Kỳ lục tỉnh bị Pháp tấn công
hai lần, lần đầu vào
1860 và những năm kế tiếp, lần sau là 1945… vậy đấy, bao nhiêu xương máu của con người nơi đây mới giữ được vùng
châu thổ phì
nhiêu này cho con cháu chúng ta thụ hưởng.
Một đàn cá đen nhảy rào rào trên
mặt nước, thân đụng cồm cộp vào chiếc tam bản. Mắt ba sáng lên, người sang sảng đọc hai câu ca dao:
“Bao
phen quạ nói
với diều
Cù
lao ông Chưởng có
nhiều cá
tôm”
Con có biết cù lao ông Chưởng giàu có đó ở đâu không? là ở An Giang đấy, nơi rạch Ông Chưởng nối sông Tiền và sông Hậu. Còn ông Chưởng là danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, một trong những người có công lớn nhất trong việc khai phá miền Nam từ thế hệ các chúa Nguyễn đầu tiên. Ngoài ông ấy, còn biết bao những danh nhân khác mà cuộc đời đã hiến dâng cho mảnh đất này. Từ những văn thần võ tướng người Bắc kẻ Nam như Nguyễn Cư Trinh, Thoại Ngọc Hầu, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương… đến cả những người Trung Hoa tị nạn như cha con Mạc Cửu, đều có công khai phá, đánh dẹp; lại có những người con của miền Tây sẵn sàng chết trong cuộc chiến với người Pháp để giữ lấy vùng đất yêu dấu như là Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Trương Định, Nguyễn Trung Trực… con ơi, cứ nhắc đến những cái tên ấy là lòng ba lại trào dâng niềm xúc động và biết ơn.
Còn
ông Chưởng là
danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, một trong những người có công lớn nhất trong việc khai phá miền Nam từ thế hệ các chúa Nguyễn đầu tiên. (Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)
Tôi kéo ba ra khỏi phút trầm ngâm xúc động bằng cách tuốt một cọng lúa ma.
- Ồ hết sảy ba ơi,
sao thân
lúa dài thế ba nhỉ.
- Nó
ngoi lên mặt nước lụt mà.
Nước cao đến đâu
nó cũng không bị ngập, nó
cũng giống người dân
miền Tây
đấy con: dân
dã, tự nhiên,
chân thật, rộng rãi
và kiên cường.
Vừa lúc đó, một âm thanh từ ngoài xa vẳng đến:
Hò ơ ơ ớ ớ… “Ngó qua sông Tiền thấy mênh mông sông nước. Dòm về Thường Phước thấy sóng bủa lao xao. Thấy cặp cá đao nó nhào vô lưới. Ôi biết chừng nào anh cưới được em?”.
- Cụ Năm Hò
đó con. Ba tôi khẽ cười. Ta ra thăm cụ chút.
Giữa cánh đồng nước, một chiếc xuồng tam bản lớn đang trôi dập dềnh. Một lão ngư phủ tráng kiện tay quăng mẻ lưới xuống mặt nước lấp lánh ánh vàng, miệng hò, giọng hò cao vút, ngọt ngào theo gió lan tỏa vào không gian, vang vang trên mặt nước. Chẳng ai ngờ nó là của một ông lão đã ngoài sáu mươi.
Một lão ngư phủ tráng kiện tay quăng mẻ lưới xuống mặt nước
lấp lánh
ánh vàng, miệng hò,
giọng hò
cao vút. (Ảnh: Shutterstock)
Chúng tôi đã đến sát thuyền của cụ Năm Hò.
-
Chào cụ Năm, cụ hò
hay quá.
Tôi cũng khoanh tay chào cụ. Cụ Năm Hò chào lại:
- Dạ, tui chào
cha con giáo sư. Giáo sư quá khen.
- Cụ đang bắt cá gì đó?
- Tui
quăng lưới cho zui thôi
giáo sư. Mấy hổm rầy tui kéo được đủ rồi. Cha chả, cá linh nhiều quá trời giáo
sư ơi. Tui ăn đến mát
trời ông
Địa, làm
mắm không
hết. Hổm bữa kéo
nhiều quá
sợ rách
lưới tui lại phải thả xuống. Giáo sư cầm tạm chục ký này về nấu với bông điên điển cho sấp nhỏ ăn.
