CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM
WEDNESDAY, MARCH 25, 2015
CÔ GIÁO TỴ NẠN JENNIFER RAMM
trại tỵ nạn Galang, Nam Dương
Cô Giáo Tỵ Nạn mà tôi và
các bạn đề cập tới ngày hôm nay, không phải là cô giáo ở Việt Nam đi vượt biên, sống tạm thời tại các trại tỵ nạn, mà là cô giáo người Úc, từ Úc tới các trại tỵ nạn để dậy tiếng Anh cho những người dân Tỵ Nạn đang sống ở đó.
Cô giáo người Úc này tên
là Jennifer Joy Ramm.
(Một chuyện vui của tháng Tư buồn)
Cô
Giáo Jenny đang nhận quà
Giáng Sinh do đại diện trại tỵ nạn trao tặng, năm 1982.
Sau ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam, dân Việt chúng ta đã ào ạt bỏ xứ ra đi tìm Tự Do, vì không thể sống dưới chế độ bạo lực, tù đầy và sự trả thù dã man của bọn Cộng Sản. Cả thế giới dang rộng vòng tay và lòng từ thiện thiết lập những trung tâm tỵ nạn tại các hòn đảo trong vùng Á Châu Thái Bình Dương để chúng ta có nơi tạm trú chờ đi định cư ở các quốc gia khác.
Trong thời gian tạm trú này, đã
có rất nhiều thiện nguyện
viên nam cũng như nữ, già cũng như
trẻ, ở khắp mọi nơi trên thế giới tới các trại tỵ nạn để giúp đỡ chúng ta tìm thân nhân thất lạc cũng như học Anh ngữ. Một trong những người trẻ đó là cô Jennifer Joy Ramm mà các bạn hữu và các học viên thường gọi cô bằng cái tên ngắn gọn và đầy tình thân:
“Chị Jenny”.
Jenny là
con cả trong một gia đình
gốc
Anh, sinh sống ở vùng
Burra Burri thuộc Tiểu bang Queensland. Đến khi lớn lên, gia đình đã chuyển về Cooroy để cô có thể tiếp tục học bậc trung học ở Noosa.Tốt nghiệp trung học,
Jenny được học bổng của chính
phủ Liên Bang để tiếp tục học ở Đại Học Queensland.
Sau khi tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Văn Chương tại Queensland, cô đã xuống Melbourne học thêm
để lấy
chứng chỉ về Giáo Dục tại Đại học
La Trobe.
Là thành viên của nhóm người trẻ tình nguyện hoạt động ở ngoại quốc “Australian
Volunteers Abroad – AVA”, vào năm
1976, cô Jenny được cử đi dậy Anh ngữ tại một trường trung học ở Mukah, thuộc Malaysia. Với
giọng nói nhẹ nhàng, vui tươi
và thái độ cởi mở, Cô giáo Jenny đã thu phục được nhân tâm của các học sinh và phụ huynh của Mukah, đến nỗi có gia đình đã đặt tên con của họ là Jenny để ghi nhớ thời gian cô dậy học cho các em học sinh tại đây.
Năm 1979, cô lại được cử đến
trại tỵ nạn Ban Vmai ở Thái
Lan, để lập ra một chương trình giảng dậy tiếng Anh cho 60.000 người Hmong đang sống ở trại
tị nạn này. Để có thể dậy tiếng Anh một cách hữu hiệu, cô
đã theo cách thức của các
nhà truyền giáo
là học tiếng bản địa trước. Jenny đã bỏ ra bốn tháng
trời để
chuyên tâm học tiếng Thái Hmong cho thật trôi chẩy, rồi sau đó
mới dùng chính ngôn ngữ của họ mà dậy tiếng Anh cho họ. Trong vòng hai năm trời, cô đã xây dựng lên
một
trung tâm giảng dậy với
nhiều lớp học, thuê
giáo viên địa phương và
mua cả một chiếc xe chở hàng
nữa.
Với những kinh nghiệm giảng dậy này, vào khoảng cuối năm 1981, cô đã được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc mới đi dậy tiếng Anh
cho các Thuyền Nhân Việt Nam tại trại Tỵ Nạn
Galang, thuộc Indonesia.
