Liên
bang Đông Dương
Cách nay
131 năm, Pháp lập ra Liên
bang Đông Dương
Ngày 17
tháng 10, 1887
·
1887 – Liên bang Đông Dương (hình) được
thành lập với bốn thành viên ban đầu là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Miên.
Liên bang Đông Dương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Liên bang Đông Dương
Liên
hiệp các thuộc địa và xứ bảo hộ
1887–1945
(ngày 09 tháng 03)
Khẩu
hiệu
Tự
do – Bình đẳng – Bác ái (Liberté – Égalité – Fraternité)
Cấu
trúc chính trị Liên hiệp các thuộc địa và
xứ bảo hộ
Giai
đoạn lịch sử Chủ nghĩa tân đế quốc
Đế quốc Nhật Bản 09 tháng 3, năm 1945 đảo chính
Pháp, sáp nhập Liên bang Đông Dương vào Đế quốc Nhật Bản
1935 750,000 km² (290 sq mi)
1935
(ước tính) 21,599,582
Tiến trình xâm lược của
thực dân Pháp và Anh ở Đông Nam Á
|
Liên
bang Đông Dương thuộc Pháp vào năm 1905. Bản đồ này bao gồm cả lãnh thổ của
Xiêm (màu tím) thuộc "vùng ảnh hưởng" của Pháp.
Hành
chính
Liên bang Đông Dương được đặt dưới quyền của hai cơ quan ở chính
quốc Pháp. Nam Kỳ, Cao Miên và Lào phụ
thuộc Bộ Thuộc địa Pháp dưới sự cai trị quân sự trong khi Trung và Bắc Kỳ phụ
thuộc Bộ Ngoại giao Pháp do của nhà chức trách dân sự. Dưới
thời Toàn quyền Doumer việc cai trị mới được gộp lại trực thuộc Bộ Thuộc địa.
Cấp liên
bang
Bài chi tiết: Toàn quyền Đông Dương
Địa hình và phân vùng hành chính trong Liên
bang Đông Dương thời kỳ ổn định.
Bản đồ Liên bang Đông Dương 1930
Đứng đầu liên bang Đông Pháp là viên Toàn quyền và Tổng thư ký,
tức Phó Toàn quyền. Sau năm 1945 chức vụ Toàn quyền Đông Dương đổi thành Cao ủy Pháp tại
Đông Dương (Hauts commissaires de France en Indochine) và đến năm 1953
thì gọi là Tổng ủy (Commissaires généraux).
Chức toàn quyền được giao quyền lực rất lớn vì là người đứng đầu
về hành chính lẫn quân sự. Hỗ trợ cho chức vụ này là Hội đồng Tối cao (Conseil
supérieur). Cơ quan này gồm có
·
Toàn quyền (đứng làm chủ tịch),
·
Tổng tư lệnh quân đội,
·
Thiếu tướng hải quân chỉ huy hạm đội Viễn Đông,
·
Thống đốc Nam Kỳ
·
Thống sứ Bắc Kỳ
·
Thống sứ Ai Lao
·
Thống sứ Cao Miên
·
Khâm sứ Trung Kỳ
·
Chủ tịch Đại hội đồng Kinh tế Tài chính,
·
Bốn người bản xứ đặc bổ.
Hội đồng Tối cao họp hai năm một lần, một tại Hà Nội và một tại
Sài Gòn, để ban hành các đạo luật và tính toán ngân sách chung và riêng của
từng xứ.
Mười một bộ ở cấp liên bang gọi là tổng nha môn (services
généraux) được giao việc điều hành các công vụ của nhà nước.
Thứ tự Tổng nha môn (năm thành lập) Chủ sự
1 Tài
chính (1897) Giám
đốc
2 Học
chính Giám
đốc
3 Tư pháp Giám
đốc
4 Công
chính (1898) Tổng
Thanh tra
5 Công
khoáng Tổng
Thanh tra
6 Y tế Tổng
Thanh tra
7 Nông
lâm (1899) Tổng
Thanh tra
8 Bưu
chính (1901) Giám
đốc
9 Công an
(1922) Giám
đốc
10 Quân sự Tổng
Tư lệnh
11 Hải
quân Tư
lệnh
Cấp liên bang còn có hai nghị hội: "Hội đồng Chính
phủ" (Conseil de Gouvernement de l'Indochine) và Đại hội
đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des
Intérêts économiques et Financiers de I’Indochine), thành lập năm 1928. Hội
đồng Kinh tế có 51 thành viên: 28 người Pháp và 23 đại biểu của ba xứ Việt, Miên,
Lào. Trong
số 23 người bản xứ thì người Việt chiếm 17 hoặc 18 ghế. Hai
hội đồng này chủ yếu là cơ quan tư vấn và thảo nghị chứ không phải là viện lập
pháp.
Về mặt tư pháp thì
ở cấp liên bang có hai tòa án thượng
thẩm đặt ở Hà Nội và Sài Gòn để nhận các bản kháng án từ những tòa án địa
phương. Hệ thống tư pháp này duy trì trật tự công lý. Trong các vụ kháng án,
các quan tòa người Âu được sự hỗ trợ từ quan lại người bản xứ. Về nguyên tắc,
Liên bang này hoàn toàn theo chế độ tòa án và luật pháp của Pháp.
Ngoài quyền đại diện liên lạc với chính quốc, ứng xử ngoại giao
và điều hành quân đội, chính quyền Liên bang còn có toàn quyền tài chính. Triều
đình Huế nhận "lãnh lương" từ chính phủ Bảo hộ.
Tổng cộng trên toàn cõi Đông Dương vào năm 1936 chính
quyền có khoảng 3.300 công chức người Pháp trong guồng máy cai trị, trong số đó
400 thuộc cấp liên bang tập trung ở Hà Nội; số còn lại phụ thuộc cấp địa
phương. Đa số xuất thân từ Trường Thuộc địa (École Coloniale ở Paris).
Cấp địa
phương thuộc địa
Trong sáu xứ thuộc Liên bang Đông Dương thì riêng Nam Kỳ là trực
thuộc cai trị của Pháp dưới chế độ thuộc địa. Đứng đầu Nam Kỳ là Thống đốc (gouverneur), có "Hội
đồng Tư mật" và Hội đồng Thuộc địa là
hai nghị hội.
Ở cấp nhỏ hơn thì có Chánh Tham biện (administrateur)
đứng đầu mỗi địa hạt (arrondissement), sau đổi thành Chủ tỉnh (Tỉnh
trưởng) (chef de la province) và tỉnh (province). Dưới tỉnh là
quận (circonscription) và cơ sở phái viên hành chánh (délégation
administrative), đứng đầu là viên Chủ quận (Chef de la circonscription)
và vị Phái viên hành chánh (Délégué administratif) tương ứng; rồi đến
cấp tổng (canton) với cai tổng quản lý.
Dân Nam Kỳ hưởng quy chế "thuộc dân Pháp" (sujets
français) và được hưởng quyền lợi nhiều hơn các xứ khác. Muốn vào Pháp tịch
để bình đẳng như dân mẫu quốc thì phải nộp đơn để thành citoyens
français. Nam
Kỳ cũng là xứ có bầu cử định kỳ và vận động cử tri. Người có Pháp tịch hoặc hội
đủ một số điều kiện tài chánh mới có quyền đi bầu.
Ở cấp tỉnh thì hội đồng tỉnh ở Nam Kỳ bắt đầu hoạt động từ
năm 1882. Thôn
xã được tổ chức với khái niệm dân chủ đầu phiếu từ năm 1927.
