Bốn Mươi Năm, Kể Lại
Wednesday, April 29, 2015
Bốn Mươi Năm, Kể Lại
Khôi An
Tác giả từng phải rời bố mẹ để vượt biển từ tuổi học trò, đến Mỹ năm 1984, hiện là một kỹ sư điện tử, cư dân San Jose. Với nhiều bài viết giá trị, Khôi An đã nhận Giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013. và là một trong những tác giả đạt số lượng người đọc nhiều
nhất trên Việt Báo online.
Bài mới của Khôi An là chuyện kể về một nhóm sinh viên VNCH du học tại Hoa Kỳ vào thời điểm tháng Tư 1975.
* * *
(Một chuyện của tháng tư. Ngày tháng không quên)
Trăng
sao tin yêu ai dối trá,
đất trời hiền hòa ai đốt phá
và
đem thê lương che kín núi sông này.*
Họ gánh đồ đạc trên vai,
cõng em bé trên lưng. Băng qua xác người nằm ngổn ngang. Sau lưng họ, lửa cháy ngút trời. Khói đen cuồn cuộn. Già, trẻ, lớn, nhỏ dắt díu nhau.
Súng nổ, người thét. Hoảng loạn. Họ chạy về phía chúng tôi. Càng
lúc càng gần
Chớp một cái, những hình ảnh kinh hoàng biến mất. Màn hình sáng lên với những màu sắc tươi đẹp. Mục tin Việt
Nam đã chấm dứt nhưng chúng tôi vẫn ngồi lặng, nhìn trân trân vào cái TiVi.
Cả phút sau mới có người cất tiếng “Vậy là
mất thêm
mấy tỉnh nữa rồi!”
Đó là
một ngày tháng Ba năm 1975. Chung quanh tôi, trên sàn căn
apartment, mười mấy người ngồi quanh cái TiVi nhỏ (đó là cái TiVi màu
duy nhất trong đám chúng tôi). Đây là khoảng một phần ba sinh viên Việt Nam ở Houston, Texas. Vào lúc đó, cả Houston có khoảng sáu
mươi người Việt gồm khoảng bốn mươi sinh viên và đâu đó hai mươi phụ nữ Việt sang Mỹ theo chồng. Đám sinh viên rải từ năm thứ nhất tới cao học và chỉ vỏn vẹn có
hai cô. Phần đông
chúng tôi thuê nhà ở Cougar Apartments nằm sát cạnh Univerisity of Houston. Khu chung cư cũ kỹ nhưng vừa
túi tiền là nơi quen thuộc và ấm áp
cho đám thanh niên Việt mới lớn nương tựa nhau trên xứ lạ. Chúng
tôi chia sẻ từ gói
mì tới chiếc xe hơi, từ kiến thức trong sách vở tới cái
khôn học ở trường đời. Một năm vài lần, chúng
tôi họp mặt ăn uống, ca hát,
trao đổi tin tức quê
nhà, và bàn luận những diễn biến của chiến tranh Việt Nam.
*
Tờ lịch cũ.
Việt Nam War là cuộc chiến đầu tiên mà truyền thông Mỹ được tự do đưa tin, không hề có chút kiểm duyệt. Từng được gọi là “cuộc chiến trong phòng
khách”, hình ảnh cuộc chiến đến với người dân Mỹ qua TiVi đặt tại phòng khách ở mỗi nhà.
Vào những năm
1968-1970, sau gần mười năm Mỹ tham chiến tại Việt Nam và trận đụng độ Tết Mậu Thân 1968, người dân Mỹ đã nhận ra rằng chiến
thắng tại Việt Nam không
phải là chuyện gần kề. Thái
độ của
họ đã đổi từ tin tưởng,
ủng hộ, sang mệt mỏi, tức giận. Cái
thảm khốc
của chiến tranh được sự trợ giúp
vô tình nhưng thật tai hại của kỹ thuật mới, đó là TiVi màu. Mỗi đêm người dân
Mỹ bàng hoàng trước những hình ảnh máu
đổ, người
chết, dân lành tán loạn, bom đạn ngút trời.
