Mặt nạ bằng vàng của vua Tutankhamun ở Ai-Cập
Cách nay đúng 93 năm, phát hiện mặt nạ bằng vàng của vua
Tutankhamun ở Ai-Cập
Ngày 28
tháng 10, 1925
·
1925 – Phát hiện được mặt nạ bằng vàng của pharaon Tutankhamun (hình) sau
khoảng 3.250 năm, một trong các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới.
Tutankhamun
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thông tin chung
Hậu duệ 2 công chúa
Tutankhamun ( /ˌtuːtənkɑːˈmuːn/;[2] có
thể viết bằng một trong hai cách với Tutenkh-, -amen, -amon)
là một pharaon Ai Cập thuộc Vương triều thứ 18 (trị vì vào khoảng năm 1332-1323 TCN theo bảng niên
đại quy ước), trong giai đoạn Tân Vương quốc của Lịch sử Ai Cập.
Ông là thường hay được gọi theo cách thông
dụng là Vua Tut. Tên gọi ban đầu của ông, Tutankhaten,
có nghĩa là "Hiện thân sống của Aten", trong khi Tutankhamun có nghĩa
là "Hiện thân sống của Amun". Theo cách viết bằng chữ tượng hình, tên
của Tutankhamun đã thường được viết là Amen-tut-ankh, vì nó tuân theo một quy
ước đó là tên của vị thần được đặt ở đầu của một cụm từ để thể hiện sự tôn
kính.[3] Ông
có thể cũng là Nibhurrereya trong các bức thư
Amarna, và nhiều khả năng chính là vị vua
Rathotis của vương triều thứ 18, vốn được Manetho, một nhà
sử học cổ đại, ghi chép lại là đã trị vì trong chín năm- một con số tương tự
cũng được quy chiếu với phiên bản tóm tắt của Flavius Josephus.[4]
Sự kiện Howard Carter cùng George
Herbert, huân tước thứ năm của Carnarvon[5][6] phát
hiện ra lăng mộ gần như còn nguyên vẹn của Tutankhamun vào năm 1922 đã tạo nên
một cơn chấn động trên toàn thế giới.
Howard Carter (9 tháng 5 năm 1874
- 2 tháng 3 năm 1939) là một nhà khảo cổ học và Ai Cập học người Anh, là người chủ chốt khám
phá lăng mộ của Pharaon Tutankhamun.
George Edward
Stanhope Molyneux Herbert, 5th Earl of Carnarvon, DL (26 June 1866 – 5
April 1923), styled Lord Porchester until 1890, was an English
peer and aristocrat best known as the financial backer of the search for and
the excavation of Tutankhamun's
tomb in the Valley of the Kings.
Nó đã khơi dậy lại sự quan tâm của công
chúng đối với Ai Cập cổ đại, và mặt nạ
mai táng của Tutankhamun, ngày nay nằm
tại bảo tàng Cairo, đã trở thành một biểu tượng nổi tiếng. Triển lãm các
hiện vật từ ngôi mộ của ông đã diễn ra khắp nơi trên thế giới. Vào tháng 2 năm
2010, kết quả xét nghiệm ADN khẳng định rằng ông là con trai của Akhenaten (xác
ướp KV55) với một
người em gái và cũng là vợ của Akhenaten (xác ướp KV35YL), hiện vẫn chưa xác
định được danh tính và được biết với tên gọi "Quý Bà trẻ", xác ướp
của bà được tìm thấy trong ngôi mộ KV35.[7]
Akhenaten ( /ˌækəˈnɑːtən/;[1] còn được viết
là Echnaton,[7] Akhenaton,[8] Ikhnaton,[9] and Khuenaten;[10][11] có nghĩa là Người lính của Aten), ông còn được
biết đến với tên gọi là Amenhotep IV (nghĩa là thần Amun hài
lòng) trong giai đoạn trước năm trị vì thứ Năm, là một pharaon của vương triều thứ Mười tám của Ai Cập, ông đã cai trị 17 năm và
có lẽ đã qua đời vào năm 1336 TCN hoặc 1334 TCN.
Cuộc đời
Tutankhamun là con trai của Akhenaten (trước
đây là Amenhotep IV) với một trong những em gái của Akhenaten,[8]hoặc có lẽ một trong những
người em họ của ông ta.[9] Khi
là một hoàng tử, ông đã được biết đến với tên gọi Tutankhaten.[10] Ông
lên ngôi vào năm 1333 TCN, khi mới lên chín hoặc mười tuổi, với vương hiệu là
Nebkheperure.[10] Ông
có một bảo mẫu tên là Maia, và bà
được biết đến từ ngôi mộ của mình tại Saqqara.[11] Một
thầy giáo nhiều khả năng có tên là Sennedjem.