Cấp địa
phương bảo hộ
Bốn xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Miên thuộc chế độ bảo hộ, tức
hệ thống hành chính bản xứ được duy trì và người Pháp cai trị gián tiếp qua
ngạch quan lại Việt (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ), Miên hoặc Lào. Vì lẽ đó mà có hai
hệ thống song hành, một của Pháp, một của bản xứ, trên pháp lý là bình quyền
cùng giám sát quốc sự, nhưng khi thi hành thì chế độ bản xứ tùy thuộc vào quyền
phán quyết của người Pháp. Bộ Ngoại giao Pháp đảm nhiệm việc hành chính nhưng
sang đầu thế kỷ 20 thì giao lại cho Bộ Thuộc địa Pháp, phản ảnh quan điểm và
chính sách của Pháp đối với các xứ bảo hộ. Dân cư của các xứ Trung Kỳ, Bắc Kỳ,
Lào và Miên trên mặt pháp lý thuộc hạng protéges français, thấp
nhất trong ba hạng citoyens (công dân), sujets (thuộc
dân), và protéges (dân bảo hộ) ở Đông Dương.
Bắc Kỳ
Đứng đầu nền bảo hộ Bắc Kỳ là Thống sứ người Pháp (Résidents supérieurs)
(1889-1955) cùng ba nghị hội "Hội đồng Bảo hộ", "Hội đồng Pháp
nhân" (đại diện người Pháp), và "Viện Dân biểu Bắc Kỳ" (đại diện người Việt).
Viên thống sứ tuy là người Pháp nhưng kể từ ngày 26 Tháng Bảy năm 1897 kiêm
cả chức đại diện cho Nam triều, tức là kinh lược sứ của
vua nhà Nguyễn. Các quan lại bản xứ trên danh nghĩa là
quan của triều đình Huế nhưng đều trực thuộc quyền viên thống sứ. Chủ
quyền của triều đình Huế ở Bắc Kỳ từ đó càng bị thu hẹp. Trước năm 1889, khâm
sứ Trung Kỳ đại diện cho cả hai xứ Bắc và Trung Kỳ.
Kể từ năm 1900 Thống sứ Bắc Kỳ kiêm luôn chức quản trị Quảng Châu Loan tuy đây là một nhượng địa
riêng với hạn kỳ 99 năm.
Cấp tỉnh thì hội đồng tỉnh bắt đầu hiện diện từ năm 1886 nhưng
hoạt động yếu ớt. Ở cấp làng xã thì
cũng như tiền triều nhà
Nguyễn, người dân được tự trị. Mãi đến năm 1941 ở
Bắc Kỳ mới thực hiện cải cách, cho dân chúng đầu phiếu bầu hội đồng xã.
Trung Kỳ
Đứng đầu nền bảo hộ Trung Kỳ là Khâm sứ người Pháp. Chức vụ này từ năm 1884
đến 1889 có tên là Résidents généraux d'Annam. Sau năm 1889 thì đổi
thành Résidents supérieurs (1889-1953). Hành dinh của Khâm sứ
Pháp đặt ở Huế. Sang thập niên 1950 thì chuyển vào Đà Lạt.
Khâm sứ Trung Kỳ tham gia hội đồng phụ chính từ năm 1887, đến
Tháng Sáu năm 1895 thì có đặc quyền chủ tọa Hội đồng Cơ mật và
cả Tôn nhân phủ. Tất
cả các công văn sắc dụ ban hành đều phải có chữ ký phê thuận của viên khâm sứ. Ngoài
ra Triều đình Huế kể từ Tháng Chín 1897 phải chịu cho một viên hội lý người
Pháp làm quản sự cho mỗi vị thượng thư trong Lục bộ cũ.
Hiệp sức với viên Khâm sứ là "Hội đồng Bảo hộ" và
"Hội đồng Pháp nhân" (đại diện người Pháp). Trung Kỳ cũng có "Viện Dân biểu Trung Kỳ" thành lập năm 1926 nhưng
cơ quan này kể từ năm 1932 không thuộc chính phủ bảo hộ nữa mà thuộc triều đình
Huế kiểm soát. Trước năm 1932 Viện Dân biểu trực thuộc viên Khâm sứ Pháp.
Thống sứ Bắc Kỳ hay Khâm sứ Trung Kỳ là hai cách gọi khác nhau
của người Việt nhưng chức vị và quyền hành trong chính phủ Bảo hộ thì giống
nhau. Tiếng Pháp gọi chức vụ này là résident supérieur, đúng ra
dịch sát nghĩa là "lưu trú quan đại thần".
Ở cấp tỉnh thì có hội đồng tỉnh, thành lập từ năm 1913, muộn
hơn Bắc Kỳ 27 năm, và mãi đến năm 1942 mới
bắt đầu tổ chức lại thôn xã và cho phép người dân đầu phiếu hội đồng xã.
Vùng duyên hải thì hệ thống quan lại và hành chánh của người
Việt thì giữ nguyên nhưng ở trên Cao nguyên thì người Pháp lập một khu riêng,
không do người Việt quản trị, gọi là Pays Montagnards du Sud bắt
đầu vào thập niên 1920. Người Việt không có giấy phép
không được lên vùng này.
Cao Miên, Lào, và các tỉnh
Ở Lào và Miên cũng có khâm sứ như Trung Kỳ. Khâm sứ Pháp ở Cao
Miên kể từ năm 1897 có quyền hành rộng lớn như khâm sứ ở Huế.
Ở cấp tỉnh thì ở mỗi tỉnh có công sứ (résident)
người Pháp trong khi người Việt thì có tổng đốc, tuần
phủ hay quản đạo tùy
theo tỉnh lớn hay nhỏ ở miền xuôi hay ở mạn ngược. Dinh công sứ không nhất thiết
đặt ở tỉnh lỵ như tỉnh Bắc Ninh thì công sứ đặt hành sở ở Gia Lâm. Bắc
Kỳ và Trung Kỳ ở cấp phủ huyện, người Pháp còn đặt một số đại lý (délégués)
giám sát việc cai trị. Như tỉnh Ninh Bình thì dinh công sứ đặt ở Phát
Diệm và một đại lý nữa ở Phủ Nho Quan. Viên
công sứ nắm quyền thuế vụ.
Ở Cao Miên thì khet (tương
đương với "tỉnh") thì có chau-faikhet. ở Lào không
có cấp tỉnh mà chỉ có cấp tương đương với phủ huyện (tiếng
Pháp: préfecture) gọi là mouang hay muang,
có chao-muang đứng đầu. Công sứ Pháp ở Cao Miên so với Việt
Nam thì việc cai trị có tính trực tiếp hơn tuy vẫn là trên danh nghĩa "bảo
hộ". Công sứ ở Miên có thực quyền trị an, thu thuế, mở mang kinh tế mà
không cần sự ưng thuận của Miên triều.
Cấp địa
phương nhượng địa
Đạo dụ 1 Tháng Mười năm 1888 triều Đồng Khánh (Toàn quyền Richaud) cắt thêm ba
thành phố Hà Nội, Hải
Phòng, và Đà Nẵng (người Pháp gọi là Tourane) làm nhượng địa (concession)
cho Pháp, tức là cùng thể chế trực trị như Nam Kỳ tuy nằm trong lãnh thổ bảo hộ
bản xứ.
