Phi cơ P-51 Mustang của công ty North American
Ngày 26
tháng 10, 1940
·
1940 – Máy bay tiêm kích North American P-51 Mustang (hình) thực
hiện chuyến bay đầu tiên, là một trong những kiểu máy bay nổi tiếng và được biết
đến nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh.
North American P-51 Mustang
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
P-51 Mustang
North
American P-51D Mustang Tika IV thuộc Liên đội Tiêm kích 361,
sơn ký hiệu tấn công trong Trận đánh Normandy
Số lượng sản xuất 15.875
P-51 Mustang là một kiểu máy bay tiêm kích Hoa Kỳ một
chỗ ngồi tầm xa được đưa vào sử dụng trong không lực các nước Đồng Minh vào
các năm giữa của Đệ Nhị Thế
Chiến. Chiếc P-51 trở thành một trong những kiểu
máy bay nổi tiếng và được biết đến nhiều nhất trong cuộc chiến tranh.
Được thiết kế, chế tạo và bay thử chỉ trong
vòng 117 ngày, P-51 thoạt tiên phục vụ cho Không quân
Hoàng gia Anhnhư một máy bay tiêm kích-ném bom và trinh
sát, trước khi chuyển sang vai trò máy bay tiêm kích hộ tống ném bom bên trên
lãnh thổ Đức, giúp duy trì ưu thế trên không của phe Đồng Minh từ đầu năm 1944.[2] Nó
cũng tham gia ở mức độ hạn chế chống lại Đế quốc Nhật Bản trên Mặt trận
Thái Bình Dương. Mustang bắt đầu tham
gia Chiến
tranh Triều Tiên như là máy bay
tiêm kích chủ yếu của lực lượng Liên Hợp Quốc, nhưng nhanh chóng được bố trí lại trong vai trò tấn
công mặt đất sau khi bị vượt qua bởi những máy bay tiêm kích phản lực đời đầu.
Tuy vậy, nó vẫn được giữ lại phục vụ trong một số lực lượng không quân cho đến
đầu những năm 1980.
Cho dù là một máy bay có giá thành chế tạo
thấp, Mustang lại là một kiểu máy bay nhanh, được chế tạo tốt và rất bền bỉ.
Phiên bản cuối cùng P-51D của chiếc tiêm kích một chỗ ngồi này được trang bị
động cơ 12 xy-lanh Packard V-1650-3, có siêu
tăng áp hai tầng hai tốc độ, một phiên bản do
Packard chế tạo của kiểu động cơ Rolls-Royce Merlinhuyền thoại, và trang bị sáu súng máy M2 Browning 12,7 mm
(0,50 in).
Sau Thế Chiến II và Chiến tranh Triều Tiên,
nhiều chiếc Mustang được chuyển sang sử dụng dân sự, đặc biệt là trong
các cuộc đua hàng không. Danh tiếng Mustang đạt đến mức mà, vào giữa những
năm 1960, nhà thiết kế John Najjar của hãng xe Ford đã đề nghị cái tên máy bay tiêm kích đó cho mẫu xe
thể thao Ford
Mustang.[3]
Thiết
kế và phát triển
Nguồn gốc
Chiếc nguyên mẫu XP-51 số
hiệu 41-039
P-51 trình diễn tại cuộc Thao diễn Hàng không
Virginia
Vào năm 1939, ít lâu sau khi Thế Chiến II bùng
nổ, chính phủ Anh Quốc thành lập một ủy ban mua sắm tại Hoa Kỳ, do Sir Henry Self dẫn
đầu. Cùng với Sir Wilfrid Freeman,
"Thành viên Hàng không về Phát triển và Sản xuất", được trao toàn bộ
trách nhiệm về sản xuất, nghiên cứu và phát triển cho Không quân Hoàng gia vào
năm 1938. Self phụ trách Tiểu Ủy ban Cung ứng thuộc Hội đồng Hàng không (Anh Quốc)
(hay "Ủy ban Cung ứng"), và một trong nhiều nhiệm vụ của Self là tổ
chức việc sản xuất máy bay chiến đấu Mỹ cho Không quân Hoàng gia Anh. Vào
lúc đó sự lựa chọn rất bị giới hạn: không có chiếc máy bay Mỹ nào đáp ứng được
những tiêu chuẩn của châu Âu; chỉ có chiếc Curtiss P-40 Tomahawk là gần đạt. Nhà máy của
Curtiss đang chạy hết công suất, nên kiểu máy bay này cũng đang thiếu hụt để
cung cấp.
