MỘT PHÓNG VIÊN
NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT NAM...
SATURDAY, APRIL 23, 2016
MỘT PHÓNG VIÊN
NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT
NAM...
Uwe Siemon-Netto
Cuốn sách Đức: "A
reporter's love for a wounded people" của tác giả đã được viết xong và đang chờ một số người viết "foreword" và
endorsements.
A reporter's love for a wounded people
Bản dịch cũng đã xong, được phép
của tác giả chúng
tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà
tác giả đã nói
lên ước muốn cùng
với người
Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng
một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê
hương khốn khổ của chúng
ta:
Đoạn kết
Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng."
Ga xe lửa Huế, nơi một
đầu máy và một toa hành lý khởi hành
chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó
đã được phục hồi đẹp đẽ và
sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô
ích bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách
không chính thức là
Tàu Tốc Hành
Thống Nhất.
Chẳng lẽ nào
tôi lại không
mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi
mìn biến mất, và
nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn
thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông
Đức đã lật đổ chế độ độc tài
toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng
ôn hòa, một phần nhờ vào
sự khôn ngoan của các
nguyên thủ quốc tế như các
vị Tổng
thống Ronald Reagan và
George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail
Gorbachev, và cũng
phần khác vì sự sụp đổ có
thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không
có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào
trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.
Ronald Reagan
George
G.W. Bush
Helmut Kohl
Mikhail Gorbachev
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng
chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng."
Điều này đặt ra một câu hỏi:
giải phóng
cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?
Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?
Có
phải là
hành động giải phóng
không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và
viên chức chính
phủ sau ngày
Sài Gòn thất thủ?
Phải chăng chỉ là một màn
trình diễn nhân
đạo của bên
thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền
Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm
thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm
học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học
Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc "chiến tranh nhân
dân". Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì "chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh của nhân dân."
Mao Trạch Đông
Võ
Nguyên Giáp
Thực tế không phải như vậy. Ðã
có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các
năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân
miền Nam
đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà
học giả
chính trị Rudolf
Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính
khoảng
950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm
58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây
không thể là một cuộc chiến
tranh của nhân
dân mà chính là chiến tranh chống nhân
dân.
Rudolf Joseph Rummel
Rudolph Joseph Rummel was
professor of political science who taught at the Indiana University, Yale
University, and University of Hawaii. He spent his career studying data on
collective violence and war with a view toward helping their resolution or
elimination.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt
Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm
qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL (away without offical leave), nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là:
Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không?
Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi
chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?
Ai đã
khởi đầu
cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị
miền Nam nào đã hoạt động ở miền
Bắc hay không? Không.
Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng
vợ và con cái họ ở đồng quê
miền Bắc
hay không? Không.
Chế độ miền Nam
có tàn sát cả một giai cấp
hàng chục ngàn người trên
lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và
các đối thủ tiềm năng khác
theo cách thống trị theo lối Sô
Viết của
họ hay không? Không.
Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không?
Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I have no dog in this
fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả).
Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà báo", tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương.
Lòng
tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và
vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn
ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo;
hướng về
các chiến binh giống
như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang
theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng
yến; hướng
về các góa phụ chiến tranh
trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm
chồng lính Mỹ nhằm tạo một
ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính
họ, còn hơn là đối mặt với độc tài
Cộng sản;
hướng về nhóm trẻ em bụi đời
trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu
đồng.
Với trái
tim chai cứng còn
lại, lòng
tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng
Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi
đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và
mũi tôi vẫn còn
phảng phất mùi
hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài
Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này.
Tôi
đang ở Paris, lòng
sầu thảm
khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì
có dịp tỏ lòng
kính trọng năm vị tướng lãnh
VNCH trước khi họ quyên
sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có
thể thắng:
Lê Văn Hưng (sinh năm 1933),
Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần
Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
5 Tướng VNCH tuẫn
tiết trong ngày chế độ Việt Nam
Cộng Hòa sụp đổ
Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm
1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu.
Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi
biết, tôi
đã có mặt trong phiên
tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân
sự cũng như dân
sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai
có cái dũng cảm hỏi họ:
Tại sao các
anh thảm sát
tất cả những người vô tội mà
các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?
Với tư cách
một người
Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú
thích như sau:
Tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết
các
bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà "tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ
chính
trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ
Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái
di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der
Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.
Monika Schwinn
Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh
niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn
tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy
SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã
sáng lập viên
cái lực lượng tàn
độc gồm
những tên côn đồ mặc đồ đen cũng
khó lòng buộc thuộc hạ vượt
qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát
Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Heinrich Himmler
Heinrich Luitpold Himmler was Reichsführer of the Schutzstaffel, and a leading member of the
Nazi Party of Germany. Himmler was one of the most powerful men in Nazi Germany
and a main architect of the Holocaust. As a member of a reserve battalion
during World War I, Himmler did not see active service.
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta
từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách
gây chú ý về đoàn
quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại
tá đầy huyền thoại
Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère.
Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt
Minh. Giáp đến thăm
Charton nhưng cũng để hả hê.
Cuộc gặp
gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính
trị.
Paul
Bonnecarrère
Paul Bonnecarrère est un
écrivain et journaliste français, né le 4 octobre 1925 à Paris, et mort le 4
mars 1977 dans cette même ville.
Pierre Charton
Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã
xẩy ra
như sau:
Giáp: "Tôi
đã đánh bại ông,
thưa Đại tá!"
Charton: "Không,
ông không đánh bại tôi,
thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các
phương tiện khủng bố."
Võ
Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này
và cấm các
học viên không được ghi chép
nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính
xác hơn:
đó là một nửa của sự
thật. Cái nửa kia là các nền dân
chủ như
Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về
chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ.
Sự nhận thức này, cùng với cách
sử dụng
các phương tiện khủng bố đã trở thành
trụ cột
trong chiến lược của Võ
Nguyên Giáp. Hắn đã
đúng và hắn đã
thắng.
Thậm chí
nguy hiểm hơn nữa là
ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay
tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:
Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân
tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí
sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân
phẩm, trí nhớ và danh thơm
của những
thanh niên đã được đưa ra mặt trận.
Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín
trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.
Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác:
khủng bố, tàn sát và phản bội.
Hiển nhiên
tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính
kiên cường của dân
tộc Việt
Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có
thể thoát khỏi những tay bạo chúa.
Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ý
nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng
vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào
năm 1972, nơi chẳng có
người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu
bây giờ? Tôi
còn lại gì
nữa ngoài niềm hy vọng?
Posted by Angesat 11:25 PM
No comments:
Post a Comment