Đứng đầu hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn là viên Đô trưởng
người Pháp (Maire). Hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng tại Bắc Kỳ cùng
thành phố Tourane (Đà Nẵng) tại Trung Kỳ, đứng đầu là viên Đốc lý người Pháp (Résident-maire).
Bên cạnh viên Thị trưởng hay Đốc lý là Hội đồng thành phố (Conseil Municipal)
đối với thành phố loại I hoặc Ủy hội thành phố (Commission Municipale)
đối với thành phố loại II. Thành viên của Hội đồng hoặc Uỷ hội gồm cả người
Pháp lẫn người Việt; Hội
đồng thành phố Sài Gòn được lập năm 1869, Ủy hội thành phố Chợ Lớn lập năm
1879, Hội đồng thành phố Hà Nội và Hải Phòng lập năm 1891 và Ủy hội thành phố
Tourane lập năm 1908.
Ngoài ra bốn quân khu vùng biên giới Việt-Hoa và Lào-Hoa cũng
thuộc dạng cai trị trực tiếp. Cao nguyên Trung phần gồm các tỉnh Darlac (lập năm 1904), Kontum(1913), Donnai Thượng, Lang Bian (1920),
và Pleiku (1932)
cũng đặt ngoài quyền quản trị của người Việt.
Pháp
luật
Pháp luật ở Trung Kỳ thì dùng bộ luật Gia Long bổ sung với hình luật và
dân luật của Pháp. Ở cấp dưới thì quan tri phủ và tri huyện đứng làm quan tòa
sơ thẩm, quan tỉnh xét phúc thẩm và công sứ Pháp có nhiệm vụ kiểm sát. Chung
thẩm thì có bộ Hộ và bộ Hình cùng khâm sứ Pháp.
Ở Bắc Kỳ thì có bộ "Hoàng Việt Tân luật" ban hành năm
1918 dùng bộ luật Gia Long nhưng sửa đổi theo thích ứng của chính quyền Pháp.
Cũng giống như Trung Kỳ, quan tri phủ và tri huyện xét sơ thẩm. Đệ nhị cấp thì
có công sứ Pháp làm chính thẩm còn quan tổng đốc và tuần phủ làm bồi thẩm. Trên
hết là tòa Phúc thẩm Hà Nội.
Đối với người Pháp thì luật lệ bản xứ không áp dụng cho họ vì họ
được xét xử dưới bộ luật Pháp như ở bên Pháp.
Quân
đội & an ninh
Lực lượng quân sự của Pháp ở Đông Dương vào năm 1937 là
10.779 lính da trắng. Đến năm 1940 trước Chiến tranh thế giới thứ hai thì
con số này tăng lên thành 14.500, trong đó có 3.600 sĩ quan chỉ huy và 4.000
quân Lê dương (Legionnaires étrangères).
Tổng số quân lính kể cả lính bản xứ là 90.000.
Ngoài ra chính quyền Đông Dương còn dùng Sở Liêm phóng Đông Dương làm cơ quan tình báo và công an, kiểm
soát và phá hoại các hoạt động chống lại chính quyền, nhất là các tổ chức chính
trị.
Phân
chia địa chính
Bản đồ địa giới Bắc Kỳ năm 1879 bao gồm cả
thị trấn Đông Hưng và mũi Bạch Long, đến năm 1887 bị Pháp cắt cho nhà Thanh
Trước cả khi Liên bang Đông Dương được thành lập, vào thập kỷ
1870 Pháp đã tiến hành phân chia địa giới giữa Nam Kỳ thuộc Pháp và Cao Miên
do Pháp bảo hộ. Năm 1870 Pháp cùng Cao Miên điều chỉnh ranh giới tại vùng
thượng nguồn giữa hai sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông: Phần lớn đất đai
vùng này là vùng lồi Svay Tieep-Svay Rieng (nay thuộc tỉnh Svay Rieng) trả về Campuchia; bù lại một
dải đất nhỏ dọc bờ tây nam rạch Cái Cậy (thượng lưu của sông Vàm Cỏ Đông) vốn thuộc tỉnh Prey Vengthì trao cho Nam Kỳ. Dải đất
này đến năm 1914 thì lại nhập vào Campuchia bởi nghị định của Toàn quyền Đông
Dương. Năm 1873 hoàn thành việc cắt chỉnh địa giới hai hạt Hà Tiên và Châu Đốc
của Nam Kỳ, phần đất phía bắc kênh Vĩnh Tế và thị xã Hà Tiên ngày nay, về cho Campuchia.
Dưới sự cai trị của Pháp, địa giới các xứ Đông Dương được phân
định lại. Công ước Pháp-Thanh 1887 lấy
đông kinh tuyến 105º43’ làm giới hạn bên bờ Vịnh Bắc Việt nên một dải đất Trường
Bình, Bạch Long ở phía bắc sông Bắc Luân thuộc tổng Vạn Ninh bị
nhượng cho nhà Thanh. Việc
đóng mốc phân định biên giới hoàn thành năm 1896. Vì sự chia cắt đó đến năm
2000 có 22.000 người Kinh là hậu duệ người Việt cũ vẫn sinh
sống ở đất Quảng Tây. Ngược lại đất các vùng Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai xưa
là phên giậu biên thùy, từng triều cống Lão Qua, thì
nay được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Đất Trấn
Ninh và Sầm
Châumặc dù có quan Việt cai quản thì người Pháp lại cắt cho Lào kể
từ năm 1895 và 1903.
Vùng Cao nguyên Trung phần thì người Pháp năm 1893 buộc triều
đình Huế cắt ra và cho phụ thuộc Lào.
Năm 1904 thì Darlac (Ban Mê Thuột) mới được trả lại Trung
Kỳ; Kontum theo chân năm 1905. Tuy
nhiên khu vực cao nguyên này gần như trực thuộc người Pháp cai trị. Triều đình
Huế có quyền bổ nhiệm viên quan quản đạo nhưng thực quyền nằm trong tay công sứ
Pháp. Năm 1923 chính
công sứ Darlac là Léopold Sabatier đã
ra lệnh tuyệt cấm người Việt lên lập nghiệp ở Darlac rồi lại vận động khâm sứ Trung Kỳ là Pierre Pasquier áp
dụng chung chính sách này cho toàn cao nguyên Trung phần.
Năm 1916 vì bất ổn ở vùng biên giới Việt-Hoa, chính quyền Bảo hộ
cho lập năm quân khu để kiểm soát vùng cực bắc xứ Bắc Kỳ và Lào.
Từ thập niên 1890 chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế đã
có dự định dựng ngọn hải
đăng để khẳng định chủ quyền của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng đồ án không thực
hiện được và mãi đến năm 1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo
này. Dù
vậy khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì
Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối. Cuộc
tranh chấp này kéo dài cho đến khi người Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn
chưa kết thúc.