Hình
ảnh quá
thật nhưng lời giải thích không nói rõ sự tàn ác, tham vọng của Cộng Sản Bắc Việt.
Hơn nữa, đối với họ, mạng sống của những thanh niên Mỹ quan trọng hơn chuyện ngăn chặn làn sóng Cộng Sản đang lan ra ở châu Á xa xôi.
Bắt đầu từ những cuộc biểu tình của sinh viên trong trường học, phong trào phản chiến lan rộng, tăng cùng chiều với con số lính Mỹ chết trận ở Việt Nam. Mọi
người bị cuốn hút vào làn sóng chống đối, từ những chính trị gia ở Quốc Hội cho tới các bà nội trợ và đám thanh niên Hippy dùng phản chiến như một phương cách hợp thời để tụ tập, bày tỏ sự nổi loạn. TiVi thường xuyên phát những lời gọi cuộc chiến là “bế tắc”, và thúc giục Mỹ rút quân.
Nhưng cuối năm 1973,
khi tôi đến Mỹ, thì phong trào phản chiến đã tàn. Sau hiệp định Paris ngày 27 tháng 1, 1973, hầu hết lính Mỹ đã rút
khỏi Việt
Nam. Dù Mỹ vẫn viện trợ
cho Việt Nam nhưng người dân
Mỹ đã trở thành
thờ ơ. Đối
với họ, sự chấm dứt hoàn
toàn mọi can dự của Hoa Kỳ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Tuy vậy, đám sinh viên Việt Nam chúng tôi còn
quá trẻ và ngây thơ. Xã hội Mỹ đối với chúng tôi vẫn còn quá xa lạ nên chúng tôi không dám quyết đoán những suy nghĩ của người bản xứ qua thái độ của họ. Hơn nữa, chúng tôi luôn nghĩ rằng Mỹ sẽ không bỏ một đồng minh nằm ở vị trí chiến lược quan trọng như Việt Nam Cộng Hòa. Và trên
tất cả, chúng tôi luôn mong muốn Việt Nam Cộng Hòa được tồn tại, niềm tin đó lấn át sự sáng suốt thường có, tựa như khi có người thân bị bệnh hiểm nghèo người ta không tin cái chết gần kề.
Chúng
tôi tin tưởng rằng Mỹ sẽ giúp
cho miền Nam chống trả nếu miền Bắc không giữ cam kết ngừng bắn. Ngay cả sau khi tổng thống Richard
Nixon – người ủng hộ chiến tranh Việt Nam - bị truất chức trong vụ nghe lén Watergate, ngay cả sau khi Mỹ cắt viện trợ vào tháng Tám, 1974, chúng tôi vẫn tiếp tục hy
vọng.
*
[img]--------[/img]
Và trang nhất báo The New
York Times ngày 30 tháng 4, 1975.
Đầu năm 1975, tình hình ở Việt Nam bất ngờ trở nên sôi động, gieo vào lòng chúng tôi thật nhiều hoang mang, lo lắng.
Đám sinh viên người Việt tìm đến nhau thường xuyên hơn. Chúng tôi ngồi bên nhau, khắc khoải theo dõi những hình ảnh khốc liệt từ quê hương rách nát và
những cuộc bàn cãi ở Washington, DC. Dù không thể xóa được buồn lo, nhưng bên nhau chúng tôi
thấy bớt cô đơn. Trong những căn phòng nhỏ, chúng tôi ngồi kề vai nhau, lặng lẽ chia
sẻ chút an ủi, và bất lực nhìn từ xa thấy quê nhà vật vã như chiếc xuồng nhỏ trong cơn sóng dữ.
Ngay từ tháng
Một,
1975, khi thấy Cộng Sản chiếm Phước Long mà
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
không có một kế hoạch nào
để lấy
lại, chúng tôi đã cảm thấy có điều khác
thường. Đến
tháng Hai, tin tức lại ồn ào về việc chính
phủ Việt
Nam xin viện trợ thêm ba
trăm triệu đô
la để giữ miền Nam. Đây
là số tiền nhỏ so với một trăm năm mươi tỷ mà Mỹ đã chi
ra cho chiến tranh Việt Nam nhưng lần này Hạ Viện Hoa Kỳ tranh cãi kịch liệt. Lúc
đầu chúng tôi thấy rất lạ nhưng sau đó đã hiểu rằng Mỹ không
còn muốn tiếp tục chi ra, dù chỉ một đô
la.
