Sau 42 Năm
Monday, April 17, 2017
Sau 42 Năm
Nguyễn thị Thêm
Gia đình tôi cổ hũ và tôi là đứa con gái duy nhất nên bị ràng buộc trong tầm suy nghĩ của mẹ. "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái
thời tiết
hạnh làm câu trao mình" Cái ông Khổng Tử ở tuốt bên Tàu vậy mà uy lực ổng thật to rộng.
Một người phụ nữ ít học, quê
mùa như má tôi lại thuộc nằm lòng
mấy câu giáo điều đó.
Thuộc để ép mình vào khuôn khổ cả một đời và truyền lại cho con gái.
Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học công giáo do cha đạo mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon
chuẩn úy. Có nghĩa là anh cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều món nợ áo cơm từ cha mẹ.
Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm giữa những vùng xôi đậu. Ban ngày
là của Quốc Gia, ban đêm
Việt Cộng
về thăm dân. Họ nhận tiếp tế,
tuyên truyền và rải truyền đơn.
Người dân như mang mặt nạ, không dám biểu lộ tình cảm của mình với lính Quốc Gia. Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn, ai là Việt Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và đêm
sục xạo, gỏ cửa rình mò của phía bên kia.
Ấp chiến lược sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết đã
không còn hiệu lực. Một con đường vô hình đã mở ra cho sự phát
triển của
phe đối nghịch. Đưa đẩy người dân
vô tội vào
hai gọng kìm
Quốc Gia
và Việt Cộng..
Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân vào thôn
xóm thì như giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết đâu là chính nghĩa.
Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái
Lan súng ống rầm rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt vì
lần đầu
tiên thấy người ngoại
quốc lùng sục khắp nơi. Đó là cái mồi lửa thật tốt châm
ngòi cho phía bên kia. Họ tuyên
truyền trong dân
chúng để kéo
chính nghĩa về phía
họ.
Tôi nói điều này ra có nhiều người sẽ phản đối. Nhưng đó là sự thật khi người dân
không có được một sự giáo
dục rõ ràng về phía
chính phủ. Họ không
hiểu thế nào là Thế Giới Tự Do và
thế nào là Cộng Sản. Họ không
hiểu tại sao
người Mỹ có mặt ở nước mình.
Nhan nhản trên đường những người lính Mỹ say sưa. Những cô gái thôn quê bỗng chốc thay da đổi thịt. Từ
ăn mặc đơn giản lại lòe loẹt chói mắt. Một số biến thành gái mãi dâm mua
vui cho những người lính Mỹ đen, Mỹ trắng. Những người phụ nữ bỏ quên chồng con, diêm dúa trong những bộ quần áo mini ngắn ngủn, son phấn sặc sỡ đi làm sở Mỹ. Những áp phe buôn đồ Mỹ, bán đồ quân tiếp vụ Mỹ, quán rượu mọc ra như nấm. Những đứa bé con lai ra đời, những bào thai bị vất bên đường và thỉnh thoảng phát hiện xác con gái
nằm chết trong bãi rác.
Những tin xấu tràn về thôn
xóm, những hình
ảnh xa đọa lung lay xã hội.
Đau đớn là
ở chỗ
chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ gian ngoa đã
giành chiến thắng.
Những người học sinh trong bộ đồng
phục tới lớp buổi sáng.
Nhưng sẽ là
một liên
lạc liên
báo cáo tin tức vào
buổi tối cho phía
bên kia. Những em học sinh mặt thì già nhưng giấy tờ nhỏ tuổi. Có em đã có vợ, có con nhưng vẫn mang giấy tờ giả đến trường để
trốn lính.
Những chị ngồi trên xe lam đi chợ nói nói cười cười. Những cô gái đẹp làm người tình hờ của lính. Họ là những người nằm vùng của phía bên kia. Nhiệm vụ hoạt động mật, báo tin tức, tiếp tế lương thực, thuốc men và tiếp nhận chỉ thị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trong bộ ngực căng tròn của cô
gái đẹp chứa đầy thuốc trụ sinh. Dưới lằn vải quần mỹ a đen mượt
mà kia là những lớp nylon
bó thật chặc vào đùi để tiếp tế. Trong gà mên cơm đem đi ăn một ngày, họ ém thật chặc cho 2, 3 người ăn. Sau giờ
làm, họ để lại bên rừng cho người của mặt trận về lấy đem đi. Trong làng, đa số là phụ nữ. Nhưng những đứa bé không cha tiếp tục ra đời mà không ai đặt vấn đề.
