Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Saturday, April 27, 2019
Quốc Hận 30-4-1975: Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Mường Giang
Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250.000 người gục ngã trước đạn thù
và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã
gửi lại
sa trường. Tuy nay chính
phủ cũng
như QLVNCH không
còn nữa, nhưng trong tâm
tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và
danh dự của Người Lính
càng được sáng
tỏ,
trong niềm hãnh
diện
chung của quân-dân
Miền
Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của
Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận.
Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống
trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremburg chỉ kết tội
những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật…
Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương
thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu.. đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính
mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc
nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị Cộng Sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có Cộng Sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong
vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để
trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội.. mới biết được thế nào là nổi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người
lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “ cảnh ba đồng, ba cộc “ của kiếp lính Miền Nam.
Nhức nhối và mai mĩa nhất, đó là hiện tượng ‘thuyền nhân
ty nạn‘ sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “ những tên
tuổi lớn
“ một thời chạy theo
VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố.. kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội.. cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được ty nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ
đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào.. để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là
người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu
phương, để yên
tâm tiếp tục cầm súng
giết giặc
bảo vệ cho người dân.
Trái lại họ còn
bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán
đứng.
Ngày trở về thì bị giặc trả thù
đầy đoạ,
rồi chết thầm trong đói
nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua,
xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao
túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm
kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bảo, chính sự khoắc lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong
cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.
Câu
chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài
Gòn, vì không thể chịu nổi hành
động dã man, đẩy các
trẻ em
trong xóm ra làm lá chắn đở đạn cho
đồng bọn tẩu thoát.
Vì quá tức giận không
kềm chế
được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên
VC chỉ huy là
Bảy Lốp,
tại ngả ba Vườn Lài
(góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng
viên Mỹ là
Eddie Adams, nên đã chụp được tấm hình
này, đem bán rao khắp thế giới và
nhận được
giải thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới ty nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có
Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại .
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn
“ Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi “.
Ngày tướng Loan qua đời, Eddie lại
viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gới tới một
vòng hoa phúng điếu, trên đó có
đính một danh thiếp viết
tay
“ General, I ‘am so, so, so.. sorry “.
Bao
nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “ sống nhờ người ty nạn “ nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.
Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SD Dù, TQLC, Sư
Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn
1 BDQ có bị tổn thất nặng nề.
Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại Úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PDC/44, tham dự cuộc
hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký
“ Tử thủ Căn Cứ Hỏa
Lực 30, Hạ Lào “ là viết sự thật.
Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ &Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và
thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).
Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm chĩa tin từ báo Mỹ“ rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng
không có đại bàng
“ rằng “ VC đâu có quân số đông đảo để đánh
QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo.
Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”.
Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc
đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ
cho “đám này“, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng
để chiến
đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng
cho người khác,
chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có
được một
tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì
đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của
thế giới tự do khi đã biết được sự thật
cùng ý nghĩa của cuộc chiến
mà người Miền Nam phải
bán mạng để chống ngăn
giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng.
Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng
của đồng
bào hậu phương, đối
với người chiến sĩ VNCH, khi chính
bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã
trở thành nạn nhân
tận tuyệt,
của một chế độ bạo tàn, của những con
người không có nhân tính, mà hôm
qua chính người dân
coi như thần thành,
nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì
giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và
cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông
tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng
còn có thể tha thứ nhưng những
hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây
phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọt, phá hoại những người đang liều mạng xã thân bảo vệ mạng sống thừa thải ký sinh của mình.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương
lần thứ hai
(1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước.
Trái lại cuộc chiến lần này,
người Miền
Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân
nửa mảnh đất
VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản.
Nhưng với bọn trí thức thiên
tả, phản
chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn
phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.
Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quảng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ
thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần
gian của các nước Cộng Sản, trong đó có CSVN.
Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay
có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “ Trại Cải Tạo “ để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nổi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói
chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nổi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, trùn đất, cào cào.. kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẳn bên cạnh :
‘Ngày
hành xác giữa núi
rừng hoang vắng,
đêm
ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây
càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống,
thằng đày
sang trại khác
thằng chống lại
thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau
thân xác cũng không còn
đem
xác người đi phá
núi dời non
đem mạng sống để gở mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu
kéo cầy phá
vỡ ruộng hoang
buổi sáng
gượng vui nhìn
lúa trổ bông
nữa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi
đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi
đã nhét đầy tài
liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn “.
(thơ mường giang).
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết, CSQT cũng không
tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô Nhi Tư Sĩ của VNCH, lại càng bị đoạ đày
thê thảm. Tất cả năm tháng
dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện
như một chứng tích
nghìn đời không
phai mờ :
Ðó
là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ
vẹn toàn, được đào
tạo từ
các quân trường nổi tiếng
nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các
Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà
Lạt, Bộ
Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các
Trung Tâm Huấn Luyện Không
Quân và Hải Quân,
Học Viện
Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát,Trường Ðại Học Quân Sự.. chứ đâu
phải chỉ
có những tướng tá từ thời Pháp
thuộc ?!
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi
trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa :
‘..xin
vì chàng, xếp bào
cởi giáp
xin
vì chàng giũ lớp phong sương
vì
chàng tay chuốc chén
vàng
vì
chàng điểm phấn đeo hương não nùng.. ’
(Chinh Phụ Ngâm Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái
diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này,
có quân đội nào
bất hạnh
hơn QLVNCH ?
Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính.
Không biết trong tâm tư đó, có một giây
phút nào do lương tâm xao động, khiến trái
tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN
?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘...tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi
đã phơi thây
đoàn
quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà
khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc
hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng
hoa, khép giữa hư vô'
(thơ Mường Giang)
Xin nghiêng
mình trước đồng đội đồng bào
đã hy sinh vì đại nghĩa Dân
Tộc Việt.
Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô
nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 4-2013
Mường Giang
Posted by Anges at 9:24 PM
No comments:
Post a Comment