Chúng ta phải làm gì cho đất nước ?
Friday, April 14, 2017
Chúng ta phải làm gì cho đất nước ?
GS Hàn Lâm TS Lê Mộng Nguyên
Kính thưa quí vị,
''Đừng có
đòi hỏi đất nước có
thể làm
gì cho chúng ta, mà nên tự hỏi mình
có thể làm
gì cho đất nước '' (Ne demandez pas ce que votre pays peut faire pour vous, demandez-vous plutôt ce que vous pouvez faire pour votre pays) !
Đó là những lời xác đáng, rất chấn động của Tổng thống Kennedy nói thẳng với quốc dân
Hoa Kỳ trong tháng
giêng 1961, thế mà nay
vẫn còn vang dội trong cảm nghĩ của chúng ta là những người Việt Nam đang sống kiếp lưu
vong, về ngày 30 Tháng Tư 1975, như một sự ăn năn, một vết thương lòng không bao giờ hàn gắn.
Tổng thống Kennedy
Sau ngày
Quốc Hận,
chúng ta phải làm gì cho đất nước đang quằn quại dưới một chế độ bạo tàn ? Chúng ta có thể làm gì cho quê hương, cho dân tộc, cho tổ quốc
? Nước Việt Nam bốn nghìn
năm văn hiến, với một quá
khứ lẫy
lừng đấu tranh chống ngoại xâm,
đầy dũng
cảm và hiến sinh ; Mẹ
Việt Nam đã lo lắng giữ gìn cho tất cả những đứa con trải qua nhiều thế hệ trong quá khứ, hiện tại và
tương lai; nước Việt Nam kêu
gọi chúng ta, nước Việt Nam chất vấn chúng ta !
Vì ai mà đất nước bây giờ lầm than ?
Chúng ta có
thể làm gì cho quê mẹ đớn đau ?
Chúng ta không có quyền dửng dưng trước cảnh nước mất nhà tan, như nhà đạo diễn rất trẻ tuổi Trần Anh Hùng lúc ông quây cuốn phim đầu tiên ''L'odeur
de la papaye verte'' (Mùi đu đủ xanh) năm 1993. Báo Le Monde ngày
11/06/1993 hồi ấy viết, dưới cây bút của J.-M. Frodo : Trần Anh Hùng revendique le droit de tourner le dos à ce Vietnam là, à cette
réalité datée et située. Mais son film court dès lors le risque de ressembler
au végétal ambigu du titre, légume quand il est vert , fruit quand il est mur,
et des blessures duquel ne s'échappe qu'un sang blême''
Trần Anh Hùng đòi quyền quay lưng trước cái nước VN ấy, là một thực tế có
ngày có tháng và nơi nương tựa. Tác phẩm của ông do đó bị lâm nguy, tương tự cái thực vật mơ hồ của chủ đề phim: rau đậu
khi xanh, trái cây khi chín, và những vết thương
rỉ ra từ quả đu đủ này
chỉ là
máu nhợt nhạt.
Chúng ta
không có quyền làm sống lại, trong hoàn cảnh hiện thời, cuộc xung đột
giữa các thế hệ (già và trẻ) trong lúc Mẹ VN đau khổ cần có sự liên kết của tất cả những đứa con yêu. Lấy tư cách gì, đại diện cho sự thể gì, thanh thiếu niên VN (không bao giờ nếm mùi bom đạn chiến tranh) và phần đông được sinh đẻ nơi di trú ngoại bang, dám trách móc những người lớn tuổi, các vị đàn anh, chỉ tranh đấu ở hải ngoại với mục đích duy nhất trở về nước nhà cầm lại chính quyền, trong lúc chính họ quên lãng bổn phận giáo dục, và hướng dẫn con cháu hậu duệ của chính mình, đặng sẵn sàng thay
phiên luân chuyển trong tương lai ! Thanh thiếu niên VN có biết chăng là ''một chính khách chỉ hết thời một khi chết'' (un homme politique n'est fini que mort) theo câu nói ghê gớm của một cựu Thủ tướng Pháp, Jacques
Chaban-Delmas: Không bao giờ ẩn dật, ông J.C.D. lúc còn sống vừa là kinh nghiệm của chính quyền vừa là một ghi nhớ tập thể của cả một dân tộc.