Kinh
tế
Năm tấn
1939 66.556
1940 72.245
1941 76.069
1942 75.178
1943 74.734
1944 61.361
1945 12.000
1946 20.295
1947 38.560
1948 43.000
1949 45.000
Năm tấn
1865 50.000
1875 268.000
1890 460.000
1900 595.000
1910 815.000
1925 1.300.000
Tiền giấy mệnh giá 1 đồng
bạc Đông Dương
Tem Đông Pháp
Sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884) thì
quân đội Pháp tiến vào Kinh thành Huế tiếp thu các cơ quan hành chánh kể cả kho
bạc. Họ ghi nhận thu được hơn 6.000 nén vàng, 2.000
đồng vàng và vô số bạc nén. Phân nửa sau đó được hoàn lại triều đình Huế còn phân nửa được đưa lên
tàu chở về chính quốc Pháp trang trải binh phí cuộc viễn chinh. Tổng cộng trọng
lượng Pháp thâu nhận bằng biên bản là 14.630 kg bạc
và 1.335 kg vàng, phần lớn mang nấu chảy để đúc lại sung vào công quỹ của Pháp.[31]
Kinh tế Đông Pháp từ đó được vận hành chủ yếu là một nền kinh tế
thuộc địa để hỗ trợ cho kinh tế Pháp chứ không có kế hoạch tự túc hoặc phát
triển theo khả năng bản xứ. Toàn quyền Pasquier đã khẳng
định: "Il faut que les profits de l'Indochine reviennent aux
Français" ("Lợi nhuận từ Đông Dương phải trao lại cho nước
Pháp"). Đông Pháp là nguồn nguyên liệu và vật liệu bán chế trong khi chính
quốc Pháp cung ứng những sản phẩm chế biến để bán lại sang Đông Pháp.
Về mặt nông lâm, cơ chế đồn điền nhất là đồn điền cao su để
cung cấp cho thị trường Âu Mỹ là một điển hình cho mối tương quan giữa Pháp và
Đông Pháp. Cây cao su Hevea brasiliensis đầu tiên đem từ Mã Lai sang
trồng ở Đông Dương là vào năm 1897 ở Sài Gòn. Đến năm 1905 thì cạo mủ thấy sản
xuất được nên bắt đầu phát động đem trồng nhiều nơi.[32] Nhiều công ty lớn của
Pháp như hãng Michelin đều
đầu tư vào ngành này, sở hữu những đồn điền với diện tích rộng lớn, tổng cộng
chiếm hơn 138.000 hecta trên toàn Đông Dương.[33] Tính
đến năm 1926 thì diện tích trồng cao su là hơn 166.000 ha với 13 triệu cây cao
su.[34] Số
lượng nhân công cần để khai thác nguồn lợi này cũng đã làm dao động xã hội bản
xứ. Lượng cao su xuất cảng đạt hơn 10 nghìn tấn vào năm 1929 và tiếp tục gia
tăng đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ. Sản lượng cao su sau đó tụt xuống chỉ còn 15% sản lượng tiền chiến và không
phục hồi được cho dù có đến cuối thập niên 1940 đã đạt khoảng 60% sản lượng cao
nhất.
mặt hang diện tích
(hecta) sản lượng (tấn)
lúa gạo 6.000.000 8.000.000 (thóc)
bắp ngô 430.000 370.000 (hột lóc)
cao su 133.000 76.000 (tấm)
chè 25.000 17.000 (lá)
cà phê 12.000 3.500 (hột)
hột tiêu 3.000 4.000 (hột)
mía 40.000 80.000 (đường)
thuốc lào 15.000 14.000 (lá)
bông gòn 15.000 1.300 (bông)
Lượng nông phẩm lớn nhất của Đông Dương là lúa gạo, đạt
2.140.000 tấn xuất cảng năm 1937 với diện tích canh tác ở Nam Kỳ tăng mạnh từ
522.000 hecta năm 1880 đến 2 triệu 2 hecta năm 1937.[36] Chính
phủ Bảo hộ có tay trong việc phân phát đất đai. Tính đến năm 1940, 1.299.500
hecta được phát cho người bản xứ và 962.200 hecta cho người Âu châu. Trên tổng
số đó, 63% là cho người Âu châu so với 89% đất phát cho người bản xứ là ở Nam
Kỳ. Dân bản xứ tập trung lĩnh canh đất trồng lúa trong khi người Pháp lấy đất
mở đồn điền trồng cao su, cà phê, chè.[37] Vào
thập niên 1950 trong số các địa chủ sở hữu hơn 100 ha, phần
lớn tập trung ở Nam Kỳ thì 2033 người là người Việt và 430 là công dân Pháp.[38]
Những khu vực kinh tế khác được chính phủ Bảo hộ lưu ý là khoáng
sản (than đá, chì, kẽm), chè, cà phê, hạt
tiêu. Kỹ nghệ nhẹ như ngành dệt, thuốc
lá, xi măng cũng
được phát triển.
Kỹ nghệ lớn nhất với khoảng 50.000 công nhân là ngành khai thác
than đá, chủ yếu ở Hà Tu và Hòn Gai(Pháp
gọi là Hongay) và Cẩm Phả của
công ty "Société de Charbonnages du Tonkin". Hãng "Société de
Charbonnages du Đông Triều" thì khai thác ở Kê Bào. Năm 1930 sản lượng
than đá khai thác là 1.890.000 tấn, trong
đó 3/4 được xuất cảng.
Những mặt hàng được nhập khẩu chính vào Đông Dương thời kỳ này
là sữa đặc, thức ăn đóng hộp, bột mì, rau, đường, cà
phê, trà, thuốc lá, chỉ bông, vải bông, rượu, than, dầu lửa, đồ kim loại, dược
phẩm, xà phòng, đồ gốm, đồ thủy tinh và pha lê, giấy, máy móc, xe hơi, v.v. Các
mặt hàng xuất khẩu quan trọng gồm có: gạo, cá (cá khô và cá muối), tiêu, quế,
dầu thực vật, gỗ tếch, sợi
bông (thô), than và kẽm, lụa (thô), xi măng, thảm chiếu, da, v.v. Cán cân xuất
nhập khẩu vào năm 1914 là thặng dư gần 66 triệu đồng.
Giá
trị nhập khẩu (franc) Giá trị
xuất khẩu (franc)
Bắc Kỳ 96.239.000 100.260.000
Trung Kỳ 6.364.000 11.1360.000
Nam Kỳ 158.998.000 219.253.000
Campuchia 4.891.000 1.686.000
Tổng
cộng 266.492.000 332.335.000
Cơ quan điều hành kinh tế cho cả sáu xứ Đông Pháp là Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine),
thành lập từ năm 1875. Ngân hàng này có đặc quyền phát hành đồng bạc Đông Dương (piastre indochinoise).
Chính quyền Bảo hộ còn giành độc quyền bán thuốc phiện, rượu,
và muối, còn
được gọi là thuế "môn bài". Ba khoản thu này cộng thêm quan thuế xuất
nhập khẩu cung ứng 95% ngân sách để trả lương công chức.[40] Lấy
trường hợp thu ngân của chính phủ Bảo hộ ở Bắc Kỳ năm 1886 trên
tổng số 134 triệu đồng thì bốn nguồn thuế chính là:[41]
1.
thuế thuốc phiện: 45 triệu
2.
thuế rượu: 20 triệu đồng
3.
thuế muối: 45 triệu đồng
Độc quyền nấu rượu thì giao cho công ty Société
des Distilleries d'Indochine phân phối cho toàn Liên bang dưới hiệu
"RA" (Régie de Alcool), tục gọi là "rượu ty". Những
nguồn rượu khác thì bị liệt vào hạng rượu lậu và ai nấu hay mua thì bị truy tố
và tài sản tịch thu.[42] Đối
với thuốc phiện thì quyền nhập cảng, chế biến và bán sỉ là do cơ quan Régie de
l'Opium đảm nhận. Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận chính phủ thu được từ thuốc
phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương.[43] Riêng
việc phân phối bán lẻ là để cho tư nhân, đa số là người Hoa.[44]
Giao
thông
Ga xe lửa Mỹ Tho, 1905.