Những bụi điên điển mọc ở nơi trước kia là bờ ruộng, nay cũng chìm trong nước, lá điên điển xanh um nhưng hoa nở vàng ruộm, tô điểm chút màu sắc tươi sáng cho vùng châu thổ mùa mưa lụt. Tôi bảo đi hái nhưng ba ngăn lại nói: “không ai hái bông điên điển lúc sáng, khi nụ hoa đã nở, ong đến bướm đi, bông không còn mật ngọt, độ bùi thơm nữa. Phải hái vào buổi chạng vạng tối, lúc bông vừa hé nhụy. Khi hái nhớ nâng niu, tuốt nhẹ, để dập cánh mất ngon”.
“Không
ai hái bông điên điển lúc
sáng, khi nụ hoa đã
nở, ong đến bướm đi, bông không còn mật ngọt, độ bùi thơm nữa..." (Ảnh: Shutterstock)
Ba cảm ơn cụ Năm Hò và xách mớ cá về xuồng. Ba bảo: “người nơi đây thực lòng lắm, con không nhận là họ giận đấy”. Rồi ba con tôi bơi xuồng đi tiếp.
Trời đang nắng, bỗng chốc mây đen kéo đến rồi mưa lớn rơi xuống thật
nhanh, người nơi đây gọi là “mưa đồng”. Ba dựng mái tam bản lên che mưa. Dưới nước, trâu nối đuôi nhau bơi thành đoàn. Ba bảo: “giờ là mùa len trâu đó con”, những con trâu băng đồng tìm cỏ và chỗ đất cao để tránh nước.
Mưa rơi trắng đồng, sóng gió nổi lên khiến người ta liên tưởng tới khung cảnh hàng nghìn năm trước, lúc nơi đây còn là biển cả. Nhưng mưa càng lớn, nước lên càng mạnh thì tôm cá lại về càng nhiều.
Ba tôi nhìn về phía chân trời, vẻ tư lự buồn, người đọc
câu thơ trong bài “Qua sông” của Tô Thùy Yên:
“Mùa
mưa như một trận mưa liền
Châu
thổ mang mang trời nước sát
Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên…”
Không
khí thơm phức mùi
sen, gió hây hẩy thổi khiến cánh hoa rung rinh, càng đưa hương sen đi xa bát ngát. (Ảnh: Shutterstock)
Chiếc tam bản của chúng tôi vẫn trôi theo dòng. Mưa chừng hai tiếng mới dứt hẳn. Khí trời trong trẻo và hơi lành lạnh. Gió thổi hiu hiu. Trong không gian sực nức hương tràm, hương mù u theo
gió từ đâu đưa lại, hình như lại có phảng phất hương sen. Đi thêm chừng một cây số nữa, xuồng chúng tôi đến một hồ sen đang nở. Giữa
một vùng lá màu xanh nhạt, to bản, hàng nghìn
bông màu hồng đỏ vươn cao, nở
ra những đóa hoa cỡ đại rực rỡ; không khí thơm
phức mùi sen, gió hây hẩy thổi khiến cánh hoa rung rinh,
càng đưa hương sen đi xa bát ngát. Tôi lười nhác nằm gác đầu lên thành xuồng ngắm ráng chiều đỏ hây hây. Sau
mưa, nước đã trong hơn, ánh hồng loang loáng, không biết nước phản chiếu màu sen hay màu trời. Ngoài xa xa, một đàn cò trắng muốt bay là là mặt nước. Cha con tôi im lặng tắm mình trong hương sen ngào ngạt, chỉ sợ một lời cất lên sẽ phá vỡ không gian thanh khiết thiêng liêng
này của cảnh thiên đàng dưới thế. Ước chi cảnh tượng này kéo dài vĩnh viễn trên vùng châu thổ.
Bỗng tôi giật mình tỉnh giấc. Té ra chỉ là một giấc chiêm bao. Tôi thấy lòng mình như
thắt lại. Ba đã mất vài năm trước ở thành phố. Mùa nước nổi giờ cũng không còn nữa.
Và Mekong cũng đang hấp hối.
Kính mời quý độc giả đón xem Kỳ 2: nước mắt vùng châu thổ.
Nguyên Phong
Chú thích:
(1): chục với những địa phương ở miền Tây có số lượng khác nhau, có nơi là 12 hoặc 14 hoặc 16
(2): Campuchia
(3): Một loài chim hình dáng và trọng lượng gần giống như gà; lông xanh và đen, mỏ và mào
đỏ, phá lúa.
Xem thêm:
Kiểm soát gần 1/5 sông Mekong,
Trung Quốc sẽ xả đập thủy điện
để 'giúp các nước láng giềng'
Các con đập tại Trung Quốc vẫn giữ lại nước trong đợt hạn
hán trầm trọng tại hạ nguồn sông Mekong
No comments:
Post a Comment