Chôn Một Chế Độ
Friday, March 15, 2019
Chôn Một Chế Độ
Tôi
sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là
chuyện đương nhiên.
Xứ VNCH ta, Bộ
Binh, Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng 5 Duyên Hải; Phú Quốc, Côn
Sơn. Như nhiều chàng
lính biển khác,
tôi có thừa tài
xạo. Xạo
như thật. Xạo với gái
bán bar, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái
nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính
lưới hôn nhơn. Đời lính
biển đầy
những chuyến hải hành
dài cả tháng
mà có vợ thì
xác suất nuôi
con của thiên
hạ rất
cao.
Thôi
thì cứ xạo với mấy em bán
bar, mấy cô
chịu chơi
cho đời vui cái đã
rồi tính.
*
Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông uý.
Ông
bà nội tôi
là loại điền chủ sau khi đã bị chánh
phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa
nhận được lược giải cá nhân.
Làm lính chưa đầy 6 năm tôi mang lon
Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ,
nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên
trung úy thì tự động.
Dù làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5 ngày sau mới về; vì đi 6 ngày
bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là
"Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.
Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi
đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà
muốn ra đi thì tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa
lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều.
Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không
vào được tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.
Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building 4 tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành
chánh tỉnh Gia Định quẹo
qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt.
"Thế là
hết; Tôi
thua trận; Tôi
bị mất Nước!"
Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày
sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình
diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây.
Ngôi đình nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng.
Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây
là lúc phải xài
tài ba xạo. Mấy ông
họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú
bác anh em nhà tôi đều theo kháng
chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì
lệnh trên bắt khai lại. Lý
lịch của
tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào
trong bâu áo. Mỗi lần khai là
lần lấy
ra xào lại.
Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC
và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển
trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.
Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù
cho biết đây
là Trại Cải tạo Vườn Đào.
Tên Vườn Đào
là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào
lộn hột
nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi
được một
số trại viên cũ cho biết họ bị bắt
trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không
thể tìm cách giăng mùng.
Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng
nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.
Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng
tới lúc kết thúc.
Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn
bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn
bao nhiêu giữ lại. Vậy là
hết thời
vung vít.
Trong trại, ngoài màn lao
động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự
khai” rồi “thu hoạch.” Anh
nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý
lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm.
Tôi
thì tuyên bố tao không
cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao
không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.
Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm
việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hâm
he:
- Tao
mà bị gì
thì thằng nào
báo cáo nên trốn đi chứ không
thì đừng trách
tao nặng tay.
Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi
gọi anh lên
chỉ để nói
chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.
Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên
trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi
vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì
thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà.
(Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành)
Chuyện trò lan man,
anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.
Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về,
viên Trung Uý còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình
có lý. Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:
- Trung Úy
Chính Trị Viên (thay vì nói là cán
bộ) kêu
tao lên hút thuốc nói
chuyện chơi và
khen bài viết của tao có
thể xuất bản thành
sách cải tạo!
Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng
ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.
Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý
chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo
“Hôm
nay anh sẽ làm
việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau.“
Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn
phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi.
Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang
ra:
- Anh vô
đi.
Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh
ngó lui coi. Tôi ở đây.
Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa
quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh
không nhớ tôi
đâu nhưng tôi biết anh. Tôi
biết anh đánh
lộn trong trại.. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.
A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bar
nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh
đang cố nhớ mà
không thể nhớ ra. Tôi
không ở những nơi mà
anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn
tôi coi có nhớ gì
không?
Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:
- Anh
đừng cố tìm
tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.
Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô
ta tiếp tục:
- Có
lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải
Quân. Giấy tờ hồ sơ của
hải quân
còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng
tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy
người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên
Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.
À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:
- Tôi
biết anh đã
trình diện. Sau khi có
lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên
anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm
nữa không?
-
Cô... Cán bộ. Cô....
Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:
-Trong
trại này
anh còn dám đánh lộn rồi còn
tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi,
ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà
Mau?
- Còn
Năm Căn nào nữa. Ngày
ấy anh chỉ là
một anh thuỷ thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Ráng
coi. Tôi nhắc thêm
nghe. Thấy trên
cánh tay bọn tôi
có bốn dấu xâm,
anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...
