Bản Tình Ca Của Một Người Tị Nạn
Thursday, March 19, 2020
Bản Tình Ca Của Một Người Tị Nạn - Nguyễn Văn Luận
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn,
tôi lặn lội tới vùng
giới tuyến
mong vượt thoát
vào miền Nam tự do.
Lần tới gần sông
Bến Hải,
đêm tối âm u bờ Bắc, tôi
đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì
bờ Nam
rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung
linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc:
"...sông
Bến Hải là
nơi chia cắt đôi
đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!"
Hoàng Oanh - Về Đây Anh (Nguyễn Hiền & Nhật Bằng) PBN 74
https://www.youtube.com/watch?v=aEEmndP689M
https://www.youtube.com/watch?v=aEEmndP689M
Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng
bên kia bờ sông lịch sử, uống từng
lời ca trong cơn đói
khát, rồi bừng tỉnh, lao lên
phía trước. Từ đâu
đó, mấy cái
nón cối xông
ra. Tôi bị trói
hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về địa ngục trần gian.
19 tuổi, lao tù
đầy đọa,
tôi đã mất mẹ, mất
cha, bị qui là tư
sản, xa
vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà
nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình.
Bạo quyền cộng
sản Việt Nam bắn giết hàng
trăm ngàn người, qui là
địa chủ.
Nhiều trăm ngàn người bị tập
trung lên rừng, để lại vợ
con không nhà không đất.
Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng
vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền:
"Chúng
tôi muốn sống!"
25 năm sau tôi
vượt biển,
thoát tới Hong Kong
(1981). Bốn mươi tư năm từ lúc
chào đời, thành
người tị
nạn cộng sản.
Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "anh có biết nói
tiếng Pháp"
. "Tôi
nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).
Ông gật đầu hiểu cả
tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà nội.
Đứng bên
rào kẽm gai, sau dãy
nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là
nước Mỹ
xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về
khi đất nước Việt Nam tự do, không
còn cộng sản.
Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân, trên
sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi.
Tiếng trẻ thơ kêu "Má",
tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình
của người tị nạn Việt
Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng
Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Người lính Cộng Hòa hiên
ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ.
Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai,
nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo
loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm mưa bão, Mai bị tên trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa
con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba" !
Tôi
mang nặng tủi nhục, đọa đày
triền miên đất Bắc đi tìm
tự do.
Mai gánh những thương
đau, mất mát, cơ cực của miền
Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng
chia xẻ cùng
nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành
trang cho bớt gánh
đoạn trường,
đi Mỹ.
Con đã có Má, có Ba. Má bồng Con, Ba xách túi,
Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các Chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn Con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng
"Cha", chỉ cho Con hình
người lính Cộng Hòa,
ở bất
cứ nơi đâu đều là Cha Con đó!".
Mai đã nhất định không đi kinh tế mới, tôi đã trốn công
tường, vào tù chịu đựng, bây
giờ dù bỏ lại quê
hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân, nước Việt sẽ không
trở thành cộng sản, chỉ có
số nhỏ
đang cầm quyền .
Quê hương mới của chúng tôi là
vùng đông bắc nước Mỹ.
Căn Apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.
Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân
chính"!
Nhìn con ngon giấc ngủ Thần Tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì
thầm những dự định tương
lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền
nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn
trả dần 12 tháng,
giúp cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý
nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai".
Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng.
Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi.
Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành
bất lương.
Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người .
Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp".
Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả
được những gì muốn nói.
Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy "Boatpeople", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm
nên bà có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở
hiền gặp lành"
hay là "sự may mắn cho
gia đình tôi" Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu"
lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé
Nam" đi học, chúng tôi xin
được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen
"Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau,
không hiểu, lát nữa về tra tự điển.
"Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!"
Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má
Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước.
Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà
Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn turkey.
Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!".
Bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".
Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa
lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Bà suy
nghĩ mấy ngày,
bỏ dự định
chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình
người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa Đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng
Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con.
Cũng như Má Jen, Mai không thích xa hoa,
theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung , miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.
Tôi làm
technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công
an Hà nội lấy công
nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành
điện tử, nay
chắc tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ, ngồi trước máy
computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng eMail, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một Gia Đình thật sự yêu thương.
"Ngày
mai, chúng mình đi New York thăm con". Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 foot, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen
trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York.
Ngày
con ra trường là
ngày vui trọn vẹn, ngày
con nhận việc mới là
niềm
sung sướng của Má, của Ba, của Gia
Đình tị nạn, mong ước
từng ngày cho Con thành Người.
Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình.
Tháng Chín, sang Thu, se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương
lai.
Người cộng sản muốn làm Hung Thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài
phần thì xụp đổ, sót
lại từng mảnh
vỡ điêu tàn. Hung Thần đã chết.
Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi
kính cẩn tri ân
người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương
cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc GiaViệt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ.
Người lính chiến Cộng Hòa hiên
ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác.
21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt
Hung Thần, cứu sống thêm
hàng triệu người vô
tội.
Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền,
cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người Lính chiến.
Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều
hơn nữa.
Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn Chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót
20 năm rồi, không
biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc
động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài
Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
Nguyễn Văn Luận
1 comment:
BrandonMarch 19, 2020 at 11:21 AM
Thật xúc động đọc "Bài tình ca
của 1 người tị nạn".
Tác giả người miền Bắc mà tấm lòng người miền Nam. Kiên cường, bất khuất dẫn đến thành công. Chúc ông luôn hạnh phúc những ngày còn lại trên vùng đất Tự Do.
No comments:
Post a Comment