Mỗi đêm chúng tôi tụ tập quanh màn ảnh TiVi, nóng ruột theo dõi tất cả các mục tin về Việt Nam. Từ Walter
Cronkite của CBS tới Harry Reasoner của ABC News, chúng tôi dán mắt nhìn, lắng tai nghe từng lời tường trình của họ.
Walter Cronkit
Harry Reasoner
Tháng Ba, 1975. Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, Quảng Trị,
Huế, Đà Nẵng liên tiếp mất. Dân chúng hoảng hốt tháo chạy. Xác người nằm la liệt trên các Quốc Lộ. Ông lão gánh cháu băng qua lửa đạn, những thanh niên đeo trên xe đò bị trúng đạn rớt như sung rụng, người mẹ vừa khóc vừa ném đứa con bị thương lên sàn máy bay trực thăng xin mang đi cấp cứu…
Những cảnh quê hương đau khổ làm chúng
tôi nát lòng nhưng nỗi lo lắng cho vận mệnh nước nhà mới thật là thắt ruột, thắt gan.
Không
thấy có tin nào về một trận đánh
trả quy
mô để lấy lại đất
như năm 1972. TiVi chiếu đa số là
hình ảnh những người lính,
đa số còn trẻ (làm chúng tôi nhớ tới những người bạn cũ thời Trung
học) trong những trận đánh ngắn ngủi hay
đang trên đường rút. Chúng tôi bàn tán rằng có lẽ chính
quyền Việt
Nam muốn áp lực Mỹ để họ phải
cứu Việt Nam Cộng Hòa
đang trên bờ xụp đổ hoàn
toàn. Nhưng, nhìn thái độ của chính
phủ, người
dân, và truyền thông Mỹ trong lúc
đó chúng tôi biết Mỹ đã
nhất quyết
phủi tay. Nếu chính
quyền Việt
Nam Cộng Hòa cố tình bỏ đất thì
chỉ làm cho nước mất càng
nhanh. Càng nghĩ chúng tôi càng quay quắt vì những gì
đang xảy ra tại quê
nhà.
Khi những tỉnh ở miền Nam Trung phần như Nha Trang mất
thì chúng tôi bắt đầu tuyệt vọng. Mọi người cuống cuồng tìm cách cứu gia đình. Đám sinh viên truyền tai nhau rằng nếu ai tìm được người Mỹ đồng ý làm Affidavit of
Support (Giấy Bảo Trợ Tài Chánh) rồi nộp cho cơ quan di trú ở Mỹ thì khi di tản người khỏi Việt Nam, chính phủ Mỹ sẽ ưu tiên đem theo những gia đình đó.
Tôi vội liên lạc với anh bạn thân
người Mỹ
duy nhất, khẩn khoản xin giúp
đỡ. May
mắn cha mẹ anh ta đã mau
mắn đồng
ý đỡ đầu cho gia
đình chín người của tôi. Thế là tôi
vội lái chiếc xe cà
khổ vượt
mấy trăm dặm đến nhà người bạn làm giấy. Trên
quãng đường dài,
tôi nhớ đến buổi chia tay lên đường du học mới một năm rưỡi trước. Ngày đó, tôi hứa với gia đình cùng người thầy và những bạn thân
thiết nhất
rằng sẽ học ra trường rồi trở về giúp
quê hương. Lời hứa đó
còn rành rành trong đầu tôi
mà quê hương thì đang vùn vụt mất, từng ngày.
Niềm an ủi
duy nhất là tôi có được tấm giấy bảo
trợ như chiếc phao cho tôi hy
vọng gặp
lại gia đình.