North American Aviation lúc
ấy đã cung cấp chiếc máy bay huấn luyện Harvard của họ cho Không
quân Hoàng gia, nhưng ít được sử dụng. Chủ tịch của North American là James H. Kindelberger đã
tìm đến Self để chào bán chiếc máy bay ném bomhạng trung mới của họ,
chiếc B-25 Mitchell. Thay
vào đó, Self đã hỏi North American xem họ có thể sản xuất chiếc Tomahawk theo
giấy phép nhượng quyền từ Curtiss hay không.
Kindelberger đã trả lời rằng North American có thể có một máy
bay tốt hơn với cùng kiểu động cơ trong một khoảng thời gian ngắn hơn thời gian
cần thiết xây dựng một dây chuyền để sản xuất P-40. Ủy ban Anh Quốc đặt ra các
điều kiện là chiếc máy bay tiêm kích mới phải được trang bị bốn súng máy Anh
quốc Kiểu.303, gắn động cơ Allison V-1710 làm
mát bằng dung dịch, giá thành không vượt quá 40.000 Đô la mỗi chiếc, và chiếc
máy bay đầu tiên phải được giao hàng vào tháng 1 năm 1941.[4]Từ lúc
bắt đầu chính thức đặt hàng ngày 24
tháng 4, chiếc nguyên mẫu lăn bánh ra khỏi xưởng lắp ráp vào cuối tháng 8 và
thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 26
tháng 10 năm 1940, đây quả là một thời gian thai nghén thiết kế ngắn đáng kể.[5]
Với tư cách là lãnh đạo cao nhất của Bộ Công
nghiệp Hàng không Anh Quốc (MAP), Freeman đặt hàng 320 chiếc máy
bay vào tháng 3 năm 1940; và đến tháng 9, MAP
gia tăng số lượng đặt hàng thêm 300 chiếc.[4] Vào
ngày 26 tháng 6 năm 1940, MAP hợp đồng với Packard cho
phép chế tạo những phiên bản cải tiến của kiểu động cơ Rolls-Royce Merlin theo
giấy phép nhượng quyền.
Sơ đồ NA-73X và XP-51
(Mustang I)
Kết quả của việc đặt hàng từ MAP là kế hoạch NA-73X (bắt
đầu từ tháng 3 năm 1940). Việc thiết kế tuân theo quy trình thực hành tốt nhất thường
áp dụng trong lĩnh vực này, nhưng bao gồm hai tính năng mới. Một là kiểu cánh
mỏng (laminar flow) mới do NACA thiết kế, vốn có độ cản
rất thấp ở tốc độ cao.[6][7] Hai
là việc sử dụng kiểu thiết kế tản nhiệt mới (một việc mà Curtiss đã không thành
công) tận dụng luồng khí thải nóng thoát ra từ động cơ dưới dạng lực đẩy phản lực được
biết đến như là "hiệu ứng Meredith".
Vì North American không có được một hầm gió phù hợp, họ đã sử dụng hầm gió
GALCIT dài 3 m (10 ft) tại Caltech. Điều
này đã dẫn đến những tranh luận rằng liệu hệ thống tản nhiệt khí động học của
chiếc Mustang được phát triển bởi kỹ sư Edgar Schmued của
hãng North American hay do Curtiss, cho dù các sử gia và các nhà nghiên cứu phủ
nhận những luận điệu về việc đánh cắp kỹ thuật; vì North American đã từng mua
của Curtiss trọn bộ số liệu kết quả thử nghiệm trong hầm gió của những chiếc
P-40 và XP-46 cũng như kết quả các cuộc bay thử nghiệm với giá 56.000 Đô
la Mỹ.[8]
Trong khi Không
lực Lục quân Hoa Kỳ có thể ngăn chặn mọi sự mua bán những thiết bị mà họ có
thể quan tâm, trường hợp của chiếc NA-73 được xem là đặc biệt. Để cho sự giao
hàng không bị gián đoạn, một sự dàn xếp với Ủy ban Cung ứng Anh-Pháp đã
được Oliver P. Echols, lúc
đó còn là một Đại tá, thực hiện để Không quân Hoàng gia có thể nhận được kiểu
máy bay này, đánh đổi lại North American sẽ cung cấp cho Không lực Mỹ hai chiếc
máy bay mẫu miễn phí.[9]
Chiếc nguyên mẫu NA-73X được hoàn tất chỉ trong vòng 117 ngày kể
từ khi được đặt hàng, và bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 26
tháng 10 năm 1940, chỉ trong vòng 178 ngày sau khi được đặt hàng, một khoảng thời
gian thai nghén ngắn đáng kể. Nhìn chung, chiếc nguyên mẫu điều khiển tốt và
việc bố trí bên trong cho phép mang một trữ lượng nhiên liệu đáng kể. Nó được
trang bị bốn súng máy M1919 Browning 7,62 mm
(0,30 inch) bố trí trên cánh, và bốn súng máy M2
Browning12,7 mm (0,50 inch) gồm hai khẩu trên cánh và hai khẩu phía
trên mũi máy bay. Để so sánh, chiếc Spitfire Vb đương thời của Anh quốc trang bị
hai pháo 20 mm và bốn súng máy 7,7 mm (0,303 inch).