Jacques
Chaban-Delmas
Jacques Chaban-Delmas was a
French Gaullist politician. He served as Prime Minister under Georges Pompidou
from 1969 to 1972. He was the Mayor of Bordeaux from 1947 to 1995 and a deputy
for the Gironde département.
Chúng ta người Việt Nam không kể và không phân biệt tuổi tác, chúng ta không có quyền từ bỏ vĩnh viễn đất nước
của chúng ta ! Chúng ta không thể nào chấp nhận một chính phủ cầm quyền bằng vũ lực đã thôn tính VNCH Tự Do, lợi dụng tình trạng bối rối của dân chúng miền Nam, để bán rẻ quyền lợi quốc dân cho ngoại bang, trong khi áp dụng hình thức ''Đổi Mới'' và cởi mở kinh tế thị trường.
Tôi còn nhớ sau Hiệp định Genève ký kết tháng 7 năm 1954 để chấm dứt chiến tranh Pháp-Việt Minh, nước ta bị cắt đôi:
miền Bắc trên vĩ tuyến 17 thuộc cộng sản Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam,
trong lúc miền Nam dưới vĩ tuyến 17 thuộc phái Quốc gia với thành lập Đệ Nhất Cộng Hòa VN tự do (từ 1956 đến 1963) và Đệ Nhị Cộng Hòa tự do (từ 1967 đến 1975, sau một giai đoạn Chính phủ Chấp chính đoàn quân sự).
VN bị phân chia :
một triệu đồng bào miền Bắc (trong đó có 700 000 người Công giáo) muốn tránh nạn cộng sản, đã phải rời bỏ tất cả (bà con, gia tài, làng mạc, quê quán) đặng di cư về miền Nam của tự do.
Một chính khách hồi ấy (GS Bùi Xuân
Bào) mặc dầu không có ý định so sánh dân VN với dân Do
Thái-Israẽl chạy trốn bạo tàn Ai Cập, đã viết:
Dù
muốn dù
không, về phần những kẻ bắt buộc phải di cư, chuyện trong Thánh thư trở đi trở lại trong óc não tôi, bởi vì hình ảnh những chùm người treo qua biển cả trên những chiếc buồm tàu tạm bợ (giống như trong phim Exodus), thật quá rùng rợn...
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã
viết trong Tuần báo ''Tin Tức Việt Nam'' (Vietnam Weekly News, số 797, ngày 6 tháng 8-2004) về nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên : ...
''Nhớ lại những ngày chiến tranh lan tràn, sắp tới lúc hiệp định Genève được ký kết, cả đất nước dường như lênh đênh chưa biết rồi sẽ trôi giạt về đâu, cũng là lúc người ta được nghe trên khắp các đài phát thanh Hà Nội, Huế, Pháp Á, Sài Gòn... bài Trăng Mờ Bên Suối qua giọng hát của hầu hết các
danh ca của chúng
ta thời bấy giờ: Tâm
Vấn, Minh Đỗ, Ngọc Bảo, Minh Trang, Ngọc Hà, Minh Diệu, Mạnh Phát, Anh Ngọc v.v... Nhạc như một nỗi khát khao tìm về một nơi yên ấm mà
thực tế lúc
nào cũng như đe dọa lấy mất. Cái
chốn hạnh phúc
có thể nương náu
ấy dường như chỉ còn là, chỉ tồn tại trong mơ ước...'' :
Người hẹn cùng
ta đến bên
bờ suối, Rừng chiều mờ sươn
g ánh trăng mờ chiếu, Một đêm thiết tha rồi đây xa cách, Rồi đây hai ngả biết tới phương nào...
Chiến tranh Quốc gia-Cộng sản, bên phần Quốc gia có Mỹ tài trợ, bắt đầu hai ba năm sau Hiệp định Genève, và chính thức chấm dứt lúc Thỏa hiệp Paris được ký ngày 27 th. 1-1973 với một điều khoản rất quan trọng như sau :
Sự thống
nhất nước Việt Nam sẽ thực hiện qua nhiều giai đoạn, bằng những phương sách hòa bình, dựa trên
nền tảng thảo
luận và thỏa hiệp giữa Bắc
Việt Nam và Nam Việt Nam, không được cưỡng bách,
hoặc thôn tính của phần này
đối với phần
khác và cũng không có sự can thiệp của
ngoại bang...