Tháng Tư, 1975. Có tin tức về sự chống trả của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 8 tháng 4, 1975 quân Việt Cộng tiến đến Xuân Lộc, cách Sài gòn chỉ sáu mươi
kilo mét. Thiếu tướng Lê Minh Đảo (lúc đó còn
là Chuẩn tướng) chỉ huy một
lực lượng kết hợp gồm Sư Đoàn 18 Bộ Binh, một Tiểu Đoàn Pháo Binh, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh kết hợp với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân Tiểu Khu Long Khánh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Với sự yểm trợ của Sư Đoàn 4 Không Quân, họ đã chặn đứng quân địch tại Xuân Lộc.
Thiếu tướng Lê Minh Đảo
Thiếu Tá
Vương Mộng Long
Xuân Lộc đứng vững
suốt năm ngày trước lực lượng địch
đông gấp ba, gấp năm
lần. Sau đó, Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh đem Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đến tăng viện và bốn tiểu đoàn trực thăng vận cũng đến để cùng chiến đấu.
Tinh thần sắt đá của các lực lượng ở Xuân Lộc đã thu hút được sự chú ý của giới truyền thông quốc tế.
Giữa tháng 4, một phái đoàn gồm những nhân viên gan dạ của các đài truyền hình, báo
chí đã đến thăm Xuân Lộc.
Họ thu vào ống kính cảnh chiến trường nghi ngút khói, xác chết ngổn ngang. Họ truyền đi khắp thế giới hình ảnh các tướng, tá cùng binh lính sát vai nhau, chung lòng
quyết chiến.
Tướng Lê Minh Đảo dõng dạc tuyên bố
“I dont care how many divisions the other side sends
against us, we will knock them down.”
(“Tôi
không cần biết đối phương gởi mấy sư đoàn tới đây,
chúng tôi sẽ đánh
bại họ”)
Lời nói của ông và tinh
thần Xuân Lộc đã làm nhen nhúm trong chúng tôi chút hy vọng. Như người sắp chết đuối
gặp được cái phao nhỏ, chúng tôi bám
vào, dù phao rất mong manh. Chúng tôi mong sự dũng mãnh của các chiến sĩ Xuân Lộc - đã đạp đổ những tuyên truyền sai lạc về tinh thần chiến
đấu của quân đội miền Nam - sẽ đánh thức lương tâm của đồng minh Mỹ. Chúng tôi ước có một phép lạ, một sự giúp đỡ vào giờ chót để miền Nam lật ngược thế cờ.
Nhưng lúc
đó Bắc quân
đã tràn ngập miền Nam. Chiếm không được Xuân
Lộc, chúng đi vòng Quốc Lộ 15 về chiếm Biên Hòa, Dầu Giây
ở phía Tây. Chúng cũng làm chủ được Phan Thiết, khép chặt gọng kìm
từ phía Đông. Lực lượng Nam quân
ít ỏi
đang trụ ở Xuân Lộc phải phân tán ra để chống đỡ khắp nơi. Ngày 15 tháng 4, Cộng quân dội pháo
xuống
phi trường Biên
Hòa, cắt đứt đường máy
bay thả bom yểm trợ. Sau đó,
chúng lại ném
thêm mấy sư đoàn
vào trận và
bao trùm Xuân Lộc bằng mưa pháo.
Chúng tôi xót xa những chiến sĩ miền Nam đang bị bao vây trong biển người và
biển đạn
của quân địch. Và đau đớn hơn nữa khi thấy rằng đã quá trễ để quân
đội Việt
Nam Cộng Hòa xoay chuyển tình thế.
Đêm 20
tháng 4, 1975, lực lượng ở Xuân
Lộc buộc
phải rút về một trận tuyến
gần Sài gòn.
Xuân Lộc mất. Những tỉnh quanh Sài gòn bị nhuốm đỏ nhanh như máu loang trên vải mỏng.
Chúng tôi chuyển sang trạng thái bấn loạn. Có người liều giả danh Bộ Ngoại Giao Mỹ đánh điện tín về tòa Đại Sứ Mỹ nhờ di tản gia đình.
Lại có tin từ Việt Nam là những người trong tuổi đi lính sẽ bị chặn lại khi ra phi trường, rồi tin tức về Hạm Đội Bảy của Mỹ vẫn còn đang ở ngoài khơi Việt Nam. Vì gia đình
tôi có hai ông anh, sợ không được vào phi trường, nên tôi nghĩ cách tốt nhất là chạy thoát bằng đường biển.