Mustang
gắn động cơ Allison
Chiếc P-51 Mustang đời đầu
đang bay thử nghiệm. Lưu ý bốn khẩu pháo 20 mm gắn trên cánh.
Mustang I/P-51/P-51A
Người ta nhanh chóng nhận ra rằng tính năng bay cho dù ưu việt ở
độ cao cho đến 4.600 m (15.000 ft) sẽ bị suy giảm đáng kể ở độ cao
lớn hơn. Sự suy yếu này phần lớn là do bộ siêu tăng áp cơ
khí một tầng một tốc độ được gắn trên động cơ Allison V-1710 sẽ
suy giảm công suất nhanh chóng nếu ở trên giới hạn độ cao hoạt động. Trước kế
hoạch Mustang, Không lực Mỹ tiếp tục phát triển động cơ Allison tập trung chủ
yếu vào bộ turbo tăng áp theo
khuyến cáo của General
Electric, vốn đã chứng tỏ được độ tin cậy và đem lại sự tăng cường động
lực đáng kể trên chiếc P-38 Lightning và các máy bay hoạt động
ở tầm cao khác, đặc biệt là những máy bay ném bom bốn động cơ. Đa số các thiết
kế khác sử dụng động cơ Allison được sử dụng ở độ cao thấp, nơi chỉ cần dùng
một bộ siêu tăng áp. Bộ turbo tăng áp tỏ ra không thực tiễn để gắn trên chiếc
Mustang, và Allison bị buộc phải sử dụng bộ siêu tăng áp không tương xứng sẵn
có.
Cho dù như vậy, tính năng khí động học tiên tiến của chiếc
Mustang là một lợi điểm, khi chiếc Mustang Mk I nhanh hơn khoảng 48 km/h
(30 dặm mỗi giờ) so với chiếc máy bay tiêm kích Curtiss P-40 đương thời sử dụng cùng kiểu động cơ
(Allison V-1710-39 công suất 1.220 mã lực/910 kW ở độ cao 3.200
m/10.500 ft, quay một bộ cánh quạt ba cánh Curtiss-Electric có đường kính
3,2 m/10 ft 6 in).[10] Mustang
I cũng nhanh hơn khoảng 48 km/h (30 dặm mỗi giờ) so với chiếc Spitfire Mk VC ở độ cao 1.500 m
(5.000 ft) và nhanh hơn 56 km/h (35 dặm mỗi giờ) ở độ cao
4.600 m (15.000 ft), cho dù chiếc máy bay Anh được trang bị động cơ
mạnh hơn.[11]
Hợp đồng sản xuất đầu tiên nhận được từ Anh Quốc cho 320 chiếc
máy bay tiêm kích NA-73 được người Anh đặt tên là Mustang I (tên
Mustang được chọn bởi một thành viên trong Ủy ban Cung ứng không rõ tên). Hai
máy bay trong lô này được giao cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ với tên gọi XP-51.[12] Khoảng
20 chiếc Mustang Mk I được giao hàng cho Không quân Hoàng gia và bắt đầu tham
gia chiến đấu vào ngày 10
tháng 5 năm 1942. Với tầm bay xa và tính năng bay xuất sắc ở độ cao thấp, nó
được sử dụng hiệu quả trong vai trò trinh sát chiến thuật và tấn công mặt đất
trên Eo biển Anh Quốc, nhưng bị cho là ít có giá trị
trong vai trò máy bay tiêm kích vì tính năng bay kém ở độ cao trên 4.600 m
(15.000 ft).
Một hợp đồng thứ hai cho Anh Quốc để sản xuất thêm 300 chiếc
(NA-83) Mustang I. Đến tháng 9 năm 1940, 150 máy bay đặt tên bởi North American là NA-91 được tiếp tục
đặt hàng trong Chương
trình Cho thuê-Cho mượn. Nó được Không lực Mỹ đặt tên là P-51 và
ban đầu gọi tên thông dụng là "Apache" cho dù cái tên này sau đó bị
bỏ rơi và cái tên của Không quân Hoàng gia "Mustang" được dùng thay
thế. Người Anh đặt tên kiểu này là Mustang IA; nó cũng tương tự như
kiểu Mustang I ngoại trừ các khẩu súng máy trên cánh được tháo bỏ thay thế bằng
bốn pháo nòng dài Hispano HS.404 20 mm.