Hai năm và 3 tháng sau Hiệp định Paris,
chiến xa Quân đội Cộng sản xâm lược Sài Gòn, kinh đô của Cộng Hòa Việt Nam tự do, và đổi ngay tên Sài Gòn sang Thành Phố Hồ Chí Minh.
Bài hát ''Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên'' của Nguyễn Đình Toàn hồi ấy có câu :
Sài
Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên...
30 Tháng Tư 1975 là ngày quốc hận muôn đời ghi nhớ :
Từ dạo ấy, Cộng sản vi phạm trắng trợn
những lời ký kết trong Thỏa hiệp Paris bằng cách thống nhất toàn lãnh thổ VN ngay tháng 7-1976, chính thức lấy tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN (République
socialiste du Vietnam), đặt nền tảng độc tài đảng trị, xóa bỏ tất cả những tự do dân chủ mà đồng bào ta hưởng thụ dưới chế độ miền Nam, bắt giam cầm những
kẻ ngày xưa tranh đấu chống Cộng trong những trại tập trung cải tạo,
nơi mà cuộc sống kham khổ đã làm cho
bao nhiêu dân quê, thợ thuyền, trí thức và đồng bào tôn giáo phải bỏ mạng. Nước VN giàu có, thịnh vượng ngày xưa nay trở thành một Nhà Tù vĩ đại mà Đao phủ thủ là người của Đảng.
Theo HP 1992, Điều 4 : Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân VN, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Như thế nghĩa là
những
quyết định của Ủy ban Trung ương, Bộ Chính
trị
(Bureau politique) hoặc Tổng bí
thư của Đảng có
hiệu lực
hơn đạo luật do Quốc hội chấp nhận hoặc sắc lệnh của Chủ tịch Nhà nước hay Thủ tướng Chính
phủ.
Đồng bào quốc nội hiện đang sống sót dưới một chế độ không có Nhà nước pháp quyền, một chế độ độc tài đảng trị... Để ra khỏi tình trạng kinh tế bế tắc, Đại hội thứ 6 của Đảng trong Tháng 12-1986 đưa ra kế hoạch Đổi Mới (Renouveau) đi song
song với cởi mở kinh tế tư bản thị trường mà HP 1992
chính thức đề cao...
Kết quả có tiến bộ một phần nào trên mặt kinh doanh, vì Hà Nội đã bỏ thái độ cô lập trên mặt quốc tế, và cũng nhờ vốn đầu tư dồn dập tới VN từ các đại cường quốc Âu Tây và láng giềng trong vùng Thái
Bình Dương.
Nhưng mặt trái của huy chương là :
tự do thương mại
và kỹ thuật mà không đi đôi với tự do chính trị, chỉ đưa nước ta đến một tình trạng không
lối thoát. Một thiểu số công
dân được Đảng và
Chính phủ bao bọc trở thành
giàu có trong lúc đa số đồng bào
ở vùng thôn quê và ngoại ô thị thành
làm nghề cày ruộng hoặc thất
nghiệp, đã nghèo lại càng nghèo hơn. Nạn tham nhũng như một ung thư lan
tràn cả bộ máy chính trị, hành
chánh quốc gia, đi đôi
với hậu
quả tự do kinh doanh là ô
nhiễm môi trường làm
cho nước ta đắm chìm
trong một khủng hoảng xã
hội rất
trầm trọng.
Cảnh nước mất nhà tan từ 1945 của đồng bào Bắc Việt và từ 1975 của đồng bào toàn lãnh thổ, bởi Cộng sản VN thiển cận,
trong lúc các nước Trung và Đông Âu
và ngay cả Liên Xô Nga, đã từ bỏ Cộng sản sau cuộc Cách mạng phá đổ Tường Bá Linh 1989-1991, thật là đau lòng
!
Michel TAURIAC sau bản thuyết trình của ông về Những kẻ trầm luân của tự do (Les naufragés de la liberté) tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại Pháp, chiều ngày 3 th. 3 năm 2000, và trong
cuộc đàm luận tiếp theo, đã thở than: Tôi muốn nói, để kết luận cuộc đàm luận này, rằng thật đáng thương xót khi thấy một nước như nước Việt
Nam với bao nhiều tài năng và tài
nguyên, đã có thể bỏ phí một may mắn lớn lao, để xây dựng lại nước nhà...