Tại Galang, công
vỉệc của Cô
Giáo Jenny không chỉ đơn giản là
dậy tiếng Anh cho người Việt Nam, cô con phải giúp đỡ họ chuẩn bị cho cuộc sống mới ở các nước Tây Phương, mà ở đó, không những họ chỉ phải đương đầu với sư khác biệt về ngôn ngữ, mà còn cả những khác biệt về phong tục tập quán, cách thức ăn uống và những sinh hoạt hàng ngày nữa. Các học viên
của cô,
gồm đủ mọi trình
độ, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi ý
thích. Từ đó,
cô Jenny mới chia lớp học ra thành nhiều nhóm khác nhau:
Nhóm
nhỏ bạo dạn hơn, nói lung tung mà không sợ bị chê là sai, nên học nhớ chữ mau hơn và nói đúng giọng hơn.
Nhóm
lớn tuổi, trí
nhớ kém
đi và hay bị mặc cảm nên
khó nhớ mặt chữ và
giọng đọc cứng hơn.
Một nhóm
đặc biệt mà
chỉ có
ở trại tỵ nạn Việt Nam, đó là nhóm trai tráng đã đi lính, bị Việt Cộng bắt
đi tù “Cải Tạo” rồi trốn
về hoặc được thả về. Nhóm
người này
đa số biết nói
một chút
ít tiếng Anh, một số nói rất khá.
Họ rất chăm chỉ học và cố gắng nói
thật nhiều để cô
sửa giọng cho họ. Đối với nhóm cựu quân
nhân này và những nhóm
lớn tuổi, cách
giảng tiếng Anh của cô là kể những câu chuyện về đời sống hàng ngày tại Úc và dậy cho họ những câu đối thoại cần thiết.
Theo kinh nghiệm dậy học cho người Hmong, ngoài giờ dậy học, Jenny thường hay
tới thăm viếng những láng trại của người Việt tỵ nạn để
nói chuyện với họ, tìm hiểu cách thức sinh sống của họ và nhất là . . . học tiếng Việt bằng cách . . . nói tiếng Anh với người Việt.
Từ những buổi tiếp xúc này mà cô giáo
Jenny quen biết rất nhiều bạn bè và biết ăn cơm, biết cầm đũa. Một
cô thợ may đã đo và may tặng cho Jenny một chiếc áo dài, cô mặc thử, thấy đẹp quá, về thư viện, cô đã tìm sách đọc thêm, và sau khi biết chíêc áo này
được coi là quốc phục của người Việt Nam, cô đã khuyến khích các cô gái Việt trên đảo giữ truyền thống áo dài của mình bằng cách . . . tổ chức một cuộc thi áo dài ngay trên đảo tỵ nạn.
Cô
Giáo Tỵ Nạn tổ chức thi Hoa Hậu Áo Dài mừng xuân Quý Hợi 1983 tại trại tỵ nạn Galang.
Trong một buổi giảng dậy, cô giáo Jenny để ý thấy có một cậu trai luôn luôn lảng vảng phía ngoài lớp học, nhưng không bao giờ vào dự lớp học của cô.Nghĩ rằng anh này có thể . . . còn ngại ngùng gì đó,
nên cô giáo đã đích thân ra mời anh vô lớp để học cho vui, nhưng anh mắc cở đỏ mặt chạy đi nơi khác. Một lúc sau, anh ta lại quay trở lại, nhưng cũng vẫn đứng ở ngoài lớp học chứ không vô trong lớp. Lâu dần, cô không thắc mắc nữa, mà chỉ giảng và đọc lớn hơn để người đứng ở
ngoài có thể nghe rõ hơn mà
thôi.
Đến năm 1983, cô giáo Jenny trở về lại Melbourne, tiếp tục dậy tiếng Anh tại
Trung Tâm Anh Ngữ Cho Những Người Di Dân Lớn Tuổi (Adult Migrant English Service-AMES), tại đây, Jenny cũng vẫn giúp đỡ người dân tỵ nạn Việt Nam bằng cách khuyến khích họ làm những công việc mà họ có khả năng từ hồi ở Việt Nam, và dậy họ nói Tiếng Anh về chính ngành
nghề họ có thể làm, muốn làm và đang
làm. Cô giáo Jenny thành công ở chỗ, cô có thể nói tiếng Việt, hiểu tiếng Việt, để
nghe người Việt nói ra những điều họ muốn biết, muốn học, do đó đã giúp người Việt có hứng thú khi học tiếng Anh và vì thế mà họ học mau hơn, tiến bộ hơn.