Chiếc A36 Apache
Một số máy bay trong lô này được Không lực Mỹ trang bị như là
máy bay trinh sát hình ảnh và đặt tên là F-6A. Người Anh cũng trang
bị một số máy bay Mustang I các thiết bị tương tự. Ngoài ra, hai chiếc máy bay
trong lô này được gắn động cơ Merlin do Packard chế tạo,[13][14] và
được North American đặt tên là NA-101 và Không lực Mỹ ban đầu đặt tên là XP-78,
sau đó đổi thành XP-51B.
Ngày 23
tháng 6 năm 1942, một đơn hàng được đặt để mua 1.200 chiếc P-51A (NA-99), nhưng
sau đó giảm xuống còn 310 chiếc. Kiểu P-51A là phiên bản đầu tiên được Không
lực Mỹ đặt mua như một kiểu máy bay tiêm kích, sử dụng kiểu động cơ mới Allison
V-1710-81 được cải tiến từ phiên bản V-1710-39, dẫn động một bộ cánh quạt ba
cánh Curtiss-Electric đường kính 3,3 m (10 ft 9 in). Vũ khí trang bị được
thay đổi thành bốn khẩu súng máy Browning 12,7 mm (0,50 in) gắn trên cánh,
hai khẩu mỗi bên cánh, với khả năng chứa tối đa 350 viên đạn cho khẩu phía
trong và 280 viên cho khẩu phía ngoài. Các cải tiến khác được thực hiện song
song cùng với kiểu A-36, bao gồm một ống hút không khí được cải tiến cố định
thay thế cho kiểu di động được trang bị trên những kiểu Mustang trước đây và
trang bị các đế trên cánh cho phép mang thùng nhiên liệu phụ vứt được loại 284
L (75 gal) hoặc 568 L (150 gal), giúp gia tăng tầm bay đường trường lên đến
4.410 km (2.740 dặm) với các thùng nhiên liệu phụ cỡ 568 L (150 gal). Tốc
độ tối đa của nó đạt đến 658 km/h (409 dặm mỗi giờ) ở độ cao 3.000 m
(10.000 ft). 50 máy bay đã được chuyển sang Anh Quốc và phục vụ dưới tên
gọi Mustang Mk II trong Không quân Hoàng gia.[15]
A-36 Apache/Invader
Bài chi tiết: North American A-36
Chiếc Mustang Mk.X AM203
Ngày 16
tháng 4 năm 1942, viên chức phụ trách Kế hoạch máy bay tiêm kích Benjamin S. Kelsey đặt
hàng 500 máy bay A-36 Apache, một kiểu thiết kế lại bao gồm sáu
súng máy M2 Browning 12,7 mm (0,50 inch), phanh bổ
nhào và mang được hai bom 230 kg (500 lb). Kelsey đã có thể đặt mua
nhiều máy bay tiêm kích hơn, nhưng đã muốn nâng cao mức độ sản xuất Mustang tại
nhà máy của North American bằng cách sử dụng ngân quỹ của Không lực Mỹ dành cho
kiểu máy bay cường kích (tấn công mặt đất).[9]
500 chiếc nói trên được đặt tên là A-36A (NA-97). Nó trở thành
phiên bản Mustang dành cho Không lực Mỹ đầu tiên tham gia hoạt động chiến sự.
Một chiếc được gửi sang Anh và được người Anh đặt tên là Mustang I
(Dive Bomber).
