Bao giờ nỗi hận sầu thế kỷ của người dân Miền Nam sẽ được giải oan?
WEDNESDAY, FEBRUARY 6, 2019
Bao giờ nỗi hận sầu thế kỷ của người dân Miền Nam sẽ được giải oan?
Nguyễn Thiếu Nhẫn
Dẫn nhập: Nhà hoạt đông cộng đồng Tôn Nữ Hoàng Hoa với bài tâm bút “Nỗi hận sầu thế kỷ của người dân Huế”
đã chạm đến trái tim của nhiều người xứ Huế – nạn nhân của cuộc thảm
sát Tết Mậu Thân.
Bài viết sau đây sẽ trình bày nỗi
hận sầu thế kỷ của những người dân Miền Nam với ước vọng cuộc bể
dâu này sẽ được giải oan.
1. TỪ “NGÀN GIỌT LỆ RƠI”
Trong bài “Cuộc chiến cách tân Việt Nam khỏi chủ nghĩa Cộng Sản”, nhà nghiên cứu Lê Quế Lâm cho rằngcuộc chiến tại Việt Nam là một cuộc chiến cách tân để đưa đến việc giải thể chế
độ Cộng sản Việt Nam. Và tác giả cũng đã giới thiệu nhà văn Yung Krall, tức Đặng Mỹ Dung (từ nay viết tắt là ĐMD) với tác
phẩm A Thousand Tears
Falling tức Ngàn Giọt Lệ Rơi (NGLR).
A Thousand Tears Falling
Theo ông Lê Quế Lâm thì, bà
ĐMD đã chống Cộng có ý thức ngay từ buổi thiếu thời, khi bà sống với cha là ông Đặng Quang Minh, một đảng viên CS nhiệt thành trong các bưng biền kháng chiến. Và tác giả Lê Quế Lâm đã trích dẫn một số ý thức của bà ĐMD trong tác phẩm NGLR, như sau:
“Tôi nhớ hoài ngôi nhà ở gần ngã tư Ong Vèo. Ngôi nhà ngói đỏ, trước hiên có bốn cây cột gỗ mun to tướng. Nhà này không phải là nhà riêng, mà là cơ quan hoạt động chánh trị của ba tôi. Má tôi biết Việt Minh lấy nhà của những điền chủ giàu có để làm trụ sở, các cơ quan và nhà ở cho gia đình cán bộ. Má tôi không thích chủ trương cướp nhà kiểu này,
mà phải âm
thầm sống trong hoàn cảnh trái
với lương tâm
mình. Rồi má
tôi xin tiền của ông
bà ngoại để lén
trả tiền mướn nhà và đất cho chủ điền. Và mỗi lần di chuyển đến địa phương khác, VM vẫn mượn nhà, mượn đất như vậy. Má tôi phải trả tiền để không bị lương tâm cắn rứt. Đó
là một phim tài
liệu trắng đen chiếu đi chiếu lại trong tâm khảm tôi mà má tôi là người kể chuyện”. Lúc đó MD 5 tuổi.
Sau đó, gia đình
MD theo cha tới “Kim Qui. Là một rừng tràm
sát bên bờ rừng U Minh, có
con kinh chảy ra biển, gần Đá
Bạc. Thế
là có sự hiện hiện của
nhiều khuôn mặt “đưa đám” trong
nhà… Đó là các cán bộ từ phương xa đến, có người nói
giọng
Nam, có người nói giọng Huế, giọng Trung; và có cả người nói
giọng Bắc… Đối với ba tôi
thì người miền nào
đến đây cũng là đồng chí của ông”.
NGLR nhắc đến địa điểm Kim Qui Đá Bạc, khiến người đọc “rùng mình rởn tóc”
về tội ác của CS. Nơi đây Việt Minh đã giết hại rất nhiều người yêu nước, điển hình là ông Hồ Văn Ngà, thủ lãnh Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng.