Khi lên ngôi vua, ông đã kết hôn với người chị cùng cha khác mẹ
với mình, Ankhesenpaaten, bà
sau đó đổi tên thành Ankhesenamun. Họ có
hai người con gái với nhau nhưng đều bị chết yểu.[7] Nghiên
cứu chụp cắt lớp vi tính được thực hiện vào năm 2011 cho thấy một người con gái
đã mất khi đang ở tháng thứ 5-6 của thai kì và người còn lại đang ở tháng thứ 9
của thai kỳ. Không có bằng chứng nào trong cả hai xác ướp cho
thấy dấu vết của các dị tật bẩm sinh hoặc một nguyên nhân dẫn đến cái chết.[12]
Vương
triều
Do ông lên ngôi khi còn rất trẻ, nhà vua có thể đã có những cận
thần đầy quyền lực bên cạnh, được cho là bao gồm tướng Horemheb và
tể tướng Ay. Horemheb đã ghi lại rằng nhà vua đã phong cho ông ta làm
"chúa tể của toàn bộ các vùng đất" vốn là một tước vị cha truyền con
nối để duy trì luật pháp. Ngoài ra ông ta có khả năng trấn an vị vua trẻ khi
ông nổi giận.[13]
Horemheb (đôi khi còn gọi là Horemhab hoặc Haremhab)
là vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 18 từ khoảng năm 1319 cho đến năm 1292
trước Công nguyên,[1] hoặc là từ năm 1306 cho đến cuối năm 1292
trước Công nguyên (nếu như ông trị vì 14 năm) mặc dù ông không có họ hàng với
các vị tiên vương và được tin là có nguồn gốc bình dân.
Kheperkheperure Ay, hay Aya hoặc Aye hoặc Eye là
vị pharaon thứ 14 của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 18, vương triều đầu tiên của thời đại Tân vương quốc. Ay từng là một Tể tướng trong triều đình Ai
Cập. Đã có người cho rằng ông chính là kẻ đã ám sát pharaon g Tutankhamun (con trai Akhenaten
và bà vợ hai) khi Tutankhamun mới 18 hay 19 tuổi.
Vào năm trị vì thứ ba của mình, Tutankhamun đã cho hủy bỏ những
thay đổi được thực hiện trong suốt vương triều của vua cha. Ông kết thúc sự thờ
thần cúng thần Aten và khôi phục lại địa vị tối cao cho thần Amun.
Aten (Aton) là chiếc đĩa mặt trời trong tín ngưỡng Ai Cập Cổ đại, được thờ rộng rãi ở thế kỷ thứ 14 trước CN
dưới thời Amenhotep
IV,
vị Pharaoh của triều đại thứ
18. Aten ban đầu được xem là một phần của Ra.
Typical depiction of Amun
during the New Kingdom, with two plumes on his head, the ankh symbol
and the was sceptre.
Amun (also Amon,
Ammon, Amen; Greek Ἄμμων Ámmōn, ἍμμωνHámmōn)[citation
needed] was a major ancient Egyptian deity who appears as a member of the Hermopolitan ogdoad. Amun was attested from
the Old Kingdomtogether with his wife Amaunet.
Lệnh cấm sự thờ cúng thần Amun đã được dỡ bỏ và các đặc quyền
truyền thống dành cho tầng lớp tư tế đã được khôi phục. Kinh đô đã được dời về
lại Thebes và thành phố Akhetaten bị
từ bỏ.[14] Ông
còn thay đổi tên của mình thành Tutankhamun, "Hiện thân sống của
Amun".
Thebes (Ancient Greek: Θῆβαι, Thēbai), known to the ancient Egyptians as Waset,
was an ancient Egyptian city located east of the Nile about 800 kilometers (500 mi) south
of the Mediterranean. Its ruins lie within the modern Egyptian city of Luxor.