Khánh thành tàu điện Sài Gòn-Chợ Lớn
27.12.1881
Nỗ lực lớn nhất của nhà nước Bảo hộ là xây dựng hệ thống đường sắt. Đoạn đường sắt thiết lập trước tiên với
kinh phí 11,6 triệu franc là
ở Nam Kỳ, dài 71 cây số, hoàn tất Tháng Bảy năm 1885 nối liền Sài Gòn và Mỹ Tho.[45] Vào
những năm 1897-1900 thì con đường sắt Hà Nội-Lạng
Sơn hoàn thành ở Bắc Kỳ với giá trị chiến lược cao để củng cố
vùng biên giới Việt-Hoa. Sau đó nhà nước chủ trương xây dựng một hệ thống đường
sắt Xuyên Đông Dương (Chemin de fer Transindochinois) nối liền Hà Nội và
Sài Gòn. Dự án này đến năm 1936 mới xây xong, chạy dài từ Nam
Quan đến Mỹ Tho với chiều dài 1714 km. Đây là tiền thân
của đường sắt Bắc Nam của Việt Nam sau này.
Hành trình Sài Gòn - Hà Nội mất 60 giờ đồng hồ, tức hai ngày và ba đêm.[46]
Ngoài ra còn có những nhánh đường sắt khác từ Nam
Vang đến biên giới Xiêm; từ
Sài Gòn đi Lộc Ninh; từ Tháp Chàm lên Đà Lạt;
từ Phủ Ninh Giang qua Kẻ Sặt đến Cẩm
Giàng.[47] Riêng
đoạn đường từ Hải
Phòng lên Hà Nội rồi từ Hà Nội ngược sông
Thao vượt biên giới Việt-Hoa sang Vân Nam thì
do tư nhân hãng "Compagnie Française des Chemins de fer de l'Indochine et
du Yunnan" khai thác. Tính đến năm 1939 thì toàn cõi Đông Dương có
3.372 km đường sắt.[48]
Ở hai đô thị chính, Sài Gòn và Hà Nội chính quyền còn cho thiết
lập hệ thống "tàu điện" (tramways). Tàu điện Sài Gòn khánh
thành năm 1881 lúc đầu chạy bằng hơi
nước và đến năm 1923 mới chính thức chạy bằng điện. Lộ trình
72 km này nối Chợ Lớn, Sài Gòn (theo đường Gallieni, sau năm 1955 là đương
Trần Hưng Đạo[49]) rồi
tỏa ra Hóc Môn, Gò Vấp, phục vụ đến năm 1953 mới tháo bỏ. Tàu điện Hà Nội với
29 km đường rày khởi dụng năm 1901 và mãi đến năm 1990 mới thôi.[50] Để
cung cấp năng lượng, người Pháp đặt hệ thống điện lực. Có lẽ sau Nhật Bản (1886)[51] Hà Nội là thành phố đầu
tiên ở Á châu có điện thắp sáng từ cuối thế kỷ 18. Năm 1897 công suất của công
ty điện lực mà người Việt quen gọi là "sở nhà đèn" tăng lên thành
850 mã lực. Tư nhân cũng có thể đặt mua.[52]
Công trình phát triển đường sá thì có cầu Sông Cái dài hơn 1,600 m do công ty Daydé et
Pillé thực hiện từ năm 1897 đến 1901 mới xong là công trình đáng kể nhất. Ngoài
ra còn có những xây cất nhỏ hơn như cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã ở
Thanh Hóa; cầu Trường Tiền ngang sông Hương ở Huế; cầu Rạch Cát và cầu
Gành(hay cầu
Ghềnh) bắc qua sông Đồng Nai, nối liền Cù Lao Phố với
thành phố Biên Hoà, v.v. Con đường thiên lý sau đó được dải nhựa dần để xe hơi có
thể chạy suốt từ biên giới Việt-Hoa đến biên giới Miên-Xiêm. Tổng cộng trên
toàn cõi có khoảng 28.000 km đường trải nhựa hoặc trải đá sỏi.[53]
Chính phủ Pháp cũng cho thiết lập hệ thống dây thép điện tín, đoạn
đầu tiên hoàn tất năm 1862 nối Sài Gòn, Biên Hòa và Chợ Lớn. Đến
năm 1888 thì đường dây liên lạc Sài Gòn-Hà Nội cũng làm xong.[54]
Xã hội
Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân;
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu, cùng
việc kinh doanh thuốc phiện và rượu như
một đặc quyền của nhà nước.
Xã hội Việt Nam khi đối diện nền kinh tế mới của người Pháp biến
đổi và phân hóa sâu sắc. Mâu thuẫn giữa giai
cấp địa chủ và nông
dân vẫn tồn tại và là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, là tàn
dư của nghìn năm phong kiến. Địa
chủ sở hữu phần lớn ruộng đất. Dù chỉ chiếm khoảng 7% cư dân nông
thôn nhưng địa chủ nắm trong tay 50% diện tích ruộng đất.[cần dẫn nguồn] Một
số dùng thế lực của Pháp để thủ lợi nhưng lòng yêu nước vẫn
là động lực chống Pháp.
Nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội Việt Nam (chiếm khoảng 90% dân số), cũng là thành phần gánh chịu phần lớn
phí tổn của nền Bảo hộ. Giai cấp công
nhân nhỏ hơn, hình thành từ cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp. Họ tập trung ở
các thành phố và khu vực khai thác mỏ.
Cũng tập trung ở thành thị là giai cấp tư sản và tiểu tư sản bao
gồm doanh nhân trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, và
cả nông nghiệp. Ngoài ra trong nhóm này cũng là
giới học sinh, trí
thức, thợ thủ công, công
chức và những người làm nghề tự do.
Các thành phần xã hội tuy chung một khái niệm yêu nước nhưng
cũng có khi đối chọi về kinh tế và văn hóa.
Dân cư
Bản đồ phân bố dân cư theo sắc tộc (dân tộc) trên bán đảo
Đông Dương năm 1904.
Năm
|
|
1921
|
18.800.000
|
1926
|
20.500.000
|
1931
|
21.450.000
|
1936
|
23.030.000
|
1943
|
25.000.000
|
Vào đầu thế kỷ 20, thành phần dân cư của Liên bang Đông Dương
gồm có người Việt, người Khmer, người Thái, người Chăm và các dân tộc thiểu số khác. Trong
số đó, người Việt là đông nhất với 15 triệu người, kế đến là người Khmer với
1,3 triệu người, người Thái 1,1 triệu và người Chăm 100.000, số dân tộc thiểu
số ước khoảng 500.000 người. Ngoài số này, còn có khoảng 300.000 người
Hoa và các dân tộc châu Á khác, 15.000 người Âu và 40.000
người Âu lai Á. Tính tổng cộng, dân số của Liên bang Đông Dương vào khoảng
18.370.000 người, mật độ trung bình 24 người trên một km2.
Thị xã
|
Dân số vào năm 1930
|
Sài Gòn
|
|
Hà Nội
|
|
Hải Phòng
|
|
Huế
|
|
Phnom Penh
|
|
Nam Định
|
|
Đà Nẵng
|
Về phân bố dân cư, người Việt sống chủ yếu ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ, người Khmer sống ở Campuchia, người Thái ở Lào, người Chăm ở Nam Kỳ và
một phần Campuchia; những người thuộc dân tộc thiểu số sống rải rác dọc theo
vùng núi cao trong lục địa.