Chiến tranh đã đẩy những người dân chơn chất thành những kẻ phản bội
"Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng
Sản"
Đừng trách họ, mà hãy trách nhà cầm quyền không bảo vệ được họ. Những người có nhiệm vụ tuyên truyền không dẫn giải cho dân hiểu được sự thật, đâu là bạn, đâu là thù. Những người làm công tác chiến tranh chính trị chỉ làm trên giấy tờ mà không đi vào cái gốc chính là người dân- những người dân quê an phận, hiền lành-
Trong khi
đó kẻ gian rình
mò trong bóng đêm. Những bộ mặt giả nhân nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù
dọa khủng bố đã
len lỏi vào
từng gia đình
Những tổ chức bí
mật được thành
hình, biến người dân
thiệt thà
thành tai mắt, những người đàn bà quê mùa thành những bà mẹ anh hùng.
Thành phố rộn rã tiếng cười, những bar rượu, những
đêm vui thâu đêm suốt sáng. Thành
phố không có chiến tranh cho nên thành phố đẹp, thành phố sang. Đất nước VN không phải chỉ là thành phố mà có cả thôn làng, núi, đồi, sông, biển.
Thôn làng càng xa xôi nghèo nàn, Việt Cộng trà trộn càng
nhiều, càng
khó bảo vệ. Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả thù, sợ bị theo dõi,
sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Tội nghiệp người dân, một cổ hai tròng.
Dù đang sống dưới chế độ Cộng Hòa nhưng vẫn bị Mặt Trận khống chế hàng ngày, hàng đêm.
Gần gũi dân nhất là những người lính Địa Phương Quân. Họ đóng quân
ngay trong làng, sống với dân và người họ sợ nhất lại chính là những người dân. Ai đã từng đi lính thì khắc biết điều tôi nói là sự thật. Chỉ một câu nói lỡ lời thì tin tức hành quân được bên kia nắm bắt. Và những chuyến phục kích kể như thất bại. hay bị đảo
ngược thế cờ.
Người lính
sống
trong đường tơ kẻ tóc và
người con
gái chấp nhận lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi
khi không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả thù.
Thôn làng do chính phủ VNCH làm
chủ mà người dân
sợ Việt
Cộng hơn Quốc Gia.
Đã trễ quá rồi khi nói
đến điều
này, nhưng tất cả chúng ta đều là
nạn nhân của một cuộc lừa đảo. Bao nhiêu nhân mạng oan khiên
đã chết một cách
thảm thương
cho cuộc chiến tương tàn.
Bao nhiêu thanh niên của nước Mỹ giàu
đẹp đã bỏ thây
một cách oan uổng trên
chiến trường
VN. Vì sự sai lầm của
cả hai phía. Tất cả tang thương
đó đã đổ lên vai, lên đầu của thế hệ chúng tôi. Những người lính,
những người
vợ lính và những trẻ thơ vô tội
42 năm qua rồi, nhưng mỗi khi tháng Tư Đen
lại về tôi lại xoay cuồng trong suy nghĩ. Tôi khâm phục cái nhìn thật rõ ràng cốt lõi cuộc chiến VN của Tống Thống
Ngô Đình Diệm. Ngài biết thật rõ ràng về Cộng Sản kể cả sách lược bảo vệ quốc gia. Ngài không muốn người Mỹ hay đồng minh đổ
bộ vào Việt Nam. Ngài chỉ muốn đựợc tiếp tế vũ khí và ngân sách để bảo vệ và xây dựng đất nước. Ngài lập ra ấp chiến lược là để cắt đứt nguồn tiếp tế lương thực và thuốc men cho phía bên kia. Đồng thời xây dựng một lực lượng bảo vệ xóm làng từ người dân. Nhưng tiếc thay ngài đã bị giết chết. Chế độ Đệ nhị Cộng
Hòa không xoay nỗi thế cờ chính trị. Mỹ bỏ rơi VN.
Và
sự thất trận
đau thương xóa sổ VNCH trong ngày 30/4/75 lịch sử. Vận mạng đất nước nhược tiểu nằm trong tay của những
đại cường. Một cuộc mua bán, sang
nhượng chính trị. Đất nước ta là
món hàng đưa lên bàn cân ngã giá. Kẻ thắng chẳng oai hùng, người thua đầy uất ức.
Bốn mươi hai năm qua rồi, nhắc lại thêm ngậm ngùi, đau đớn. Bao nhiêu mạng người đã
bỏ thây
trong cuộc chiến, trên
con đường chạy loạn 30/4/1975. Bao nhiêu xác người tù CS bị bỏ thây trên rừng thiêng nước độc. Bao nhiêu xác người bị chết trên biển đông và trong bàn tay của hải tặc.
Bao nhiêu?
bao nhiêu? Một câu
hỏi làm
nghẹn lòng
người Việt trên
khắp năm châu.
Thoắt một cái đã 42 năm. những người có mặt và tham dự trong cuộc chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa râm, những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng xây dựng một thế hệ tiếp nối. Cố
gắng sống tốt và làm sống lại một thuở hào hùng.