Cả ngày lẫn đêm, tôi
quay số điện thoại để nói chuyện với người thân nhưng đường dây luôn luôn bận. Cuối cùng tôi phải ra ghi tên với tổng đài để chờ.
Ngày 21
tháng 4, 1975, tới phiên
tôi nói chuyện với Việt Nam. Đầu dây bên kia là Bố Mẹ tôi. Tôi nói không còn hy vọng gì nữa, Bố Mẹ đưa gia đình
ra Vũng Tàu kiếm đường chạy ra tàu
Mỹ đang
neo ngoài khơi. Tiền gọi điện
thoại rất mắc và
tình trạng khẩn cấp nên
chẳng nói được nhiều. Gác
máy rồi, tôi
đứng thẫn
thờ một lúc. Nhưng, lúc đó, tôi
không hề biết rằng đó
là lần cuối cùng
trong đời tôi
nói chuyện với Bố tôi.
Ngày 23 tháng 4, 1975 Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố “The war is finished as far as America
is concerned” (“Cuộc chiến đã
chấm dứt đối với Hoa Kỳ”).
Tổng Thống
Gerald Ford
Rồi ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger bồi thêm “the war is history” (“cuộc chiến chỉ còn là lịch sử”).
Henry Kissinger
Dù đã biết Mỹ bỏ Việt Nam, chúng tôi vẫn thấy cay đắng trước những lời tuyên bố đó, nhất là sự đổi mặt trắng trợn của Kissinger. Chúng tôi, những người thanh niên trong lứa tuổi hai mươi đầy lý tưởng đã thấm thía vô cùng với bài học chính trị thực tế đầu tiên: chính phủ nào cũng có thể nuốt lời để đặt quyền lợi của nước
họ và tương lai của họ lên trên tất cả.
Số phận miền Nam Việt Nam đã xong, Mỹ quay qua bàn
về việc
di tản nhân viên Mỹ và những người Việt đã
từng sát cánh làm việc với họ. Các chính khách lại xôn xao tranh cãi. Di tản cách nào, bao nhiêu người, lịch trình ra sao… Thay đổi từng ngày. Mới hôm
trước tin
tức nói là hai trăm ngàn người sẽ được di
tản, hôm sau chỉ còn lại một trăm ngàn...
Ngoài sự sợ hãi cho gia
đình, chúng tôi cũng lo lắng cho bao người thân quen, cho tất cả quân nhân, công chức và những người làm việc với Hoa Kỳ. Việt Cộng chiếm
được Huế chỉ có hai mươi sáu ngày trong dịp Tết Mậu Thân 1968 mà hơn bốn ngàn người bị giết, vậy thì sau khi
chiếm trọn miền Nam cuộc
trả thù lâu dài của họ sẽ dã man tới chừng nào?
Khoảng 24 tháng 4, ký giả của tờ Houston Chronicle, một trong hai tờ báo lớn nhất ở Houston, tìm đến phỏng vấn sinh viên người Việt. Tuy nhiên, nhiều người sợ liên lụy tới gia đình ở trong nước nên từ chối nói chuyện (có người còn bảo là đừng làm chuyện dại dột!). Thấy vậy, tôi và người bạn thân ở cùng phòng, dù không ở trong ban đại diện, đã tình nguyện gặp gỡ nhà báo. Bằng tất cả khả
năng, chúng tôi đã kêu cứu, đã nhờ họ lên
tiếng kêu gọi chính
phủ Mỹ
giúp đỡ quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa và tăng số người được di tản. Hôm sau, trang nhất của Houston Chronicle đã đăng tin về buổi nói chuyện này.
Đó là một bài
báo dài nói về hoàn
cảnh, tâm trạng, và
lời khẩn
cầu của những người trẻ Việt Nam Cộng Hòa
nhìn về đất nước đang hấp hối.
(Mãi đến mấy mươi
năm sau, khi tóc đã
bạc, tôi mới biết khá
đủ các dữ kiện về cuộc di tản năm xưa. Lúc đó, tôi mới thấy được sự thiếu tổ chức của Mỹ
trong những ngày cuối ở Việt Nam.