Trong các sắc dân bản địa, người Việt có tổ chức xã hội cao hơn
cả. Qua kinh nghiệm nhiều đời, họ đã có được những tập quán nông nghiệp phát
triển, nhưng năng lực buôn bán yếu. Thương mại trên khắp Đông Dương nằm trong
tay những người Hoa. Người Thái thích sống ở những vùng cao, với công việc
chính là nuôi gia súc và săn bắn; họ kém văn minh hơn hẳn những người Việt.
Người Khmer thì làm các nghề về gỗ, nông, ngư nghiệp, và săn bắn[39].
Trên pháp lý, người dân Đông Dương chia thành ba hạng. Đứng đầu
là công dân Pháp (citoyens français) gồm
những người Pháp và một số người bản xứ được nhập tịch. Thứ nhì là thuộc dân
Pháp (sujets français) là dân Nam Kỳ và dân chúng của ba thành phố Đà
Nẵng, Hải Phòng và Hà Nội. Hạng ba mới là dân bảo hộ (protégés français)
tức là đại đa số dân chúng Trung, Bắc Kỳ, Lào, và Cao Miên.[61]
Di dân
Một hậu quả của chính sách nhà nước Bảo hộ khi hậu thuẫn việc
thông thương với Trung Hoa là đà gia tăng số người Hoa nhập cảnh với nhiều ưu
đãi.
Năm
|
|
1923
|
19.800
|
1924
|
13.800
|
1925
|
15.200
|
1926
|
19.000
|
1927
|
31.100
|
1928
|
30.100
|
Từ tổng số 60.000 Hoa kiều vào cuối thế kỷ 19, đến năm 1921 thì
số di dân người
Hoa đã tăng thành 156.000 riêng ở Nam Kỳ[63] Họ
nắm tài lực và tận dụng khai thác hệ thống kinh tài khắp Đông Nam Á, nhất là
ngành buôn gạo. Số thương gia tên tuổi lịch sử còn ghi lại có Wang-Tai, Hui Bon
Hoa (tục gọi là "chú Hỏa"), Quách
Đàm (xây chợ Bình Tây).[64] Đến năm 1937 trong
suốt ba Kỳ Trung, Nam, Bắc có 217.000 Hoa kiều, chiếm hơn 11% dân số.[65] Theo
hiệp ước ký giữa Pháp và nhà
Thanh năm 1885 và 1886 thì người Tàu ngụ cư ở Đông Dương hưởng
quy chế ngoại nhân ưu đãi (etrangers bénéficiant d'un statut privilégié)
được miễn sưu thuế, không
phải bắt làm tạp dịch hay nhập ngũ lại được quyền đi lại tự do. Hơn nữa vì
giữ quốc
tịch Trung Hoa, quyền lợi của họ có chính phủ Bắc Kinh
bênh vực.[66]Cộng đồng người Hoa tổ chức
theo nguyên quán, tục gọi là bang (tiếng
Pháp: congrégation). Vào năm 1885 thì có bảy bang ở Nam
Kỳ nhưng sau đó gộp lại thành năm bang căn cứ theo nguyên quán: Quảng Đông,
Phúc Kiến, Hải Nam, Triều Châu, và Hẹ.[67] Ngoài
ra có khoảng 5.000 Ấn kiều. Giống như người Hoa, người Ấn đại đa số là thương
nhân, cùng làm nghề cho vay nặng lãi.[68]
Số người Âu châu đến cuối thập niên 1930 là 39.000, đa số người
Pháp, nắm giữ địa vị then chốt chính trị và kinh tế trong ba ngành xuất cảng
gạo, cao su, và khoáng sản.[69] Ba
nhóm ngoại kiều Pháp, Hoa và Ấn tập trung ở thành thị trong khi dân bản xứ phần
lớn sinh sống ở nông thôn.
Một chính sách di dân nữa được đề ra là việc mộ dân ở Bắc và
Trung Kỳ đưa vào Nam làm phu đồn điền cao su hoặc nông trại miền núi Cao nguyên
Trung Kỳ hay thượng du Bắc Kỳ.[70] Riêng
niên khóa 1926-27, 35.000 người dân từ Bắc và Trung Kỳ được mộ làm phu và đưa
vào Nam Kỳ làm công trong các đồn điền.[71] Người
Việt cũng được khuyến khích di cư sang Lào và Cao Miên.[72] Thống
kê năm 1908 ghi nhận 60.000 người Việt trên đất Miên.[73] Đến
năm 1921 thì tổng số người Việt ở Cao Miên là hơn 140.000[63] và
191.000 vào năm 1937.[74] Cùng
thời gian sau đó vào cuối thập niên 1930 thì số người Việt ở Lào đã tăng lên
gần 40.000.[75] Một
số khác được đưa sang Tân Đảo và
đảo Tân Thế giới làm phu mỏ
và đồn điền của Pháp.
Giáo dục
Cuốn Tự học Pháp thoại tiệp kính tức Phép
học một mình chóng thông tiếng Tây do Henri Oger soạn
để dạy người Việt học tiếng Pháp vào đầu thế kỷ 20, in ở Hà Nội
Một hậu quả khác rất đáng kể của cuộc bảo hộ đối với người Việt
là việc thay đổi toàn diện về học thuật. Ở Nam Kỳ ngay từ năm 1867 người Pháp đã
ngưng hẳn thể chế khoa cử bằng chữ Nho và
đến năm 1878 thì các công văn bằng chữ Nho cũng
bị loại bỏ, thay bằng chữ
Pháp và chữ
Quốc ngữ.[76] Trường
sở tại Nam Kỳ bắt đầu áp dụng theo mẫu trường công ở Pháp từ năm 1879.[77] Tuy
nhiên ở Trung và Bắc Kỳ thì chữ Nho tiếp tục được giảng dạy dưới sự vận động
của Giám đốc Học chính Gustave Dumoutier.[78]
Cải cách năm 1908
Đến năm 1908 thì Hội đồng Cải cách Học vụ (Conseil de Perfectionnement
de l'enseignement indigène, lập năm 1905) thời Toàn quyền Beau lập Học bộ tức
Nha Giám đốc Học chính (Direction de l'Enseignement) dưới sự điều hành
của Henri Gourdon và
quy hoạch lại việc giáo dục ở Trung và Bắc Kỳ, chia thành ba bậc: ấu học, tiểu
học và trung học.
·
Ấu học thì giao cho xã thôn dạy chữ Nho và chữ Quốc ngữ; ai đậu
thì gọi là "tuyển sinh."
·
Tiểu học thì do phủ huyện có huấn đạo và giáo thụ đảm
trách, tiếp tục dạy chữ Nho và chữ Quốc ngữ và có thể tình nguyện học thêm chữ
Pháp chứ không bắt buộc;
·
Trung học thì do quan đốc học ở tỉnh lỵ trông coi và dạy chữ Quốc
ngữ và tiếng
Pháp. Đây bước đầu của chữ Quốc ngữ trong ngành giáo dục của người
Việt.