Jenny lại có sáng kiến tổ chức những buổi barbecue tại nhà của mình, mới các bạn trẻ người Úc và người tỵ nạn Việt Nam cùng tham dự, để cả hai bên hiểu rõ nhau hơn và nhất là để các bạn trẻ người Việt có cơ hội nói chuyện, trau dồi khả năng Anh ngữ của mình. Nhiều cô giáo đã rất ngại ngùng phải dậy học cho đám trẻ thiếu niên đi tỵ nạn một mình, vì các em . . . khó dậy, không chịu tiếp xúc . . . Riêng đối với Jenny, cô không thấy có gì trở ngại cả, vì cô hiểu tâm tình của đám trẻ này, cứ để cho các em tâm sự với cô về những khó khăn của cuộc sống, cô nhờ nhân viên xã hội giải quyết những điều các em mong muốn, rồi sau đó mới dậy học cho các em nhỏ này. Việc quan trọng nhất mà Jenny muốn hướng dẫn họ là, nên đi học trở lại để có kiến thức và có một tương lai tốt đẹp hơn.
Cũng vì
tình thân với người Việt, đã
có nhiều người mời Jenny dự đám cưới của họ, và
cô rất vui khi được mặc áo
dài để bưng mâm
ngũ quả đi rước dâu.
Gia Đình hạnh phúc.
Trong một buổi barbecue mời tất cả các . . . cư dân của đảo Galang, cô giáo Jenny lại gặp lại người thanh niên thường hay lảng vảng ngoài lớp học của cô hồi còn ở trại tỵ nạn. Anh chàng cũng vẫn đứng một mình, tay cầm lon coca xoay qua xoay lại chứ không bắt chuyện với ai. Cô giáo Jenny nghĩ rằng anh này chắc . . . không biết tiếng Anh, hoặc là ít nói, nên đã tới nói chuyện với anh ta. Anh vui vẻ nói chuyện, tự giới thiệu tên là Sơn, hiện đang làm việc cho Australia Post, tại Blackburn Mail Centre. Cô Jenny rất là ngạc nhiên khi biết anh . . . biết nói tiếng Anh, và lại nói khá nữa:
"Ah! Vì
anh biết nói
tiếng Anh rồi, nên mới không
tham dự lớp học của tôi ở trại tỵ nạn, có phải vậy không?”
Lại trái với dự đoán của Jenny khi anh con trai trả
lời:
“Không
phải vậy. Hồi đó,
quả thực tôi
dở tiếng Anh lắm. Vì tình trạng chiến tranh, tôi chỉ mới học hết lớp 11 mà thôi. Đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi là con Lính Cộng Hòa nên đâu có được tiếp tục học nữa, tôi phải đi bán hàng với mẹ để kiếm sống cho gia đình, bao nhiêu tiếng Anh tôi học ở trường, tôi quên hết trơn, nên tôi đâu có biết học từ đâu? Thấy cô dậy học, tôi
cũng muốn vô
học, nhưng thấy mình lớn rồi, vô học không
biết một câu
tiếng Anh tiếng U nào hết . . . mắc cở với đám con nít lắm . . . nên tôi chỉ đứng ngoài nghe lén mà thôi. Hơn nữa, cô nói tiếng Anh của người Úc . . . khó nghe quá, tôi nghe như là . . . vịt nghe sấm .
. . chẳng hiểu cô nói
gì hết, thì
làm sao mà học?”
Cô giáo Jenny lúc nào cũng có thói quen
nghề nghiệp, cô khuyến khích Sơn:
-“Anh
nói tiếng Anh hay lắm, lại được làm ở Australia Post thì đời sống cũng khá lắm rồi . . . nhưng nếu anh muốn, anh có thể đi học lại, vô đại học học nghành nào mà anh thích, biết đâu lại có
tương lai sáng sủa hơn!”