Giữa tháng 8/1945, được tin Nhựt đầu hàng, ông Hồ Văn Ngà đứng ra kêu gọi các đảng phái chính trị và tôn giáo hãy đoàn kết lại, thành lập “Mặt trận Quốc gia Việt Nam Thống nhất”
“đấu tranh chống thực dân
Pháp sắp trở lại Nam Kỳ, để bảo vệ nền độc lập tự do”. Khi Việt Minh rút lui khỏi Sàigòn trong đêm 23/9/1945, ông cùng Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Kha Vạng Cân thành lập Ủy ban Phong tỏa Đô thành Sàigòn-Chợlớn để chống Pháp. Nửa đêm hôm đó, VM tới bắt ông dẫn đi biệt tích.
Về sau
người ta được biết năm 1946, ông
Hồ Văn
Ngà bị đập chết bằng
củi đòn, thi hài bị thả trôi sông ở vùng
Kim Qui Đá Bạc (Nguyễn Long Thành Nam,
Phật Giáo Hòa Hảo trong lòng
lịch sử
dân tộc, Nxb Đuốc Từ
Bi, California, 1991, Tr.366). Trong sách Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương
Hồng Sển đã kể lại khi bị VM quy tội Việt gian, ông Hồ Văn Ngà đã trả lời như sau: “Các anh muốn giết tôi thì giết mà đừng gán
cho tôi tội Việt gian” (Nxb Văn Nghệ, California, 1995, tr.162).
Vương
Hồng Sển
Tác giả ghi lại ký ức ngày Tết đầu năm 1955 tại nhà ông bà ngoại, năm ĐMD 9 tuổi, trước
khi thân sinh cô và các cậu lên đường tập kết ra Bắc.
“Bữa cơm cuối cùng trong gia đình
bị gián đoạn bởi một chuyện bất thường xảy ra. Trong khi chúng tôi đang ăn, một người có trách nhiệm giữ an ninh cho ba và mấy cậu bước vô, xin nói chuyện với cậu Chín Thùy…Một lát sau ba tôi trở lại bàn ăn, nói cho gia đình biết là có một người đàn ông muốn băng qua lộ để về Cái Thanh, một làng nhỏ bên kia quốc lộ số 4. Ông ta nói rằng má của ông đau nặng, ông muốn về thăm má. Không một ai trong nhóm giữ an ninh biết ông là ai,
nên họ quyết định giữ người
này lại. Ông ngoại ngồi nhâm nhi cốc rượu, chờ ba tôi dứt lời mới lên tiếng: “Thà bắt lầm hơn thả lầm, phải không con?”
Ông cho rằng ba tôi không có
quyền quyết định khi
chuyện có liên quan đến gia đình người khác.
Ông nói “Nếu má thằng Khôi
đau nặng, cậu muốn thằng Khôi về thăm má
nó, con tính làm sao?”
Sau bữa ăn, cậu Chín dẫn người đàn ông vô nhà. Ông ta là một nông dân. Chân ông còn dính xình khô, quần xắn lên khỏi đầu gối và ướt nhẹp. Ông khép nép ngồi bên mép chiếc ghế đẩu, mặt đầy lo sợ. Ông cúi đầu chào gia đình tôi, nhưng không dám nhìn thẳng mặt ai. Người đàn ông lập đi lập lại lý do cần phải băng qua lộ đêm đó “Má tui đau nặng, tui phải
gặp bả trước khi bả nhắm mắt ông
à”. Tôi thấy bác nông dân
ôm mặt khóc.. Tim tôi đau nhói khi tôi nghe tiếng nức nở của bác.. Tôi
nhìn người đàn ông trạc tuổi ba tôi, ngồi trước mặt ba tôi và các cậu Tư, cậu Chín. Những người đàn ông này đều có mẹ già, ai cũng biết thương yêu, và ai cũng được yêu thương.
Rồi tôi tự hỏi cái gì đã tạo nên sự khác biệt giữa người đàn ông này và những người đàn ông trong gia đình tôi? Người nông dân nầy đã vô tình
đem tôi ra khỏi cái nôi của “cách mạng”. Lần đầu tiên trong tuổi thơ, tôi dám nghĩ
thầm rằng hành động đêm đó của ba tôi vừa tàn nhẫn, vừa sai bét. Tôi nói thẳng với ông là ba
không công bằng với người nông dân nên tôi ngủ không được.