Trong khoảng hỗn loạn đó, lời kêu gọi của chúng
tôi chắc đã
biến mất
như hòn đá ném xuống vực thẳm.
Chỉ còn lại một an ủi
nhỏ nhoi là chúng tôi đã cố gắng hết sức
mình.)
Gần cuối tháng Tư, loáng thoáng có tin rằng một số người Việt đã đến trại tị nạn ở đảo Guam, nhưng hầu hết chúng tôi vẫn không có tin tức gì của gia đình.
Chúng tôi không còn tâm trạng nào để học hành. Cả ngày mọi người đọc báo rồi bàn bạc với nhau, chờ đến 5 giờ chiều để theo dõi tin tức trên TiVi cho đến tối.
Ngày 28 tháng 4, truyền hình Mỹ chiếu hình dân chúng chen lấn trước tòa Đại Sứ Mỹ, rồi hình hàng
trăm người nối đuôi nhau chờ lên chiếc trực thăng nhỏ xíu. Cả Sài gòn hoảng hốt, tan hoang. Có tin rằng Đại sứ Graham Martin quyết
định ở lại để trông coi cuộc di tản đến giờ phút chót.
Ngày 29 tháng 4, ông Martin
rời Sài gòn.
Đại sứ Graham Martin
Graham Anderson Martin was an American diplomat. He was
the ambassador to Thailand and as U.S. representative to SEATO from 1963 to
1967, ambassador to Italy from 1969 to 1973 and the last United States
Ambassador to South Vietnam from 1973 until his evacuation during the Fall of
Saigon in 1975.
Thế là hết!
Chúng tôi ngồi lặng, nhìn sự tan nát của lòng mình trong mắt nhau.
Ngày 30
Tháng 4, 1975.
Tin buổi chiều ngày 30 tháng
4, 1975: truyền hình Mỹ chiếu cảnh Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng. Rồi chiếc xe tăng của Cộng quân húc đổ cánh cổng, tiến vào Dinh Độc Lập.
xe tăng của Cộng quân
Phạm Xuân Thệ (phải) đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh.
Bản tin vừa dứt, hàng chục cánh cửa dọc hành lang của Cougar Apartments bật mở. Tất cả sinh viên Việt Nam túa ra, nhìn nhau. Mặt trời chiếu vàng hoe
trên những khuôn mặt sững sờ. Cảnh vật ở ngay trước mặt tôi mà như
xa xôi, như không thật, như đang trong một cơn ác mộng. Một cái gì rất to lớn, rất quý báu vừa đổ nát, tan hoang. Vài người bật khóc.
Chúng tôi ngồi lại bên nhau như
trong cơn mộng du. Sự xụp đổ của cả miền Nam quá thảng thốt, quá oan ức, quá vô lý. Đầu óc chúng
tôi vừa tê dại vừa rất tỉnh táo để thấy rõ lòng mình hụt hẫng.
Một số nhỏ trong đám
chúng tôi du học theo diện Học Bổng Quốc Gia, mỗi tháng được khoảng một trăm năm mươi đô la, vừa đủ sống một cách
tằn tiện.
Còn lại là sinh viên tự túc, một số được gia đình
gởi tiền
ăn học, một số đi làm tự nuôi thân. Nhưng, đối với tất cả, gia đình đều là
chỗ dựa
tinh thần và nguồn khích lệ, đất nước vẫn là
nơi hướng về của mọi hoài
bão. Nay chúng tôi trở thành
những người
vô tổ quốc, chơ vơ
không chằng, không rễ. Tuy không
ai nói ra, chúng tôi đều sợ hãi
rằng mình sẽ không
gặp lại
người thân, mãi mãi.
*
Tôi ngủ vùi cả tuần lễ sau đó. Mỗi ngày chỉ thức dậy vài tiếng, lê bước ra nhìn hộp thư (vẫn còn nuôi hy
vọng nhận tin tức gia
đình từ một căn cứ quân sự Mỹ nào đó), ăn một gói mì, uống vài ngụm cà phê, hút một điếu thuốc rồi lại đi ngủ. Dường như đó là cách cơ
thể tôi tự bảo vệ trước sự đứt đoạn, chia lìa quá bất ngờ.