-“Tôi
cũng muốn lắm, nhưng tôi . . .mới học xong lớp 11 chứ chưa tốt
nghiệp trung học, làm
sao tôi có thể vô
đại học được? Hơn nữa, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để làm việc thôi, chứ chưa đủ để học đại học đâu.”
-“Anh
đừng lo, tôi
có thể giúp
anh về phần tiếng Anh, anh sẽ dư sức học. Ở Úc có những trường cao đẳng, gọi là trường TAFE (Technical And Further
Education) dành
cho những người chưa học xong trung học, tôi sẽ giới thiệu anh với chú tôi, một giáo sư của trường Footscray Institute of
Technology (FIT- sau này
nhập chung với trường Đại học Victoria University) để chú giải thích
cho anh nhiều hơn.”
Khi về nhà, anh Sơn mới kể lại câu chuyện cho người bạn cùng phòng là anh Lê Hữu Giàu nghe. Anh Giàu cũng khuyên anh Sơn nên
đi học để có tương lai khá hơn.
Thế là anh Sơn đi gặp Giáo sư
Douglas Ramm để vấn kế. Ông Douglas làm đúng luật, đã đưa đơn cho anh điền để học thử ba môn học về Civil Engineering xem
kết quả ra sao cái đã. May mắn, anh đậu hết cả ba môn toán học này, ông Douglas liền hướng dẫn anh một lần nữa nộp đơn xin học khóa Bachelor of Civil Engineering.
Thực sự thì Sơn chưa muốn hoàn toàn định cư ở bên Úc, đầu óc của anh vẫn còn hướng về Việt Nam: Khi Sơn còn ở trên đảo Galang, anh đã có nghe về Phong Trào Phục Quốc của Tướng Hoàng Cơ Minh, Sơn định cư tại Úc đúng vào thời điểm Phong Trào Phản Chiến bộc phát rất lớn, Sơn nhớ lời cha dặn là ráng tìm
cách gia nhập bất cứ tổ chức kháng chiến nào, để trở về Việt Nam tiêu diệt bọn Cộng Sản, khôi phục lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu
tràn đầy tự do và lòng nhân ái. Do đó, khi được chấp nhận cho học, Sơn phân vân không biết nên lựa chọn con đường nào? Anh đem việc này ra bàn với Jenny. Tiếc thay, cô giáo Jenny chỉ có thể giúp anh trau
dồi Anh ngữ thôi, chứ không có khả năng giúp anh về vấn đề này, nên Sơn quyết định không nộp đơn xin học, mà chờ tin để trở về Việt Nam cùng với các bạn bè trong
nhóm.
Buồn thay, tổ chức phục quốc càng ngày càng im tiếng và không có ai liên lạc với anh để nói tới ngày về cả. Sơn đành phải nộp đơn xin đi học và bảo lãnh cha mẹ qua Úc chung sống.
Muốn tỏ tình với một cô gái đã là
chuyện khó rồi, huống chi cô gái này lại còn là cô giáo dậy tiếng Anh nữa, công việc càng trở nên phức tạp và . . . khó
khăn hơn.
Một lần đến nhà Jenny ăn cơm tối, Sơn đem theo cây đàn hát
tặng Jenny bản nhạc
“Nắng Chiều”:
“. . . Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn em anh nói: “Mến em!”
Mây
lướt thướt trôi
khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi . . .”
(Nhạc Lê Trọng Nguyễn)
Hát xong bản nhạc, Sơn đã hỏi Jenny bằng tiếng Việt:
“Jenny à
. . . nếu tôi
muốn nói
. . . anh yêu em . . . bằng tiếng Anh, thì . . . làm cách nào để nói?”
Jenny thích bản nhạc Nắng Chiêu quá,
đang lo hát theo, nên không biết mánh của Sơn, cô ngây thơ
trả lời:
“Thì
nói . . . I love you . . . dễ mà.”
Thế là Sơn vừa khẩy đàn vừa nhìn Jenny mà hát câu hát để đời
“I love you . . . I love you . . . and I love you . . .”
Sơn hát đến lần thứ ba thì Jenny mới hiểu, cô đỏ mặt hỏi lại Sơn bằng . . . tiếng Anh:
“Are you serious?”