Mustang
gắn động cơ Merlin
P-51B và P-51C
Sơ đồ Mustang X, P-51B
và Mustang III (P-51B) với kiểu nóc buồng lái Malcolm
Vào tháng 4 năm 1942, Không quân Hoàng gia Anh thử
nghiệm chiếc Mustang và nhận thấy tính năng bay của nó ở tầm cao không đạt. Vì
thế, nó được dự định chỉ để thay thay thế những chiếc Tomahawk trong các phi
đội Chỉ huy và Phối hợp Lục quân; nhưng viên sĩ quan chỉ huy rất bị ấn tượng
bởi tính cơ động và tốc độ của P-51 ở tầm thấp, nên đã mời Ronnie Harker thuộc
bộ phận bay thử nghiệm của Rolls Royce bay
thử nó. Các kỹ sư Rolls-Royce nhanh chóng nhận ra rằng nếu trang bị chiếc
Mustang bằng động cơ Merlin 61 với bộ siêu tăng áp hai tầng hai tốc độ sẽ cải
tiến tính năng bay đáng kể, nên bắt đầu cải tiến năm chiếc máy bay thành
kiểu Mustang X. Ngoài
việc trang bị lại động cơ, đòi hỏi việc chế tạo khung gá cho động cơ được thiết
kế bởi Rolls-Royce và một bộ cánh quạt tiêu chuẩn Rotol bốn cánh đường kính 3,3
m (10 ft 9 in) lấy từ chiếc Spitfire Mk IX [16],[16] kiểu
Mustang Mk X chỉ là một sự thích ứng trực tiếp từ khung sườn chiếc Mustang
Mk.I, giữ lại thiết kế tản nhiệt và hút gió nguyên thủy. Phó Tư lệnh Tham mưu
Không quân là Sir W.R. Freeman đã
vận động hành lang một cách ầm ỉ cho những chiếc Mustang gắn động cơ Merlin,
nhấn mạnh đến việc chuyển hai trong số năm chiếc Mustang X thử nghiệm cho Carl Spaatz thuộc Không lực 8 Hoa
Kỳ tại Anh Quốc để thử nghiệm và đánh giá.[17][18]
Việc cải thiện tính năng bay ở tầm cao thật đáng ngạc nhiên:
chiếc Mustang X số hiệu AM208 đạt tốc độ 697 km/h (433
dặm mỗi giờ) ở độ cao 6.700 m (22.000 ft) và chiếc số hiệu AL975 thử
nghiệm lên đến trần bay tuyệt đối 12.400 m (40.600 ft).[19]
Những chiếc nguyên mẫu XP-51B có độ thích nghi khung máy bay cao
hơn, do việc gắn động cơ lên khung máy bay được thực hiện chuyên biệt và thiết
kế lại toàn bộ ống dẫn đến bộ tản nhiệt. Bản thân khung máy bay được gia cố, và
khung máy bay cùng các điểm gắn động cơ được làm chắc chắn hơn do trọng lượng
nặng hơn của loại động cơ Packard V-1650-3,
766 kg (1.690 lb) so với 605 kg (1335 lb) của kiểu Allison
V-1710. Nắp động cơ cũng được thiết kế lại hoàn toàn để có thể mang được động
cơ Packard Merlin, do bộ tản nhiệt làm mát khí nạp (intercooler) được gắn bên
trong vỏ hộp bộ siêu tăng áp có kích thước cao hơn 13 cm (5 inch) và sử
dụng một bộ hút gió rút lên trên thay cho bộ chế hòa khí rút xuống của kiểu
Allison. Kiểu động cơ mới dẫn động một bộ cánh quạt bốn cánh Hamilton Standardđường
kính 3,9 m (11 ft 2) có các vòng đệm làm bằng cao su đúc cứng. Một bộ tản
nhiệt mới, bộ làm mát khí nạp và bộ làm mát dầu động cơ đặt trong một ống dẫn
trong thân được thiết kế để đáp ứng nhu cầu làm mát lớn hơn của động cơ Merlin.
Ngoài ra, vì lựa chọn loại cánh quạt bốn cánh, người ta phải loại bỏ vĩnh viễn
bộ phận đồng bộ súng máy gắn trên thân, vì gần như không thể tránh khỏi việc
bắn trúng cánh quạt.
Vũ khí trang bị cho P-51B (NA 102) gồm bốn khẩu súng máy M2/AN
Browning 12,7 mm (0,50 in) gắn trên cánh, hai khẩu mỗi bên cánh, với khả
năng chứa tối đa 350 viên đạn cho khẩu phía trong và 280 viên cho khẩu phía
ngoài như của phiên bản P-51A và các đế bom/thùng nhiên liệu phụ bên ngoài (lất
từ thiết kế của A-36); các đế được chế tạo để có thể mang đến 225 kg
(500 lb) vũ khí và có thể mang các thùng nhiên liệu phụ vứt được. Các vũ
khí trang bị được ngắm bằng bộ ngắm quang học N-3B có trang bị cụm đầu A-1 cho
phép ngắm cả súng và ném bom bằng cách thay đổi góc của kính phản xạ.
Phi công còn có thể lựa chọn bộ ngắm vòng tròn và chữ thập cổ
điển gắn trên nắp động cơ. Tùy chọn này bị loại bỏ với những chiếc phiên bản D
đời sau.[20]
Những chiếc nguyên mẫu XP-51B đầu tiên bắt đầu được bay thử
nghiệm từ tháng 12 năm 1942.[21] Sau
cuộc vận động hành lang kéo dài ở cấp cao nhất, Hoa Kỳ bắt đầu sản xuất những
chiếc Mustang do North American thiết kế trang bị động cơ Packard Merlin V-1650
thay cho kiểu động cơ Allison, từ đầu năm 1943. Việc phối hợp khung P-51 và động cơ Merlin sinh ra các phiên
bản P-51B và P-51C: Kiểu B (NA-102) được sản xuất
tại Inglewood, California trong
khi kiểu C (NA-103) được sản xuất tại một nhà máy mới ở Dallas, Texas, được
đưa vào hoạt động từ mùa Hè năm 1943.[22] Không
quân Hoàng gia Anh đặt tên cho những kiểu này là Mustang III. Trong
các thử nghiệm tính năng bay, chiếc P-51B đạt được tốc độ 709,70 km/h (441
dặm mỗi giờ) (chính xác là hai-phần-ba tốc độ siêu âm, hoặc là Mach 0,67,)
ở độ cao 7.600 m (25.000 ft),[23] và
tầm bay được kéo dài sau đó bằng cách sử dụng các thùng nhiên liệu phụ vứt
được, cho phép chiếc Mustang gắn động cơ Merlin được dùng như là máy bay tiêm
kích hộ tống ném bom.