Hai mươi năm sau (1975) tác giả đến thăm cha ở Tokyo, là kẻ vừa chiến thắng….
“Khi bước vào
phòng ông, tôi thấy ông
đang ngồi cạnh một xấp giấy, trông giống thẻ căn cước, nhưng lớn hơn. Tôi tò mò cầm một thẻ lên
coi thì biết đó
là giấy gọi nhập ngũ của Mỹ. Giấy này được gởi đi vào
tháng 7/1969 cho một thanh niên
19 tuổi. Lúc
đầu tôi nghĩ đây là thẻ động viên của một người lính
Mỹ tử
trận. Một niềm thương cảm tràn
ngập
trong lòng. Chết cho tổ quốc
là một vinh dự. Nhưng
tình thương bị dập tắt ngay
khi ba tôi cho biết những thẻ động
viên đang để trên bàn là những thẻ của những tên phản chiến. Khi nhận được lệnh nhập ngũ thì chúng bỏ trốn, rồi gởi những thẻ này đến Tòa
Đại sứ
của MTGPMN. Tôi giận tím người khi biết chúng là những tên phản quốc. Như đổ dầu vào lửa, ba tôi vui vẻ nói; “Điều đó chứng tỏ rằng Mỹ đã sai lầm khi tham chiến ở VN”.
Tôi chưa cần phân tích xem
Mỹ sai lầm ở chỗ nào, nhưng đã nhận ra một sự thật làm tan nát tim tôi.
Đó là sự ngăn cách giữa hai cha con tôi quá lớn; chúng tôi gặp nhau chỉ để xa nhau thêm mà thôi. Lẽ thường ở đời, ai không muốn ngả theo phe thắng, để mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Nhưng tôi thì không, tôi không bao giờ phản lại Quốc Gia, phản lại lý tưởng mà gia đình tôi đã đi theo. Vì lý tưởng đó mà em trai tôi đã chết khi mới chập chững bước vào binh nghiệp. Tôi nghiêm giọng nói với ba tôi: “Hạng người phản chiến nầy chỉ là những tên
phản quốc, hèn
nhát, nên mới gởi những thẻ nầy cho kẻ thù”. Ba tôi lắc đầu: “Mỹ nhẩy vào VN là một sai lầm to lớn. Những người Mỹ
trẻ này đã
sáng suốt nhận ra như vậy”. Tôi cãi: “Họ ngay thẳng, thật thà, làm sao hiểu nổi cái lưu manh của cộng sản. Vậy khi Liên Xô và Tàu Cộng viện trợ khí giới cho các
du kích của MTGP giết đồng bào, thì có chính nghĩa không? Cuộc chiến này sai bét vì người Việt lại giết người Việt”.
Ông dịu dàng nói: “Ba không muốn tranh luận với con gái cưng của ba. Vì ba không bao giờ muốn thay đổi cách suy nghĩ của con. Nếu con hài lòng với niềm tin của con, tức là con đang có hạnh phúc. Đối với ba, gia đình rất đáng quý”. Tôi trả lời “Nhưng đảng của ba còn đáng quý hơn tụi con”. Ba tôi chậm rãi: “Đất nước trên hết đối với ba. Con can đảm, con đã tự lập, con lo cho con được. Con OK”. Tôi lấn tới: “Tất cả người dân miền Nam cũng đã OK. Vợ của ba, con cái của ba đều là
hình ảnh của người dân miền Nam sống đơn sơ và hạnh phúc.
Chúng con không có gì khác biệt với mọi người. Những nhu cầu, những
mơ ước của chúng
con đều là
nhu cầu và
mơ ước của hàng
triệu dân
miền Nam. Và
mọi người đã
OK, cho đến ngày
Hà Nội đem quân
xâm chiếm miền Nam”. Ba tôi gật đầu: “Ba biết rõ những nhu cầu của người miền Nam. Ba hứa sẽ cố gắng hết sức
mình để đáp ứng những nhu cầu đó”. Tôi chưa kịp nói gì thêm, ông đã đề nghị: “Mình nói chuyện khác đi con”.