Tổng số trường học ở Trung và Bắc Kỳ là khoảng 15.000 với
200.000 học sinh.[77] Bắt đầu từ khoa thi
hương năm 1909 thì thí sinh phải biết chữ Quốc ngữ để làm bài.[79] Ở
Hà Nội thì có thêm trường Bảo hộ và
Huế thì có trường Hậu bổ cùng
với trường
Quốc học sẵn có để đào tạo thêm nhân sự.[76]
Cải cách năm 1915
Năm 1915 thì Bắc Kỳ rồi năm 1918 Trung Kỳ cũng theo Nam Kỳ bỏ
khoa cử để theo chương trình do Nha Học chính Đông Dương soạn ra tức bộ học
luật (Code de l'instruction publique) ban hành ngày 21 Tháng 12 năm
1917.[80] Theo
đó thì tiếng Pháp được đưa vào giáo trình từ bậc tiểu học. Tiểu học chia thành
ba cấp:
·
Sơ học (ba năm, đỗ bằng Sơ học yếu lược Certificat
d'etudes primaires Franco-Indigènes, viết tắt là CEPFI),
·
Tiểu học (ba năm, đỗ bằng Cơ thủy Certificat d'etudes
elementaires), và
·
Cao đẳng tiểu học (bốn năm, đỗ bằng Cao đẳng tiểu học Diplôme
d'études primaires supérieures).
Tính đến năm 1938 thì toàn cõi Đông Dương có 406.669 học sinh
tiểu học (tỷ số 1/5 số trẻ em ở tuổi đi học). Đại đa số ghi danh học trường
công nhưng cũng có khoảng 60.000 học sinh theo học ở các tư thục, trong đó 36.000
do Giáo hội Công giáo huấn luyện tại 650 trường sở.[81]
Trung học (ba năm) thì chỉ có bốn trường (lycée) đặt ở Phnôm
Pênh (lycée Sisowath, 1935), Huế (lycée Khai-Dinh, 1936), Sài
Gòn (lycée Petrus-Ky) và Hà Nội (lycée du Protectorat) mà thôi. Học xong hai
năm thì thi lấy bằng Tú tài bản xứ.[82] Ba năm thì lấy bằng baccalauréat.
Bằng baccalauréat được công nhận tương đương với bên chính
quốc kể từ năm 1930.[83] Số người đậu bằng baccalauréat rất
ít oi, như năm 1942 tổng cộng chỉ có 75 người.[77]
Đại học thì có mở chỉ một cơ sở là Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội khai giảng từ
năm 1907 nhưng hoạt động gián đoạn đến năm 1917 mới tái tục. Điểm đáng lưu ý là
chứng chỉ do Đại học Đông Dương cấp không được công nhận là tương xứng với các
trường đại học bên Pháp. Sinh viên Đông Dương muốn sang Pháp học cũng bị gây
khó dễ và hạn chế.[84]
Năm 1924 mở khóa học đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương với
hai phân khoa: 1) hội họa, điêu khắc & trang trí, 2) kiến trúc.[85]
Ở Phnôm
Pênh thì người Pháp lập trường Bảo hộ từ năm 1893. Đến năm 1905
thì đổi thành Collège Sisowath.[86]
Những cải cách của chính quyền Pháp chỉ một phần là để nâng cao
kiến thức dân chúng nhưng còn có dụng ý là để chuyển hướng tư duy của đại
chúng. Thay vì trông đợi vào giới sĩ phu truyền thống dẫn dắt, nay người dân
thường sẽ có nhà nước Bảo hộ đào tạo kiến thức. Đối với người Việt thì nguồn tư
duy đáng sợ cho chính quyền Đông Pháp là Nho học và luồng tư tưởng xâm nhập từ
Trung Hoa và Nhật Bản qua các sách vở Hán văn. Đối với Miên và Lào thì tin tức
từ Xiêm là mối đe dọa.[87] Vì vậy người Pháp đã dồn
nhiều nỗ lực vào việc cải tổ nền giáo dục bản xứ. Một chứng cứ là sách giáo
khoa thời Pháp không dùng danh từ "Việt Nam" mà chỉ nhắc đến
"Đông Pháp" và các xứ lệ thuộc[83]
Nghiên
cứu, khoa học, & kỹ thuật
Henri Mouhot, nhà khoa học và thám hiểm Pháp
ở Đông Dương.
Chính phủ Bảo hộ cho thành lập một số cơ sở khoa học ở Đông
Dương như Viện Pasteur (Institut Pasteur de Saigon, 1890 & Nha Trang, 1895)[88], Nha
Địa chất (Service géologique, 1918), Viện Canh nông Thuộc địa (Institut
agronomie coloniale, 1918), Viện Hải dương học (Institut
océanographique, 1922).[89]
Bác sĩ Alexandre
Yersin qua Viện Pasteur đã có nhiều đóng góp về căn bệnh dịch
hạch. Ông chọn sống tại Nha Trang, Trung Kỳ nơi ông tiếp tục những
cuộc thí nghiệm khoa học cho đến khi mất.
Nhà
thương theo y học Tây phương đầu tiên ở Đông Dương là nhà thương
Chợ Quán, bắt đầu hoạt động năm 1864 nhưng
phải đợi đến năm 1914 thì số lượng y sĩ mới đủ để đáp ứng nhu cầu dịch vụ y khoa thường
xuyên.
Về văn hóa và lịch sử thì có Viện Viễn Đông Bác cổ (École française
d'Extrême-Orient) lập năm 1900 ở Sài Gòn để nghiên cứu, thu thập, và lưu trữ
nhiều cổ vật cùng khai quật các di chỉ khảo cổ. Năm 1902 thì Viện này chuyển ra Hà Nội
với chi nhánh ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Nam Vang, và Battambang.[90]
Một trong những "khám phá" lớn nhất trong ngành khảo
cổ vào thời điểm này là cuộc khai quật di tích Angkor
Wat được nhà khoa học Henri
Mouhot ghi lại và phổ biến đến thế giới Tây phương. Cổ hơn thì
năm 1923 khai quật được di chỉ Đông Sơn, thuộc tỉnh Thanh
Hóa nơi khám phá ra một số trống đồng tiêu biểu cho thời đại cổ đại của
người Việt.[91]
Henri Parmentier thì có công khảo cổ trong
việc nghiên cứu giải mã các cổ vật và di tích Chiêm
Thành.
·
Viện Bảo tàng Khải Định (1923) ở Huế
·
Viện Bảo tàng Louis Finot (1926) ở Hà Nội
·
Viện Bảo tàng Blanchard de la Brosse (1927) ở Sài Gòn.
Chính
trị
Chính trị Đông Dương thuộc thể chế thuộc địa và bảo hộ nên không
có quyền tự quyết.
Riêng ở Nam Kỳ thì
có bầu cử định kỳ và vận động cử tri. Tuy nhiên số cử tri rất khiêm nhường. Vào
khoảng thập niên 1910 thì chỉ có 1.000 cử tri người Việt,[92] tức những người được vào
Pháp tịch. Số người Pháp thì có khoảng 3.000 người ghi danh đi bầu. Sau cuộc
cải tổ năm 1922, đặc quyền bầu cử được nới rộng và số cử tri người Việt tăng
lên khoảng 20.000, đa số thuộc giới thượng lưu Tây học.[93] Đây
là thành phần cử tri bỏ phiếu trong những cuộc tuyển cử Hội đồng Quản hạt so
với 2-3 triệu dân của toàn xứ Nam Kỳ.
Về mặt thông tin, báo chí thì chính phủ Bảo hộ áp dụng chính
sách kiểm duyệt sách báo. Lệ này đến năm 1935 mới nới lỏng hơn khi Đảng Xã hội Pháp của thủ tướng Léon Blum lên
chấp chính.[94]
Phản
kháng
Những người bị bắt trong
vụ án Hà thành đầu độc.
Tượng đồng Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử
Cảnh ở Sài Gòn.