Sơn lại trả lời bằng . . . tiếng Việt:
“Anh nói
thiệt mà!”.
Sơn tốt nghiệp thủ khoa khóa Civil Engineer của FIT vào năm 1990.
Một tháng sau khi cha mẹ Sơn qua định cư ở bên Úc, Jenny và Sơn làm đám cưới. Jenny rành đủ sáu câu về đám cưới Việt Nam, nên cô đòi đủ thứ . . . nào là áo cưới cô dâu, vương miện, bông tai, dây chuyền vàng, ngũ quả, heo sữa và pháo nổ . . . thậm chí cả phong bao lì
xì cho đám con nít giữ cửa ở nhà
gái khi rước dâu
cũng phải có
đầy đủ.
Ba Mẹ của chàng rể Sơn mới từ Việt Nam qua, nghe đằng nhà gái nói tiếng Anh líu lo cứ như là chim hót,
chẳng biết người ta nói cái gì, nhưng cũng biết đó là những lời chúc tụng cho cô dâu chú rể. Khi mẹ chồng được mời ra đeo dây chuyền cho cô dâu, thiếu điều bà phải bắc ghế đứng lên mới quàng dây chuyền qua cổ cô dâu Tây được. Đằng nhà gái lần đầu tiên nhìn thấy cô dâu và đám phù dâu mặc áo dài thật là đẹp, thấy người nhà bưng các khay đựng đủ thứ bánh trái, rồi lại được nghe pháo nổ đì đùng khói bay khét lẹt . . . thật là vui . . . vui quá
xá là vui.
Vì tốt nghiệp ưu hạng, Sơn được học bổng của chính phủ để học Master, nhưng việc đầu tiên của người chồng và người con là phải lo làm ăn kiếm tiền lo cho gia đình và phụng dưỡng cha mẹ, nên Sơn đã từ chối học bổng để đi làm với công ty xây cất John Holland, và được cử đi làm việc ở Kuching, Mã Lai.
Đứa con gái đầu lòng tên
Lanna của hai vợ chồng ra đời
vào tháng 4 năm 1993, chỉ một tháng sau là
Jenny đã được hưởng Mother day lần đầu tiên trong đời.
Cô gọi điện thoại về Úc chúc mừng mẹ:
“Chúc mẹ một ngày “Mother day” vui vẻ . . . và cũng một ngày
“Mother Day” vui vẻ cho chính
con nữa . . . vì
con cũng đã là mẹ của bé
Lana rồi.”
Đến năm 1995, em trai của Lana cũng đã chào đời, được ba mẹ đặt tên là Liam (Từ khi Jenny mới bắt đầu mang bầu, hai vợ chồng đã bàn tính suốt chín tháng trời để tìm cách đặt tên cho con, những cái tên nào vừa có sắc thái của Vương Quốc Anh, lại vừa vẫn có vẻ là một cái tên Việt Nam. Lana cũng có nghĩa là
Lan và Liam cũng có thể đọc là Liêm.Ông Bà Nội cũng đọc tên các cháu
được, mà Ông Bà Ngoại cũng cảm thấy happy khi gọi tên hai đứa cháu của mình.)
Khi các con đã lớn, và cha mẹ đã có phần già yếu, Sơn và Jenny quyết định xin trở về Úc làm việc. Lana thi đậu vào trường Mac Roberson và tốt nghiệp VCA với số điểm ưu
hạng 99.30 nhưng cháu lại không muốn học Y, Nha, Luật . . . mà chỉ muốn theo gót của mẹ, học Art ở Melbourne University, thời giờ rảnh thì cháu . . . đi làm việc thiện nguyện. Còn Liam thì học IT ở RMIT University với ước
mơ trở thành . . . tài tử đóng phim,
trong khi Jenny thì đi dậy trở lại ở VUT – Victoria University of Technology.
Lana và Liam được mẹ cho biết gốc gác của mình là . . . dân tỵ nạn Việt Nam, vượt biên tới đảo và được định cư ở Úc, nên lâu
lâu, hai chị em đùa dỡn với nhau, Liam đóng vai Việt Nam, nói với chị:
“Tôi là
. . . Vietnamese Boat people . . . tôi không biết nói tiếng Anh . . .”