Tầm bay xa còn có thể tăng thêm nhờ việc áp dụng một thùng nhiên
liệu tự hàn kín 322 L (85 gallon) phía sau ghế ngồi của phi công, bắt đầu từ
loạt B-5-NA. Khi thùng này được đổ đầy, trọng tâm của chiếc máy bay bị dịch chuyển sát
tới giới hạn phía sau một cách nguy hiểm, do đó việc cơ động bị giới hạn cho
đến khi lượng nhiên liệu trong thùng giảm xuống dưới 95 L (25 gallon) và các
thùng nhiên liệu bên ngoài được vứt bỏ. Những vấn đề "bay rập rình" ở
tốc độ cao của những chiếc P-51B và C cùng với thùng nhiên liệu bên trong thân
đã dẫn đến việc thay thế bánh lái độ cao bọc vải bằng những bề mặt phủ kim loại
và giảm bớt góc tới của đuôi máy bay.[24]
Cho dù có những cải tiến như vậy, máy bay thuộc các phiên bản B
và C lẫn các phiên bản D/K mới hơn đều chịu những vấn đề về điều khiển ở tốc độ
chậm có thể đưa đến việc "lộn vòng" bất chợt không cố ý ở một số điều
kiện nào đó về tốc độ, góc tấn, tổng trọng lượng và trọng tâm máy bay. Nhiều
báo cáo về tai nạn của những chiếc P-51B và C đã nêu lên việc các cánh ổn định
ngang bị xé ra khi cơ động. Kết quả là một bộ vây đuôi trên lưng được sản xuất
ra. Một bản báo cáo đã viết:
"Trừ khi có một vây đuôi được gắn trên những chiếc máy bay
P-51B, P-51C và P-51D, một cú lộn vòng bất chợt có thể xảy ra khi dự tính lộn
vòng chậm. Cánh ổn định ngang sẽ không chịu được các hiệu ứng của cú lộn vòng
này. Để ngăn chặn sự tái diễn việc này, cánh ổn định ngang cần được gia cố như
trong tài liệu kỹ thuật T.O. 01-60J-18 ngày 8 tháng
4 năm 1944 và
phải gắn thêm một vây đuôi. Các bộ vây đuôi đang được sản xuất cho các hoạt
động ở nước ngoài"
Những bộ vây đuôi bắt đầu có mặt vào tháng 8 năm 1944 và
được gắn cho những chiếc phiên bản B và C cũng như D và K. Đồng thời cũng có
những thay đổi cho phần điều khiển bánh lái đuôi, giúp ngăn ngừa phi công cơ
động chiếc máy bay quá mức và đặt thêm tải nặng lên phần đuôi máy bay.[25]
Những chiếc phiên bản P-51B và C bắt đầu đến Anh vào tháng 8 và tháng 10 năm 1943. Chúng được trang bị cho 15 Không đoàn Tiêm kích thuộc Không lực 8 và Không lực 9 tại Anh, Không lực 12 và Không lực 15 tại Ý (phần
phía Nam của Italy do lực lượng Đồng Minh kiểm soát vào cuối năm 1943). Ngoài ra chúng còn được bố trí đến Mặt
trận Trung Hoa-Miến Điện-Ấn Độ.
Các chiến lược gia Đồng Minh nhanh chóng khai thác chiếc máy bay
tiêm kích tầm xa thành máy bay tiêm kích hộ tống ném bom. Chính là phần lớn dựa
vào P-51 mà các cuộc ném bom ban ngày sâu vào lãnh thổ Đức có thể thực hiện mà
không bị ngăn trở do thiệt hại máy bay ném bom vào cuối năm 1943.
Một số chiếc P-51B và P-51C được trang bị để thực hiện trinh sát
hình ảnh và được đặt tên là F-6C.
P-51D và P-51K
Chiếc P-51D My
Girl cất cánh từ Iwo Jima. Từ căn cứ này, những chiếc máy bay tiêm
kích đã hộ tống máy bay ném bom B-29 trong các phi vụ ném bom xuống Nhật Bản
năm 1945.