....
À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm (HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên
“bằng sắt thiệt
tụi bây ơi";
Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì.
Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.
Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ
nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay
các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
"
Các cô có biết 4 dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử Bắc hay Sinh Nam Tử
Nam thì chống lại với người
Miền Bắc hay sao? Về xóa
hết đi lo làm
ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình
thường. Chuyện đánh
nhau là chuyện của đàn
ông, con trai đừng xía
vào cho khổ thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín
thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:
“Anh nhớ thêm
đi. Lúc anh bảo ba cô
đi đi, tôi không chịu đi mà
đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai
bảo các cô
vậy? Tôi
nói nghe các anh lớn nói.
Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các
anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa
xét xử, nếu có
tội thì
phạt tù
chỉ khi nào
giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?
Thấy giọng cô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:
-
A...A... Cô có thể cười cho tôi
coi không?
- Có
lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.
-
Đúng rồi. Đúng
cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó
mà cô bé, cô bé....
Tức thì thêm một cái nguýt
dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái nguýt
dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.
- Anh nhìn
lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:
- Sau
khi đưa các cô tới gần cái
chợ nhỏ bên
sông, thấy chỗ an toàn,
tôi mới bảo các
cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.
- Tôi
không ngó lui nhưng biết anh đi theo.. Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi, ngay ngày
hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu
của anh đã
đi rồi.
- Tôi
có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô
là đồng chí
bí thư. Chắc cô
đã là đảng viên
lâu năm.
- Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay
khi trở về, tôi được kết nạp đảng.
Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có
ngày tôi gặp lại anh...
Tôi nói:
- Thì
chúng ta đang gặp nhau ở đây..
Hôm nay tôi đã là người tù.
Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên
cánh tay các cô có mấy vết xâm,
tôi lỡ nói
mấy câu
gì đó. Mong cô không để tâm.
- Anh
khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi
đã xoá bỏ chúng
từ lâu.
Anh thấy chưa, không
còn dấu vết hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói
luôn:
- Anh
không cần phải sợ tôi.
Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm
anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần
gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào.
Khi coi hồ sơ, tôi
đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì
ra là nhà của ông
ngoại anh chứ không
phải nhà
của mẹ anh. Tôi
hỏi địa chỉ và
đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân.
Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của
anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn
là gái giang hồ, bán
bar. Anh sợ lập gia đình
nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô
giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì
sợ phải nuôi
con thiên hạ. Anh biết vì
sao mẹ anh kể tôi
nghe mọi chuyện về anh không?
- Vì
cô hỏi thì
bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
- Không
phải vì
tôi hỏi mà
mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà
muốn tôi
phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người thương của anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng
vo nên tôi phải nói
luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.
Một cô
cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi.
Chuyện thật khó
tin..... Tôi nói:
- Cám
ơn cô nhưng tôi chỉ là
một tên
tù không biết ngày
nào về, làm
sao có thể là
bạn của cô
được.
- Ngày
xưa anh từng mang tôi
ra khỏi nhà
tù, lần này,
đến phiên
tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.
Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp.. Tôi từng nghe chuyện lý
lịch với
phía cộng sản là sinh tử. Có
nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà
ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này
dám nói ra miệng là
sẽ ra
tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm
mưu gì đây mà cô ta phải tìm
đến ở với
mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý
lịch bí ẩn của tôi.
Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ người cô
nào về nhà
ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà
lành dễ thương tới xưng là
người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
- Cô
đã biết hết lý
lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó
sống. Cô
tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có
ngày liên lụy. Xin cô
tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh
khỏi lo dùm
tôi. Tôi đã hứa là
sẽ làm.
Anh cứ sống bình
thường như mọi người trong trại là được rồi.
Cô ta đưa cho tôi một túi quà và
nói:
- Đây
là quà của riêng
tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà
lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi nhận gói quà,
chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những
lời dò hỏi của bạn tù.
Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc
tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút....... Mọi lời lẽ tù
nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách.
Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng
mẹ tôi đến thăm tôi
hàng tháng. Chẳng thể nói
gì, tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng
vai phó thường dân
ngồi cười
cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh
lì, trò chuyện tự nhiên,
đôi khi còn chọc cười như ngày
xưa ở các
bars hay động. Tôi
còn gì để mất? Cô
ta muốn gì
ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi
thì phó mặc cho số phận.