Trong những cơn ngủ li bì, tôi thấy mình rượt theo một cái gì rất quý đang vùn
vụt xa. Tôi chạy hụt hơi. Tim tôi thót lại, chới với, hãi hùng.
Một buổi chiều, tôi tỉnh dậy. Ánh nắng sắp tàn chiếu qua khe cửa, tiếng người lao xao như vọng lại
từ một đời sống khác. Tôi với tay tìm ly cà
phê, nốc một ngụm. Thấy có gì là lạ, vội nhả ra. Đó là một con gián.
Cái giật mình vì con gián đã kéo tôi ra khỏi những giấc
ngủ trầm cảm.
Tôi nhớ ra rằng mình phải đứng lên. Vì tôi là nhịp nối duy nhất giữa thế giới tự do với gia đình sau bức màn sắt vừa xập xuống.
Sau đó, tôi được tin tức của hai người cậu và bà ngoại từ trại Ford Chaffee, Arkansas. Khi nghe tin đó, tôi càng tiếc nuối vì gia đình tôi không được may mắn đi cùng, nhưng dù sao có người thân cũng làm tôi được chút an ủi.
Điều an ủi thứ hai đến từ sự giúp đỡ của chính
phủ Mỹ.
Tất cả sinh viên du
học đều
được thẻ I94 với status là parolee.
Như vậy chúng
tôi trở thành
người thường
trú, được phép đi làm, không phải làm “chui”
ở mức
lương rẻ mạt như trước. Không
còn phải quanh quẩn với chân
rửa chén hay chạy bàn,
hầu hết
chúng tôi xin được việc khá hơn.
Tôi tìm được việc làm ở nhà máy, trông coi sự vận hành của guồng máy di chuyển gạo. Việc làm không nặng nhọc nhưng khá nguy hiểm vì chỉ có một mình trong ca đêm với những vựa gạo khổng lồ, cao mấy chục mét. Gạo đổ vào vựa như suối chảy, sơ ý mà té xuống, trong thoáng chốc là bị chôn trong gạo.
Mỗi đêm trong nhà máy mênh mông, im lặng, tôi bùi ngùi nhớ đến những ngày tươi đẹp ở quê nhà. Thời đó tôi đi giữa Sài gòn, lòng hăng hái với bao hoài bão cho đất nước. Năm 1973, khi mới sang Mỹ, điều làm tôi chú
ý nhất là phụ nữ ở đây sung sướng và được quý trọng biết bao. Những điều thấy được đã làm tôi nghĩ tới thân phận phụ nữ Việt Nam, chịu đau khổ trong hầu hết chiều dài của lịch sử nước mình.
Hình ảnh những người mẹ lăn lộn khóc bên hố chôn
tập thể,
những góa phụ còn trẻ như nữ sinh, những cô bé cõng em chạy loạn… Tôi bùi ngùi, thấy gần như có lỗi với họ. Tôi đã nuôi ước mơ học hỏi kiến thức chính trị để tìm giải pháp quốc tế cấm miền Bắc tấn công miền Nam. Tôi đã gom góp kiến thức khoa học cùng những giá trị xã hội tốt đẹp mong đem về xây dựng đất nước, để cho những câu thơ như “cô gái Việt Nam ơi, từ
thưở sơ sinh lận đận rồi” (2) không còn đúng nữa.
Nay đất nước đã bị nhuộm đỏ. Gia đình chia lìa. Ước mơ đứt đoạn. Tôi thấy thấm thía vô cùng câu “nước mất, nhà tan”…
*
Hội trường của đại học Stanford trong buổi thảo luận về ngày 30 tháng 4 của Hội Sinh Viên Gốc Việt. Những khuôn mặt trẻ trung, sáng rỡ đang im lặng lắng nghe…
“Đó
là câu chuyện của tôi
lúc tôi trạc tuổi các
em.