ĐMD từng tâm sự “Tôi
yêu ba tôi vì tôi yêu người đã
xả thân cho đất nước. Tôi
có làm phiền lòng
ông, chỉ vì tôi
dám nói lên là ông đã bước quá
sâu vào cạm bẫy của một lũ người phản quốc”.
Để kéo ông ra khỏi cạm bẫy CS ở tuổi cuối đời, trong các cuộc gặp gỡ sau đó ở Paris (1976) và London (1977), ĐMD gợi ý ông về hưu, đoàn tụ với gia đình với lý lẽ: “Ba đã cống hiến gần hết cuộc đời cho dân tộc. Nay đất nước đã hòa bình, ba 68 tuổi rồi, chúng con muốn ba về sống với má và chúng con. Ba chọn một nước trung lập nào ba thích, dành quảng đời ngắn ngủi còn lại để má
và chúng con được cận kề bên
ba. Đó là lẽ công
bằng.”
Ông dứt khoát: “Ba là người VN, sanh ra ở VN và sẽ chết ở VN.”
Trong khi đó,
đại diện
MTGPMN tại Paris là Phan Thanh Nam và các đồng chí của ông
ta ra sức “động viên”
ĐMD thuyết phục bà
mẹ trở
về nước. Y tuyên dương
hành động trở về của bà
là một chiến thắng lớn của VN, là cái tát vào mặt TT Gerald Ford và Chính phủ Mỹ đã
cho CIA bắt cóc
bà đem về Mỹ.
ĐMD không có ý định “tát vào mặt” chính quyền Hà Nội khi thuyết phục người cha
rời bỏ VN. Hành động này chỉ muốn nói lên sự thức tỉnh của một người CS sau khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Nhưng ông phản đối ý kiến của con, cho đó là thái độ vô cùng ích kỷ. Ông phải trở về nước, hoàn thành nhiệm vụ giúp Miền Nam tái thiết, để phát triển vững mạnh trong một thời gian năm bảy năm, trước khi thống nhất với Miền
Bắc. Trong khi ông lạc quan ở Paris, thì
số cán bộ MTGPMN sau chiến thắng 30/4/1975 đã thấy rõ
thân phận của mình,
như câu nói của người xưa “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh” (Thỏ chết thì
chó săn bị làm thịt).
Kỹ sư Trương Như Tảng, Ủy viên Trung ương
MTGPMN và là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MN đã bày tỏ sự bất mãn khi CS
chiến thắng MN, “một quyền lực sắt thép bao trùm khắp nước VN. Lúc thắng trận cũng là
lúc CS bắt đầu loại bỏ MTGPMN. Trong buổi tiệc đơn sơ được tổ chức
vào năm 1977 để chính thức giải thể MTGPMN, Đảng CS và chính quyền Hà
Nội không thèm cử đại diện đến dự”.
Trương Như Tảng
Ý định thuyết phục thân phụ lìa bỏ CS bất thành, ĐMD dấn thân vào nghiệp vụ điệp viên chống CS. Nhờ Phan Thanh Nam đón tiếp một cách nồng hậu ở Paris, cô có dịp đặt chân vào trụ sở MTGPMN và văn phòng bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Paris. ĐMD đã tiếp xúc với Đại sứ Hà Nội Võ Văn Sung và phát hiện một số cán bộ CS nằm vùng ở Paris. Những ghi nhận về nhân sự và hoạt động của CSVN tại Paris đều được ĐMD báo cáo cho CIA. Cô giữ mối liên lạc với những người CS bạn của ba cô ở Paris, ông có uy tín lớn đối với họ. Những người CS tin tưởng ĐMD với tình thương cha sâu đậm, cô sẽ giúp họ thu thập những tin tức kỹ thuật và tình báo từ chồng cô. Lần hồi qua sự giao tiếp, cô được Đại sứ Võ Văn Sung giới thiệu với Chủ tịch hội Việt Kiều yêu nước ở Mỹ và Đinh Bá Thi, đại sứ CSVN ở Liên Hiệp Quốc. Qua Phan Thanh Nam cô gặp Trương Đình Hùng và một số cơ sở CS hoạt động ở
Hoa Thạnh Đốn. Hùng nhờ cô chuyển một số tài liệu mật do Ronald Humphrey (một viên chức cao cấp của bộ Ngoại giao HK được phép đọc tài
liệu mật) lấy trộm từ Bộ Ngoại Giao.