Đôi chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha, người ông đã tận lực mình vì hai chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm trăn
trở, dằn vặt vì sức tàn, lực kiệt
42 năm cho những người di tản. Mấy chục năm cho những người
HO đang sống ở một nước khác
quê hương mình. Sau 30/4 người sĩ quan VNCH bị tù
đày nơi rừng thiêng
nước độc.
Không một bản án, không biết ngày về. Họ được thả ra với một thân thể suy nhược, một tâm
hồn
loang lỗ những thương đau. Trong họ mọi thứ đều đỗ vỡ, bi thương. Được thả từ
nhà tù hẹp ra nhà tù lớn với vài
chục đồng
lộ phí và một túi hành trang nhẹ tênh. Nhưng họ lại mang quá nặng cái
lý lịch đen "Ngụy Quân" đè bẹp cuộc đời và
cả gia
đình .
Có người tìm lại được mái
ấm gia đình.
Có vợ, có
con để dựa nương, bám víu.
Có người không còn nhà cửa, vợ con thân thích.
Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ cuộc sống của những người tù CS sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có những người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có một thế hệ thứ hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế giới. Chúng ta sẽ không bao giờ có một Little SaiGon trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hảnh diện giơ cao lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta
không có xe hoa diễn hành ngày tết Nguyên Đán,
Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử "Quân lực VNCH". Không có tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và cũng không thể có những nghị quyết "Vinh Danh cờ vàng" tại nhiều thành phố trên nước Mỹ, Úc, Canada.
Cám ơn Bà Hạnh Nhơn. Cám ơn nnhững ân nhân đã cứu vớt, đã mở con đường sống cho những người liều chết tìm tự do như chúng tôi.
42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những chứng nhân lịch sử rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một thế hệ VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ, sinh ra tại Mỹ và chúng gia nhập vào dòng chính để làm một người Mỹ thực thụ.
Hôm
tuần trước tôi
đi dự một đám
ma. Người chết là
một bà
bác 90 tuổi. Con cái,
người thân
quen đến viếng tang đa phần là người Việt, nói tiếng Việt. Nhưng quỳ dưới kia các cháu dâu rễ đa phần là người Mỹ. Bầy cháu cố cũng là
những đứa bé
Mỹ lai nói
toàn tiếng Mỹ. Cả một đại gia đình nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ. Người chết
chắc hẳn sẽ buồn và
không hiểu chúng
đang nói chuyện gì.
Người tham dự như tôi cũng xót xa cho ngay bản thân mình. Rồi thì cũng thế mà thôi hay sao?
Không? Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt. "Tiếng Việt còn, nước ta còn."
Chúng ta không thể không hòa nhập nhưng không thể để mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi để hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các
cháu đang làm sống lại dòng sử Việt. Các cháu giương
cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về nó.
Dù muốn dù không
chúng ta cũng đã rời khỏi VN. Mọi việc của quê hương đất nước phải do người trong
nước quyết định. Có thay đổi được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay không là do
người trong nước thực
hiện. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ tinh thần, tiếp tay
đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.
Các bạn ơi! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho một đời
người. Con gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã 42 tuổi, là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính VNCH trẻ nhất cũng đã ngoài 60.
Những người lính già bây giờ đều đã đi gần cuối cuộc đời. Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật
chất nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn nguôi cho những giấc mơ về một VN tự do
dân chủ.
Tôi
yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi
nhớ gia
đình, họ hàng anh em và bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của tuổi thơ và tuổi trẻ. Thú
thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày
nào đó tôi trở về không
nhận ra
đất nước của mình.
Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt Nam. Người Việt mình sẽ bị làn
sóng người Tàu
tràn xuống tịch thu nhà
cửa,
chiếm cứ ruộng vườn. Họ sẽ đày
người Việt
mình đi vào những nơi rừng núi hay đồng khô
cỏ cháy. Họ sẽ xóa
một nước
VN như chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn
bạo hơn,
quyết liệt hơn, dã man
hơn để đồng hóa
chúng ta. Vì mộng bá
chiếm VN ấp
ủ mấy ngàn năm nay đã toại nguyện.
Một SàiGòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản đã mất. Có thể rồi đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới . Chẳng ai còn nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung....
Tôi có bi quan quá hay không? Xin nhường câu trả lời cho tất cả mọi người. Chỉ mong sẽ không bao giờ là sự thật. Chỉ mong được như vậy.
Xin các đấng tiền nhân, hương
linh những anh hùng tử sĩ phò hộ cho nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.
42 năm đã quá đủ cho những thương đau.
Nguyễn thị Thêm
Tháng 4/2017
****
Posted by Anges at 2:34 AM
No comments:
Post a Comment