Sự hoang phí hạng trí
thức lỗi lạc mà
nhà cầm quyền đã
tống giam thay vì để họ tham dự ích
lợi chung, và
nhừng kẻ khác
phải trở thành
thuyền nhân
(boat people) trên biển cả... Tất cả việc này là một phung phí vĩ đại... Các bạn còn
nhớ không
: Séoul, sau chiến tranh giữa Bắc và Nam, là một đống hoang tàn đổ nát,
thế mà
bây giờ, Nam Triều Tiên là một đại cường quốc kinh tế và dân chủ tự do... Các bạn thử tưởng tượng nước Việt Nam (không Cộng sản) ngày nay sẽ như thế nào !... Chúng ta
chỉ biết đớn đau khi
nghĩ tới nước bạn này...
Michel
TAURIAC
Riêng chúng ta : đồng bào hải ngoại hướng về quốc nội, phần đông thuộc hạng trí thức ái quốc sống kiếp lưu vong, chúng ta nguyện thề đấu tranh, đặng giữ toàn vẹn cái tinh thần nước Việt (la vietnamité) nghĩa là :
Một phương pháp
tư tưởng, một cách
viết, nói và hành động theo truyền thống tổ tiên, đã làm cho nước ta hùng tráng với quyết chí
vững bền
bất khuất phục trước một quyền lực độc tài
trải qua
những khúc quanh co của một lịch sử
đầy thống khổ. Cái
tinh thần nước Việt này là di sản của ông cha trong sự bất dịch của toàn dân, mặc dầu một ngàn
năm đô hộTàu (từ 111 trước Tây Lịch đến năm 931 sau Tây Lịch), gián
đoạn bởi
phản kháng và tổng khởi nghĩa
do Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Triệu Quang Phục,
Mai Thúc Loan, và vị anh hùng Ngô Quyền đã
đuổi quân xâm lược Trung Hoa ra khỏi biên thùy sau trận chiến thắng sông Bạch Đằng năm 931.
Paul Mus, tác giả Vietnam, sociologie d'une guerre' (Việt Nam, xã hội học của một chiến tranh, 1952), đã viết : Mỗi khi nói
đến Việt
Nam, cái câu để giải nghĩa
những vấn đề lịch sử, nằm đúng
trong cái tinh thần kháng
cự, liên kết một cách
nghịch thường
với những năng lực lạ lùng đồng hóa, một ý chí quốc dân
không sờn trong thử thách
của thất
bại, những cắt xẻ đất đai và
những
chinh phục lẫy lừng. Hơn một thiên
niên kỷ, nước VN bị sáp
nhập nước
Tàu vô điều kiện, không những đã
không suy nhược, trái
lại đã làm cho nước Việt thêm vững bền.
Paul Mus
Paul Mus was a French author and scholar. His studies
focused on Viet Nam and other South-East Asian cultures. He was born in Bourges
to an academic family, and grew up in northern Viet Nam. In 1907 his father
opened the College de Protectorate in Hanoi and he would graduate from the
college some 12 years later.
Chính cái tinh thần kháng cự này, đã và tiếp tục bảo tồn ngọn lửa ái quốc, trong cuộc chiến đấu không ngừng và không bao giờ mỏi mệt của đồng bào quốc nội cùng hải ngoại cương quyết lật đổ một quyền lực khinh
miệt nhân quyền và dân quyền, một chính
phủ đã bội phản dân
tộc Việt
Nam qua hai Điều ước ký ngày 30
tháng 12 năm 1999 và 25 tháng 12 năm 2000,
hiến dâng
cho Trung Cộng một phần lớn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.
Xin cảm ơn quí vi.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
Ngày Chủ nhật 3
Th. 4-2005 (tại Nhà Thờ Saint Hippolyte)
Posted by Anges at 8:34 PM
Phụ Lục:
Trăng Mờ Bên Suối – Ngọc Hạ
SÀI GÒN NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN - NGỌC LAN
No comments:
Post a Comment