Nhà vua còn bắt đầu các dự án xây dựng như là một phần trong quá
trình khôi phục của ông, đặc biệt là tại đền Karnak ở Thebes, tại đây ông đã
dành riêng một ngôi đền cho thần Amun. Nhiều tượng đài đã được dựng lên, và một
dòng chữ trên cửa ngôi mộ của ông đã tuyên bố rằng nhà vua đã "sống cuộc
đời của mình theo hình tượng của các vị thần". Các lễ hội truyền thống đã
được tổ chức trở lại, bao gồm cả những lễ hội có liên quan đến thần bò Apis,
Horemakhet, và lễ hội Opet. Tấm
bia đá được khôi phục của ông có nói:
Những ngôi đền của các vị thần và nữ thần... đã là những đống đổ
nát. Điện thờ của các vị thần đã hoang phế và đầy cỏ dại. Thánh điện của các vị
thần coi như không tồn tại và cung điện trở thành những con đường... các vị
thần đã quay lưng lại với vùng đất này... Nếu có ai cầu xin một lời khuyên từ
các vị thần, người đó sẽ không bao giờ được đáp lại.[15]
Vương quốc Ai Cập đã rơi vào tình trạng suy yếu về kinh tế và
hỗn loạn dưới vương triều của Akhenaten. Quan
hệ ngoại giao với các vương quốc khác đã bị bỏ bê và Tutankhamun đã tìm cách
khôi phục lại chúng, đặc biệt là với người Mitanni.
Map of the Near East ca. 1400 BC showing the
Kingdom of Mitanni at its greatest extent
Bằng chứng về sự thành công của ông đã được đề xuất từ những món
quà từ các quốc gia khác nhau được tìm thấy trong lăng mộ của ông. Bất chấp
những nỗ lực nhằm cải thiện các mối quan hệ của ông, những trận chiến với
người Nubia và
các dân tộc châu Á khác đã được ghi lại trong ngôi đền an táng của ông tại
Thebes.
Nubia là một vùng dọc theo sông Nile, nằm ở bắc Sudan và nam Ai Cập.Từng có nhiều vương quốc
Nubia lớn trong suốt thời hậu cổ điển, vương triều cuối cùng sụp đổ năm 1504,
khi đó Nubia bị chia ra tách giữa Ai Cập và Sennar sultanatetạo ra sự Ả Rập hóa của
phần lớn dân cư Nubia. Nubia sau đó bị sáp nhập vào Ottoman Ai Cập trong thế kỷ 19 và
vào Anglo-Egyptian Sudan từ 1899 đến 1956.
Ngôi mộ của ông còn chôn theo cả áo giáp và những chiếc ghế gập
thích hợp cho những chiến dịch quân sự. Tuy nhiên, do bản thân ông còn trẻ tuổi
cùng với những khuyết tật trên cơ thể, ông đã phải sử dụng một cây gậy để đi
lại (ông qua đời khoảng 19 tuổi), các nhà sử học suy đoán rằng ông đã không
đích thân tham gia vào những trận chiến này[7][16].
Sức khỏe
và diện mạo
Tutankhamun có dáng vẻ mảnh khảnh và có chiều cao khoảng
180 cm (5 ft 11 in).[17] Ông có những chiếc răng
cửa lớn và đây là đặc trưng của dòng dõi hoàng tộc Thutmoses. Từ tháng 9 năm
2007 đến tháng 10 năm 2009, nhiều xác ướp khác nhau trở thành đối tượng trong
các nghiên cứu nhân chủng học, X quang, và di truyền vốn là một phần của Dự án
gia đình vua Tutankhamun. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng Tutankhamun đã
"hơi hở hàm ếch"[18] và
có thể mắc cả chứng vẹo cột sống nhẹ. Khám nghiệm cơ thể của vua Tut cũng đã tiết
lộ sự biến dạng trước đó chưa được biết ở trong chân trái của nhà vua, do hoại
tử mô xương. Sự đau đớn do điều này gây ra đã buộc vua Tut phải sử dụng một cây
gậy đi bộ, và nó đã được tìm thấy rất nhiều trong ngôi mộ của ông, tuy nhiên
căn bệnh này lại không nguy hiểm đến tính mạng.[19] Trong
quá trình phân tích ADN xác ướp của vua Tut, các nhà khoa học đã phát hiện ra ADN
của ký sinh trùng gây nên bệnh sốt rét nhiệt đới trong cơ thể của pharaon, nó
đuợc coi là bằng chứng về mặt di truyền học lâu đời nhất của căn bệnh này. Điều
thú vị là, có nhiều chủng mầm bệnh sốt rét đã được tìm thấy và nó chỉ ra rằng
vua Tut đã bị bội nhiễm sốt rét trong suốt cuộc đời của ông. "Bệnh sốt rét
đã làm suy yếu hệ thống miễn dịch của vua Tut và gây trở ngại cho quá trình
chữa trị bàn chân của ông. Những yếu tố này, kết hợp với việc xương đùi trái
của ông bị gãy theo như phát hiện của các nhà khoa học vào năm 2005, có thể
cuối cùng đã giết chết vị vua trẻ tuổi"[19].