ĐMD trao những tài liệu mật này cho CIA
để tráo thành tài liệu giả chuyển đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở Paris. Humphrey có vợ là cháu của một nữ cán bộ CS, ông liều lĩnh hành động để CS sớm cấp giấy xuất
cảnh cho vợ.
Nguyễn Thị Bình
Bọn phản chiến và
các hội Việt kiều yêu
nước đã tiếp tay giúp
CS chiến thắng ở MN. Sau đó
chúng ra sức tuyên
truyền, phá
hoại và tranh thủ đồng bào
tị nạn
vừa mới đặt chân đến Pháp và Mỹ. Việc ĐMD phát
hiện các ổ CS nằm vùng,
các tổ chức Việt Kiều yêu
nước và ra toà làm nhân chứng để phá vỡ mạng lưới gián
điệp của
Hà Nội ở Mỹ là một đóng
góp lớn giúp
củng cố
và phát triển Cộng đồng
Người Việt Tự do ở HK trong bước đầu hình
thành khi làn sóng thuyền nhân
ồ ạt đến
Mỹ hồi cuối thập niên
1970.
Trong lời nói đầu quyển A Thousand Tears
Falling, ông Griffin Boyette Bell, cựu Bộ trưởng Tư pháp HK, đề cao “Yung Krall (tức Đặng Mỹ Dung) đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tình yêu nước Mỹ đã dẫn dắt cô
trở thành
nhân chứng then chốt trong vụ án gián điệp mang tên Con Rồng Kỳ Diệu. Tôi nhiệt liệt tán thưởng sự nghiệp của cô đối với nước ta (HK), và tôi vui mừng thấy câu chuyện của ngưòi phụ nữ xuất sắc nầy cuối cùng đã được để cho mọi người cùng đọc và biết đến…”
Yung Krall
Griffin
Boyette Bell
Griffin Boyette Bell was
the 72nd Attorney General of the United States and previously was a United
States Circuit Judge of the United States Court of Appeals for the Fifth
Circuit.
Riêng cá nhân tôi, ĐMD còn là một người VN yêu nước trong sáng, chống CS có ý thức. Chị đã góp phần giúp HK tiến hành cuộc chiến “cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS”. Một nước VN dân chủ tự do, không CS, là nguyện vọng tha thiết của mọi người VN yêu nước. Quyển NGLR là cuộc đấu lý có tính ý thức hệ, bày tỏ thái độ chính trị giữa người con Quốc Gia và người cha yêu nước theo chủ nghĩa CS.
2. ĐẾN BIỂN MÁU
NGẬP TRÀN:
Bài viết này xin
không kể đến những tội ác tày trời mà Đảng CSVN đã gây ra trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc mà chỉ kể những tội ác mà CSVN đã gây
ra cho đồng bào miền Nam sau tháng 4 năm 1975. Sau khi chiếm trọn miền Nam, CSVN đã phạm nhiều tội ác chống nhân loại đối với đồng bào miền Nam một cách quy mô và có kế hoạch:
–Tội đưa đi lưu đày (deportation) 1.5 triệu đồng bào
miền Nam tại
những nơi rừng thiêng nước độc mà chúng đặt cho cái
ngụy danh là “vùng kinh tế mới”. Khí
hậu khắc
nghiệt tại những nơi lam sơn chướng khí
này đã gây ra những cái
chết cho nhiều
chục ngàn người.
–Tội xử tử một cách phi pháp
(ex-trajudical, or summary, execution) 100.000 quân dân
cán chính VNVCH trong thời gian 10 năm kể từ sau tháng 4 – 1975, gây đau thương suốt đời cho hàng trăm ngàn thân nhân ruột thịt của họ.
–Tội giết 160..000 người bằng cách đuổi theo pháo
kích và bắn trực xạ trong nhiều ngày vào đoàn người chạy giặc suốt theo chiều dài của Tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuống duyên hải trong tháng
3 năm 1975, để lại đau thương suốt đời cho hàng trăm ngàn thân nhân của họ.