Chính quyền Liên bang Đông Dương dù có mang lại một số kỹ nghệ
và tổ chức khoa học làm cuộc sống khá hơn về mặt vật chất nhưng chủ yếu là để
tạo điều kiện cho người Pháp chứ không vì quyền lợi của dân bản xứ. Lý tưởng
"Tự do, Bình đẳng, Bác ái" ("Liberté, Égalité, Fraternité")
tuy xuất xứ từ Pháp nhưng dân của sáu xứ Đông Dương không được hưởng đầy đủ
những quyền lợi đó. Một thí dụ cụ thể là đạo luật hiện hành ở chính quốc như
luật cấm trẻ em lao dịch thì ở Đông Pháp không áp dụng những luật pháp đó.[95]
Chủ nghĩa dân tộc nhất là đối với người Việt cho dù bị chính
quyền Bảo hộ cố vùi lấp, vẫn là tiếng gọi vang vọng. Cuộc khởi nghĩa của Đề Thám ở
vùng Phú Thọ và Phúc
Yên kéo dài đến năm 1913 mới bị dập tắt.[96] Trong khi đó luôn có
những âm mưu đánh đuổi người Pháp như vụ Hà Thành đầu độc (1908), vụ nổ bom ở Bắc
Kỳ do Việt Nam Quang phục Hội thực hiện (1913), việc
vua Duy Tân bôn tẩu (1916), vụ mưu sát Toàn quyền
Merlin của Tâm Tâm Xã (1924), cuộc Khởi nghĩa Yên Báicủa Việt Nam Quốc dân Đảng (1930) làm chính phủ Bảo
hộ phải luôn tìm cách trấn áp.
Để vô hiệu hóa sức đề kháng của dân bản xứ, chính phủ Bảo hộ
thường tuyên truyền đề cao những nhân vật và sự kiện lịch sử với nước Pháp ở
cương vị nhân từ, dìu dắt và bảo vệ người bản xứ như trường hợp Giám mục Bá Đa Lộc. Với cao trào đòi độc lập, chính quyền Bảo
hộ còn đưa ra chính sách "Pháp Việt Đề huề" để vận động đường lối
hợp tác giữa người Pháp và các dân tộc Đông Dương, nhất là dân Việt.
Ngoài việc vận động tâm lý, người Pháp còn duy trì một lực lượng
quân sự để củng cố quyền lực. Lực lượng này gồm lính chính quy Pháp và quân bản
xứ, thường gọi là lính
tập. Đội quân này được dùng trong việc đánh dẹp cũng như canh gác,
giữ trật tự xã hội theo quan niệm của nhà nước Bảo hộ.
Vào đầu thập niên 1930 thì có khoảng 10.000 tù nhân chính trị trong các nhà tù lớn nhỏ
ở Đông Dương.[97]
Giải
thể
Nhật Bản
nhập cuộc
Năm 1941 Quân đội Đế quốc Nhật Bản thời Chiến tranh thế giới thứ hai tiếp
thu Đông Dương với sự thỏa thuận của chính phủ Vichy theo thỏa ước giữa đại sứ
Pháp Charles Arsènes-Henry ở Tokyo và
ngoại trưởng Yōsuke Matsuoka ký
hồi 30 Tháng Tám, 1940.[98][99] Theo
đó thì Nhật Bản được rộng quyền điều hành quân sự trên toàn cõi Đông Dương
chống lại phe
Đồng Minh nhưng người Pháp vẫn duy trì bộ máy cai trị của nhà nước
Bảo hộ và Nhật công nhận chủ quyền của Pháp.
Tranh
chấp với Xiêm
Trong khi đó thì triều đình Xiêm La của
Thủ tướng Plaek Pibulsongkram nhân
khi thấy quyền lực của Pháp ở Đông Dương bị suy yếu nên tìm cách đòi lại lãnh
thổ cũ ở Lào và Cao Miên bị Pháp chiếm đoạt vào năm 1907. Thất bại về mặt ngoại
giao, Xiêm điều quân đến gần biên giới rồi mở cuộc tấn công và chiếm toàn phần
đất Lào ở hữu ngạn sông Mê
Kông vào ngày 19 Tháng Giêng, 1941. Không quân Xiêm thì mở cuộc
oanh kích nhiều địa điểm ở tỉnh Battambang và tiến chiếm được tỉnh
lỵ. Về mặt bể thì hải quân Pháp và hải quân Xiêm nổ súng ở khu vực đảo
Chang. Ba chiến thuyền của Xiêm bị đánh chìm nhưng vì áp lực
của Đế quốc Nhật Bản, chính phủ Đông Dương của toàn
quyền Jean Decoux phải giảng hòa rồi nhượng lại cho
Xiêm những tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap của Cao Miên ngày 11 Tháng Ba, 1941,
chấm dứt cuộc xung đột vũ trang giữa Xiêm và Đông Pháp.[100]
Nhật đảo
chính Pháp
Thỏa hiệp giữa Pháp và Nhật kéo dài bốn năm cho đến ngày 9 Tháng
Ba, 1945 thì Nhật Bản đột ngột tuyên bố trao quyền cho các chính
quyền bản xứ và ra lệnh tống giam nhiều viên chức Pháp. Ngày 11
Tháng Ba, đại sứ Yokoyama Masayuki vào Đại Nội Huế yết kiến vua Bảo Đại và chứng kiến lời tuyên cáo độc lập
của Đế quốc Việt Nam.[101] Ngày 13
Tháng Ba, vua Cao
Miên Norodom
Sihanouk cũng theo gương Bảo Đại rồi đến ngày 8 Tháng
Tư thì quốc vương Lào Sisavang
Vong cũng tuyên bố độc lập.[102] Ngày
17 Tháng Tư thì Thủ tướng Trần Trọng Kim trình diện với danh
sách nội các để chấp chính nhưng đến Tháng Tám năm
1945 khi Nhật tuyên bố đầu hàng phe Đồng
Minh thì Pháp xúc tiến việc tái chiếm Đông Dương đang do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm
soát và lập lại Liên bang Đông Dương.
Ngay từ Tháng Chạp năm 1943 Charles
De Gaulle, người lãnh đạo lực lượng Pháp bấy giờ lưu vong ở Algiers đã
tuyên bố ý định tái lập chủ quyền của Pháp trên các xứ Đông Dương. Lực
lượng Việt Minh dã tiến hành đảo chính Phát-xit Nhật
ngày 19/08/1945. Sau đó, chính quyền phát-xít tuyên bố trao toàn bộ quyền kiểm
soát tại Việt Nam cho Việt
Minh. Tại Nam Bộ, Nam Bộ kháng chiến kháng chiến nổ ra khi
Việt Minh, trước đó đã thay Nhật kiểm soát khu vực này, đã cương quyết chống
trả lại hành vi tái xâm lược của Pháp. Tới ngày 19/12/1946, sau những hành động
khiêu khích của Pháp, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, chính thức bắt đầu giai đoạn 9 năm kháng chiến chống lại sự tái xâm lược của Pháo
tại Đông Dương.
Trong thời gian chín năm cuối, người Pháp có thay đổi cơ chế
hành chánh: bỏ chức vụ "Toàn quyền" và thay bằng "Cao ủy"
rồi "Tổng ủy"; thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ hay thống sứ Bắc Kỳ
thì thay bằng "Ủy viên cộng hòa". Tuy nhiên, Đông Dương vẫn là một
phần của Liên hiệp Pháp. Ngoài ra chính phủ Pháp cũng
hứa hẹn cải tổ bằng cách phát triển giáo dục và hướng tới dân chủ tự trị trong
khuôn khổ Liên hiệp Pháp.
No comments:
Post a Comment