Mỗi năm, cứ vào thời gian này là tôi lại nhớ tới những diễn biến dẫn tới
ngày 30 tháng 4, 1975. Đối với tôi, đây là một ngày rất buồn vì
người dân
miền Nam – trong đó có tôi – đã không tìm được cách nào khôn khéo để giữ miền Nam đứng vững trong ván cờ chính
trị thế giới. Chúng tôi đã bó tay nhìn miền Nam xụp đổ
sau khi đồng minh bỏ đi. Sau đó
cả miền Nam bị đọa đày, mấy trăm ngàn người đã chết trong ngục tù và trên biển cả khi đi tìm tự do. Gia đình
tôi cũng tìm cách vượt biển nhưng lần đầu thất bại. Bố tôi bị bắt vào
tù và mất năm 1977.
Từ đó
đến nay đất nước Việt Nam bị cai trị bởi một chính quyền tham tàn, độc ác. Bốn mươi năm sau khi chiến tranh kết
thúc, xã hội Việt Nam ngày nay mất gần hết các giá trị đạo đức, khoảng cách giàu nghèo lớn chưa từng thấy, phụ nữ Việt Nam
lưu lạc khắp nơi kiếm ăn… Tệ hại nhất là nguy cơ mất nước về tay giặc Tàu ngày càng cao.
Tuy
nhiên tôi vẫn tin rằng nước Việt Nam sẽ không bị mất, rằng sẽ có ngày Cộng Sản xụp đổ và người dân Việt Nam được thật sự tự do, hạnh phúc.”
“Căn
cứ vào
đâu mà chú có thể tin tưởng như thế?” một em sinh viên giơ tay
hỏi.
“Tôi
tin tưởng như thế bởi vì bất cứ ở đâu,
khi người dân
bị dồn tới mức cùng cực thì họ sẽ vùng
lên đòi thay đổi. Và
cộng đồng người Việt ở hải ngoại sẽ vận động sự quan tâm của thế giới để chặn đứng âm mưu cướp nước của Tàu. Người Việt Nam có một truyền thống tranh đấu rất cao. Điều này đã được chứng minh nhiều lần trong lịch
sử. Thí dụ như Việt Nam
đã bị Tàu chiếm đóng nhiều lần nhưng cha ông ta vẫn không khuất phục. Tôi, các em, và tám mươi triệu người mang
giòng máu Việt ở khắp nơi
sẽ tiếp tục truyền thống đó.”
Khôi An
(*) Ca khúc Nhớ Mẹ do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Đại Tá Đỗ Trọng Huề sáng tác trong trại tù Cộng Sản.
(**) Thơ Hồ Dzếnh, Cô Gái Việt Nam
Ghi Chú:
1. Sau khi rút lui ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã từ chối di tản để ở lại chiến đấu với anh em đồng đội. Ông bị Việt Cộng cầm tù 17 năm và sang Mỹ theo diện HO vào năm 1993.
Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh cùng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đánh trận cuối với Cộng quân ở Láng Cạn, Bà Rịa đêm 28 rạng 29 tháng 4,
1975. Đến giờ phút chót, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù mới rút ra Vũng Tàu. Trung tá Đỉnh đã đứng ở bờ bảo vệ cho anh em lên tàu rồi cùng đồng đội rời Việt Nam ngày 29 tháng 4.
Thiếu Tá Vương Mộng Long cũng ở lại chiến đấu tới giờ cuối. Ông bị tù 13 năm, sau đó sang Mỹ theo diện HO năm 1988.
2. Lúc 5:30pm ngày 30 tháng Tư, 2015, cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo có buổi nói chuyện ở đại học Stanford,
California: Kehillah Hall in Taube Hillel House, 565 Mayfield Avenue, Stanford,
CA 94305-8456. Mọi người đều có thể đến tham dự.
Posted by Anges at 10:02 PM
Phụ Lục:
Nhớ Mẹ (Lê Minh Đảo) - Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Mai Thanh Sơn, Cardin, Nguyên
Khang
The Fall of Saigon, April 30, 1975
Thiếu tướng Lê Minh Đảo 42 năm nhìn lại Mặt trận Xuân Lộc
PHÓNG SỰ CỘNG ĐỒNG: Vĩnh biệt Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
No comments:
Post a Comment