Phả hệ
Vào năm 2008, một nhóm nghiên cứu bắt đầu tiến hành nghiên cứu
ADN của Tutankhamun và các xác ướp những thành viên khác trong gia đình ông.
Kết quả từ các mẫu DNA cuối cùng đã giúp trả lời một số câu hỏi về huyết thống
của Tutankhamun, nó đã chứng minh rằng cha của ông là Akhenaten, nhưng
người mẹ của ông thì lại không thuộc vào một trong số những người vợ đã được
biết đến của Akhenaten. Mẹ của ông là một trong số năm người chị em của cha
ông, mặc dù vậy lại không rõ là ai.[20] Nhóm nghiên cứu đã có thể
chứng minh với xác suất tới 99,99 phần trăm rằng Amenhotep
III là cha nhân vật được chôn cất trong
ngôi mộ KV55, người
được xác định là cha của Tutankhamun.[21]
Amenhotep III (tên Hy Lạp hóa là Amenophis III;
tên tiếng Ai Cập: Amāna-Ḥātpa; dịch nghĩa: Amun đẹp lòng), còn gọi là Amenhotep Lộng Lẫy, là vua thứ 9 của vương triều 18 – Ai Cập cổ đại.
Mẹ của vị vua trẻ tuổi đã được tìm thấy thông qua các xét nghiệm
DNA và là một xác ướp được biết đến với tên gọi "Quý bà trẻ"
(KV35YL), được tìm thấy bên cạnh xác ướp nữ hoàng Tiye trong
hốc tường của ngôi mộ KV35. DNA của bà đã chứng minh rằng, bà là một người con
của Amenhotep III với Tiye; do đó, cha mẹ của Tutankhamun là anh em ruột.[22]
Tiye (khoảng 1398 TCN - 1338 TCN), còn được viết là Taia , Tiy và Tiyi.
Bà là "Người Vợ Hoàng gia Vĩ đại" của vua Amenhotep III, vị hoàng đế quyền lực
nhất trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà còn là mẹ của Akhenaten và là bà của Tutankhamun.
Nữ hoàng Tiye đã có nhiều ảnh hưởng về mặt chính trị trong triều
đình và đóng vai trò như một cố vấn cho con trai của bà sau khi người chồng của
bà qua đời. Tuy nhiên, một số nhà di truyền học đã tranh cãi về những
phát hiện này và "phàn nàn rằng nhóm nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật phân
tích không phù hợp."[23]
Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng một trong số hai xác ướp bào
thai được tìm thấy tại lăng mộ của Tutankhamun là con gái của chính
Tutankhamun, và một thai nhi khác có lẽ cũng là con của ông. Và cho đến nay,
chỉ mới thu được một phần dữ liệu từ hai xác ướp nữ trong ngôi mộ KV21.[24] Một
trong số họ, KV21A, có thể là mẹ của những trẻ sơ sinh này và do đó là vợ của
Tutankhamun, Ankhesenamun. Theo lịch sử ghi lại thì bà là con gái
của Akhenaten với Nefertiti, và do đó nhiều khả năng bà là chị em cùng
cha khác mẹ với ông.
Neferneferuaten Nefertiti ( /ˌnɛfərˈtiːti/[1]; khoảng 1370 BC – khoảng
1330 BC) là Vương hậu Ai Cập và là "Người vợ
hoàng gia vĩ đại" (Great Royal Wife) của Pharaoh Akhenaten, thường được biết qua
danh hiệu Amenhotep IV.
Tượng bán thân bằng gỗ của vị vua trẻ, được
tìm thấy trong ngôi mộ của ông.