Lana đóng vai cô giáo, nghiêm trang trả lời:
“If you be good . . . I will teach you how to speak
English . . .”
Jenny và Sơn nhìn nhau cười.
Vào khoảng tháng Ba Năm
2011, trận bão Yasi đã tàn phá hầu hết những trang trại trồng chuối ở Queensland, giá bán chuối ở các siêu thị vọt lên tới con số kỷ lục là $14.00 một Ký, có nơi còn không có chuối để mà bán.
Sáng sớm ngày Mother’
Day năm 2011, ba cha con mặc quần áo đẹp đẽ, trịnh trọng lái xe đi chợ, khệ nệ đem một gói quà thật lớn đưa tặng cho mẹ. Hai
chị em cùng la lớn:
“Happy Mother’ Day my dear Mummy”.
Jenny mở gói quà ra: Một nải chuối với năm trái chín vàng óng ánh.
Jenny
sung sướng cười thật tươi, nhưng vẫn cự nự chồng:
“Chuối mắc lắm, anh mua làm chi cho tốn tiền.”
Lana và Liam lại đồng thanh nói:
“Chúng con có tiền . . . chúng con mua tặng mẹ.”
Phần của Sơn là một bó hoa đỏ thắm đưa tặng vợ.
Jenny bị cancer ruột từ năm 2006, coi như đã lành bệnh sau nhiều ca mổ, nhưng đến
cuối năm 2011 thì bệnh của cô lại tái phát, qua những vết sẹo còn lại của những ca mổ trước đây. Sơn nghỉ làm suốt ngày luẩn quẩn tại bệnh viện St.
Vincent lo chăm sóc cho Jenny. Nhà thương thấy vậy, cho Sơn mướn luôn một phòng để ăn ngủ tại chỗ cùng với vợ.
Những ngày cuối của cuộc đời, hai đứa con cũng nghỉ học để ở bên cạnh mẹ. Lana và Liam nắm tay mẹ mà nói:
“Mẹ sẽ khỏe lại
mà . . . Mother’s Day năm tới chúng con sẽ lại mua chuối cho mẹ ăn nữa nha.”
Sơn so lại phím đàn, hát cho Jenny nghe bản nhạc “Bên Kia Sông”:
“. . . Này người yêu, người yêu
anh ơi!
Bên kia sông là ánh mặt trời
Này người yêu, người yêu
anh hỡi!
Bên
kia đồi, cỏ hoa đan lối
Bên
kia núi, núi cao chập chùng
Bên kia suối, suối reo lạnh
lùng
Là bài thơ, toàn chữ hư vô . . .”
(Nhạc của Nguyễn Đức Quang.)
Cô Giáo Tỵ Nạn Jenny Ramm ra đi vào ngày 10 01 2012 với tuổi đời 58 còn rất trẻ trung, để lại chồng và hai đứa con.
Từ bốn phương trời, những người dân Việt tỵ nạn ở đảo Galang trước
đây đã được cô giáo Jenny dậy học tiếng Anh đã gởi thơ chia buồn đến cho gia
đình:
“Jenny
. . . chúc chị ra đi bình
yên . . . Tên của chị, hình
bóng của chị, tiếng Anh của chị dậy . . . sẽ không bao giờ phai nhòa trong trí óc chúng tôi . . .”
Cô Giáo Tỵ Nạn Jennifer Joy Ramm, đã đem tất cả lòng nhiệt thành và tuổi trẻ của mình ra để phục vụ người tỵ nạn khắp bốn phương trời, nhất là người tỵ nạn Việt Nam
CÔ DÂU
CỦA NGƯỜI
VIỆT TỴ NẠN . . . LÀ NHƯ
THẾ ĐẤY.
Nguyễn Khắp Nơi
(Viết theo lời kể của anh Nguyễn Sơn và các con.)
Posted by Angesat 6:13 PM
Phụ Lục:
Nắng Chiều | NS Lê Trọng Nguyễn | Kim Anh, Doanh Doanh | Asia 48
Nghe nhạc › Bài hát Trữ Tình › Thái
Hiền Bên Kia Sông - Thái Hiền
No comments:
Post a Comment