"Miss Helen", một chiếc P-51D sơn
ký hiệu như trong thời gian chiến tranh, đang được Đại úy Raymond H. Littge
thuộc Phi đội 487, Phi đoàn 352 bay trong một cuộc thao diễn hàng không vào năm
2007. Đây là chiếc P-51 nguyên thủy của Phi đoàn 352 cuối cùng còn lại.
Một trong những số ít lời than phiền về chiếc máy bay trang bị
động cơ Merlin là một tầm nhìn về phía sau kém. Đây là một vấn đề chung trong
đa số các thiết kế máy bay tiêm kích thời đó, vốn chỉ được người Anh nhận ra
sau Trận chiến Anh Quốc, chứng
tỏ giá trị của một tầm nhìn toàn cảnh. Nhằm cải thiện tầm nhìn ít nhất là một
phần nào đó, người Anh đã cải tiến ngoài mặt trận một số chiếc Mustang với nóc
buồng lái trượt dạng "chậu cá" được gọi là "nóc Malcolm",
giống như trên những chiếc Spitfire. Sau đó tất cả những chiếc Mk III cùng với
một số máy bay P-51B/C Mỹ được trang bị kiểu nóc buồng lái Malcolm này.
Bài quá dài, phải cắt
bớt
Những
chiếc Mustang "hạng nhẹ"
XP-51F, XP-51G và XP-51J
Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã đặt ra yêu cầu về những khung máy
bay được chế tạo đáp ứng tiêu chuẩn gia tốc 8,33 G (82 m/s²), một hệ số
tải cao hơn so với tiêu chuẩn 5,33 G (52 m/s²) được người Anh sử dụng cho
những máy bay tiêm kích của họ. Giảm hệ số tải xuống 5,33 G cho phép giảm bớt
trọng lượng máy bay, và điều này được cả Không lực Mỹ lẫn Không quân Hoàng gia
Anh quan tâm đến vì khả năng nâng cao tính năng bay.
Một thay đổi nhỏ khó nhận biết trên những chiếc Mustang
"hạng nhẹ" là việc sử dụng một kiểu cánh cải tiến trong loạt NACA 66
và cánh hơi mỏng hơn so với kiểu được sử dụng trên những chiếc Mustang trước
đây.[31]
Vào năm 1943, North American đưa ra đề nghị tái thiết kế phiên bản P-51D
thành kiểu NA-105, và được Không lực Mỹ chấp thuận. Các cải tiến bao gồm thay
đổi nắp động cơ, bộ càng đáp đơn giản hơn có bánh nhỏ hơn và phanh đĩa, và một
nóc buồng lái lớn hơn. Tên gọi XP-51F được đặt cho những chiếc
nguyên mẫu trang bị động cơ V-1650 (một số nhỏ chiếc XP-51F được chuyển sang
Anh dưới tên gọi Mustang V) và tên XP-51G cho
những chiếc trang bị động cơ Merlin 145M
cho thuê-cho mượn ngược từ Anh.[32]
Một chiếc nguyên mẫu hạng nhẹ thứ ba trang bị động cơ Allison V-1710-119 được
bổ sung vào chương trình phát triển. Chiếc máy bay này được đặt tên là XP-51J.
Vì động cơ không được phát triển đúng mức, chiếc XP-51J được cho Allison mượn
để phát triển động cơ. Không có chiếc Mustang "hạng nhẹ" thử nghiệm
nào được đưa vào sản xuất.[33]
P-51H
Chiếc P-51H đang bay
Chiếc P-51H (NA-126) là phiên bản Mustang sản
xuất cuối cùng, tích hợp các kinh nghiệm thu thập được trong việc phát triển
những kiểu XP-51F và XP-51G. Chiếc máy bay này, cùng với những khác biệt nhỏ để
thành kiểu NA-129, xuất hiện quá trễ để tham gia Thế Chiến II, nhưng là phát
triển đỉnh cao của chiếc Mustang như là một trong những máy bay tiêm kích động
cơ piston được sản xuất và tham gia hoạt động.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những
chiếc Mustang thử nghiệm
Vào đầu năm 1944 một chiếc P-51A-1-NA đầu tiên số hiệu 43-6003 được
trang bị và thử nghiệm với ván trượt nhẹ thu lại được thay thế cho các bánh đáp
chính. Việc cải tiến này là nhằm đáp ứng một đòi hỏi cho chiếc máy bay hoạt
động ở nơi không có đường băng được chuẩn bị sẵn. Trục khuỷu nhún của bộ càng
đáp được giữ lại, nhưng nắp che của bộ càng đáp chính và của bánh đáp đuôi được
tháo bỏ để thử nghiệm. Khi tấm ván trượt thu lại vào thân, nó được chứa trong