Tháng Một năm 1976, một
buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có
cán bộ cầm danh sách
đến gọi
đúng tên tôi bảo thu dọn gọn
lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.
Bất ngờ gọi tên
lúc chiều tối hẳn không
phải lệnh
tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này
chỉ có thể là
chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù
được gọi
ra điểm danh có hai
mươi mấy mạng, trong số này
có tên chỉ còn
anh chỉ còn một chân. Một cán
bộ trẻ
mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì.
Cả bọn
cuộc bộ, không thấy có quản chế súng
ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:
- Chúng
tôi đi đâu đây cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh tha.
- Tha về hả cán
bộ?
- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?
Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh
sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính
xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.
Chừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
- Các
anh thuộc diện gia đình
cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và
lệnh tha. Sau đó chờ liên
lạc, gặp gỡ thân
nhân bảo lãnh
và làm lễ ra trại....... Trong mấy bữa chờ làm lễ, các
anh tuyệt đối không
được liên
lạc với các
trại viên
cũ.
Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm
nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.
Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:
- Bây
giờ thì
các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng,
nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.
Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn
bửa tiệc giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.
Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng
trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu
không còn nhận được dáng của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
-
Mình đi lần, bao giờ có
xe thì đón. Chứ đứng đây
chờ nhìn
vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi
theo.
*
Là người tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.
Sau khi được trao trả quyền công dân,
tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi
người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không
dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền
Bắc.
Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi 3 hay 4 ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng có lần cô ta biệt tăm luôn 3 tháng;
rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng
mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh
chưa thấy quan tài
nên chưa biết đổ lệ!
Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta
nói:
- Mẹ muốn em lo
cho anh ra đi; nhưng em có
điều kiện là
anh phải nhận em làm
vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy và trả lời em.
Mẹ tôi
khuyên tôi nên nhận cô
ta làm vợ vì cô
ta thương tôi thật sự. Tôi
thì nghĩ không hẳn. Cô
ta bỏ nhiều công
phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng
tôi vượt biên
với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân
để làm gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp
việc
trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu
còn đường nào
khác để tính.
Chưa đầy một tháng sau cô
ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng ý
hay không mà bảo ra đi.
- Thông
minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an
toàn không.
- Anh
có cần tàu
Hải Quân
biên phòng hộ tống hay không?
Nếu muốn em cũng có cho anh.
Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí
thư huyện ủy cung không
thể có quyền vào
Bộ Tư Lệnh
Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu cô
ta là thứ gì?
Không ra hải ngoại để nằm vùng
hay làm gián điệp thì
còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô
ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát
ra khỏi nước cái
đã. Thế là
chúng tôi từ giã
mẹ ra
đi.
Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và
số người
đi là 52 người do một cựu
hàng hải thương thuyền
ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì
ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái
được chứ ?
- Lái
được nhưng không
có bản đồ mà
chỉ có
la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.
Tôi lái suốt 5 ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa.
Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau
chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý
lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.
Trên bước đường lưu
vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng
tôi cô đơn lạc lõng
như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng và
thành vợ chồng thật.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ
xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các
quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông
cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy
khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:
- Các
anh vượt biên
nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về dành lại VN. Có lẽ các
anh lầm rồi. Mỹ không
bao giờ giúp
các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...
Sáu
tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi
không tham gia đoàn thể nào,
không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư
đảng viên.
Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến
cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô
ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của cô
ta cùng mất trong một năm. Chúng
tôi nhận thư nhưng không
về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý
không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn
ở Việt
Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm
tới chức
gì.
Mất nước bốn mươi
năm, lưu vong hơn 35 năm, chúng
tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại
quê hương....... Trong lòng
tôi đã chôn một chế độ và
trong lòng vợ tôi cũng
chôn một chế độ. Chúng
tôi không con nối dòng
nên khi chúng tôi chết thì
"cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi,
vậy là chôn xong hai chế độ. Ngày ấy không
xa.
Trần Thiện Phi Hùng
Posted by Anges at 4:57 AM
No comments:
Post a Comment