–Tội giam cầm phi pháp (imprisonment
without formal charge or trial) 1.000.000 quân dân cán
chính VNCH trong những cái
gọi là “trại cải tạo” với thời gian bị giam cầm từ 3 tới 10 năm, và có nhiều người đã
bị giam tới
17 năm. Tội ác này đã
gây đau khổ tinh thần cho hàng
triệu thân nhân ruột thịt của họ.
–Tội ác thủ tiêu mất tích (enforced disappearance of person) 165.000
quân dân cán chính VNCH bị chết vì
đòn thù trong các trại tù
cải tạo. Hiện
nay VC còn đang chôn giấu 165.000 bộ hài cốt của những người này
trong rừng núi
với chủ tâm trả thù,
gây thống khổ tinh thần suốt 43 năm nay cho hàng trăm ngàn cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái của họ.
–Chế độ độc tài khủng bố của VC đã
là nguyên nhân xô đẩy 3.000.000 đồng bào
miền Nam lao
ra biển trên những con thuyền mỏng
manh để đi tìm tự do, gây ra những cái
chết thảm
cho 700.000 đồng bào trên
biển cả, để
lại đau thương suốt đời cho hàng
triệu cha mẹ,
vợ chồng, anh chị em, con cái
của họ.
–Chúng tổ chức vượt biên để thu vàng và cướp nhà của dân: khi thuyền vượt biên tới hải phận quốctế, chúng cho công an dùng thuyền cao tốc đuổi theo bắn chìm thuyền và
giết chết những
người đã nộp tiền cho chúng. Đây là một tội ác
man rợ của VC đối với đồng bào miền Nam.
Một số tội ác
kể trên đã đủ chứng minh rằng hầu hết các gia đình tại miền Nam đều là nạn nhân
của tội
ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại của CSVN.
*
Xin thưa phần trên của bài viết, tôi đã mượn phần trình bày của hai tác giả Lê Quế Lâm và Đỗ Ngọc Uyển để trình bày về những nhức buốt của một cuộc chiến đã im tiếng súng trong 43 năm qua; nhưng vẫn còn âm thầm tiếp tục tàn phá và vắt kiệt sinh lực của dân tộc Việt Nam và đất nước đang có nguy cơ lệ thuộc ngoại bang.
Phần đầu, tôi mượn phần trình bày của tác giả Lê Quế Lâm về bi kịch mà bà Đặng Mỹ Dung và gia đình bà phải gánh chịu trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản.
Với bi kịch của đời mình, bà Đặng Mỹ Dung đã
viết thành tự truyện Ngàn
Giọt Lệ
Rơi.
Phần thứ hai, tôi trích một đoạn ngắn từ bài viết “Con Đường Hoà
Giải Dân Tộc” của tác giả Đỗ Ngọc Uyển với ước vọng là sẽ có những người cầm bút sẽ tổng kết coi có bao nhiêu xương máu đã đổ xuống trong cuộc chiến mà ông Hồ Chí Minh đã theo đuổi và quyết tâm áp đặt chủ nghĩa cộng sản cho đất
nước Việt Nam.
Chỉ trong một gia đình
của bà Đặng Mỹ Dung đã
ngàn giọt lệ rơi.
Trong cuộc chiến “xẻ dọc Trường Sơn” với đoàn quân
“Sinh Bắc, tử Nam” của ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN, dân tộc Việt Nam đã đổ xuống bao nhiêu máu xương trong
cuộc bể dâu này?!
Có bao giờ các vị lãnh đạo của Đảng CSVN hiện nay nghĩ đến chuyện:
“Đây
chén rượu nồng xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc bể dâu này!”
(thơ Tô Thuỳ Yên)
Tô
Thuỳ Yên
Hay là quý vị “vẫn quyết tâm tát cạn, bắt lấy” 3 triệu người Việt tỵ nạn hải ngoại là những người đã vì sự cai trị hà khắc của quý vị mà phải liều chết vượt biển để tìm tự do trên những chiếc thuyền mà mạng sống mỏng manh – như những
con muỗi mắc trong nghiên son?!
Nguyễn Thiếu Nhẫn
Phụ Lục:
No comments:
Post a Comment