Ngoài ra, bằng chứng đến từ quá trình khám nghiệm và nghiên cứu
di truyền học vào năm 2014 tiếp tục tái khẳng định những phát hiện vào năm 2010
rằng Tutankhamun là kết quả của một mối quan hệ cận huyết.[25][26]
Qua đời
Không có bất cứ ghi chép nào còn hiện còn tồn tại đến ngày nay
về ngày qua đời của Tutankhamun. Điều gì gây ra cái chết của Tutankhamun đã là
chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Nhiều nghiên cứu khoa học đã được tiến hành
để nhằm tìm ra nguyên nhân gây ra cái chết của ông. Có một số bằng chứng đã
được nhà vi sinh vật họcHarvard Ralph Mitchell nêu ra
rằng ông có thể được chôn cất một
cách vội vã. Mitchell đã phát biểu rằng những đốm màu nâu sẫm trên những bức
tường được trang trí trong phòng chôn cất của
Tutankhamun cho thấy ông đã được chôn cất ngay
trước khi màu sơn có thể khô.[27]
Thông qua việc tiến hành chụp cắt lớp vi tính vào năm 2005 đã cho thấy
ông đã bị gãy chân trái[28], không
lâu trước khi ông qua đời, và nó đã bị nhiễm trùng. Phân tích DNA được tiến
hành năm 2010 cho thấy sự xuất hiện của bệnh sốt rét trong cơ thể của ông, dẫn
đến giả thuyết cho rằng bệnh sốt rét và bệnh Köhler đã
dẫn đến cái chết của ông.[29] Vào
ngày 14 tháng 9 năm 2012, hãng tin ABC đã
đưa tin về một giả thuyết khác nữa cho cái chết của Tutankhamun, nó được phát
triển bởi bác sĩ phẫu thuật Hutan Ashrafian ở
Đại học Hoàng gia London, ông tin rằng bệnh động kinh thùy thái đã gây ra một
cú ngã chết người và khiến cho chân trái của Tutankhamun bị gãy.[30]
Nghiên cứu được các nhà khảo cổ, X-quang, và di truyền học, tiến
hành vào năm 2005 thông qua việc chụp CT những xác ướp được tìm thấy chỉ ra
rằng ông không qua đời bởi một cú đánh vào đầu, như những suy nghĩ trước đây.[31] Những
hình ảnh CT mới đã chỉ ra các khiếm khuyết bẩm sinh vốn phổ biến hơn ở những
đứa trẻ sinh ra từ sự loạn luân như việc ông có dấu hiệu mắc chứng hở hàm ếch cùng với những khuyết tật bẩm sinh
khác.[32]
Hệ quả
Tượng Tutankhamun và Ankhesenamun tại Luxor.
Với việc Tutankhamun qua đời và hai người con chết non
được chôn cất cùng với ông, dòng họ Thutmoses đã
chấm dứt. Các bức thư Amarna sau đó cho biết rằng người vợ góa của Tutankhamun,
đã viết thư gửi cho vua Suppiluliuma I của
người Hittite, thỉnh cầu với ông ta rằng liệu bà có thể kết hôn với một người
con trai của ông ta được hay không. Bức thư không nhắc tới việc Tutankhamun đã
qua đời như thế nào. Ankhesenamun đã nói rằng bà đã rất lo sợ nhưng sẽ không
lấy bất cứ cận thần nào của mình. Tuy nhiên, vị hoàng tử này đã bị sát hại
trước khi có thể đến nơi. Ngay sau đó, Ay đã
cưới vợ góa của Tutankhamun và trở thành vị pharaon tiếp theo. Đồng thời đã có
một cuộc chiến tranh nổ ra giữa hai nước và Ai Cập đã bị thua trận.[33] Số phận của Ankhesenamun
sau đó không được biết đến, bà đã biến mất khỏi các ghi chép lịch sử và người
vợ thứ hai của Ay là Tey đã trở thành Chính cung hoàng hậu.
Sau khi Ay qua đời, Horemheb đã cướp ngôi vua và tiến hành một
chiến dịch nhằm xóa bỏ mọi thứ liên quan đến ông, cha của Tutankhamun, Akhenaten, người
mẹ kế Nefertiti, người vợ Ankhesenamun của
ông, và cả những người chị em cùng cha khác mẹ cũng như các thành viên khác
trong gia đình. Toàn bộ hình ảnh và đồ hình của ông đều đã bị xóa bỏ. Bất chấp
điều này, Horemheb có thể đã cưới một người em gái của
Nefertiti, Mutnedjmet, nhưng họ không có con với nhau và sau này
ông ta đã truyền ngôi lại cho Paramessu, vị vua sáng lập nên vương triều Ramesses.
Stone head carving of Paramessu (Ramesses I),
originally part of a statue depicting him as a scribe. On display at the Museum of Fine Arts, Boston.
No comments:
Post a Comment