ngăn bên dưới khung động cơ bằng cách tháo bỏ các khẩu súng máy Browning
12,7 mm (0,50 inch) trong thân của chiếc P-51A. Toàn bộ việc cải biến làm
tăng trọng lượng chiếc máy bay thêm 177 kg (390 lb) và đòi hỏi áp lực
hoạt động của hệ thống thủy lực phải tăng từ 6.897 kPa (1.000 psi) lên 8.276
kPa (1.200 psi). Các chuyến bay thử nghiệm cho thấy có thể điều khiển tốt trên
mặt đất, và chiếc Mustang có thể cất cánh và hạ cánh trên những khoảng đất
trống dài 300 m (1000 ft); tốc độ tối đa chậm hơn khoảng 29 km/h
(18 dặm mỗi giờ), cho dù người ta nghĩ rằng các nắp che ván trượt thu lại trong
thân có thể bù đắp lực cản.[34]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Lịch
sử hoạt động
Không lực
Lục quân Hoa Kỳ
Các phi công ưu tú toàn người Mỹ da màu thuộc
Phi Đoàn Tiêm kích 332 (Tuskegee Airmen) tại
Ramitelli, Ý. Từ trái sang phải: Trung úy Dempsey W. Morgran, Trung úy Carroll
S. Woods, Trung úy Robert H. Nelron, Jr., Đại úy Andrew D. Turner và Trung úy
Clarence P. Lester.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phi công vận chuyển Florene Watson, thuộc đơn
vị Nữ phi công Phục vụ Không lực (WASP), đang khởi động động cơ của chiếc P-51.
Chiếc P-51D "Glamorous Glennis III"
của phi công thử nghiệm tương lai Chuck
Yeager, mang số hiệu 44-14888thuộc Phi
đội 363, Liên đội 357 của Không lực 8 th. Trên chiếc này ông đã thực hiện phần
lớn trong tổng số 12,5 chiến công của mình.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hoạt động
sau Thế Chiến II
F-51 Mustang lăn bánh qua các vũng nước tại
Triều Tiên, chất đầy bom và rocket.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Trong Chiến tranh Triều Tiên, chiếc F-51 cho dù đã là một
kiểu máy bay tiêm kích lạc hậu, đã được sử dụng như là máy bay ném bom chiến
thuật và máy bay trinh sát cho đến hết cuộc chiến vào năm 1953.[47] Do
cấu trúc nhẹ hơn và khan hiếm phụ tùng thay thế, phiên bản F-51H mới và nhanh
hơn đã không được đưa ra sử dụng tại Triều Tiên. Do chiếc máy bay được sử dụng
trong vai trò tấn công mặt đất, tính năng bay đã không được chú trọng cho bằng
tải trọng chiến đấu.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hoạt động
tại các nước khác
Sau Thế Chiến II, P-51 Mustang phục vụ trong quân đội của hơn 55
nước.[2] Trong
chiến tranh, mỗi chiếc Mustang trị giá khoảng 51.000 Đô la[1] trong
khi có hàng trăm chiếc được bán sau chiến tranh với giá tượng trưng một Đô la
cho những nước châu Mỹ tham gia Hiệp
ước Trợ giúp Hỗ tương Liên Mỹ được phê chuẩn vào
năm 1947 tại Rio de
Janeiro.[51] Dưới
đây là danh sách một số nước từng sử dụng P-51 Mustang.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chiếc Mustang Mk III của
Quân đội Ba Lan trang bị nóc buồng lái kiểu Malcolm; được sử dụng bởi Trung tá Không
quân Tadeusz Nowierski, chỉ
huy trưởng Phi đoàn 3 Ba Lan, Căn cứ Không quân Hoàng gia Coolham, tháng 7 năm 1944.
Trong Thế Chiến II, năm phi đội Không
quân Ba Lan tại Anh đã sử dụng những chiếc Mustang. Đơn vị Ba Lan đầu tiên được
trang bị (vào ngày 7 tháng
6 năm 1942) với kiểu Mustang Mk I là Nhóm B của Phi đội Ba Lan Hợp tác
309, và được tiếp nối bởi Nhóm A vào tháng 3 năm 1943. Sau đó, Phi đội 309 được đổi tên thành Phi đội Tiêm
kích-trinh sát Ba Lan 309và là một bộ phận của Bộ chỉ huy Tiêm kích. Vào
ngày 26 tháng 3 năm 1943, các Phi đội Tiêm kích Ba Lan 306 và 315 nhận được những chiếc
Mustangs Mk III (việc chuyển đổi kéo dài 12 ngày). Vào ngày 13
tháng 3 năm 1944, Phi đội Tiêm kích Ba Lan 316 nhận được những chiếc Mustang Mk
III; việc tái trang bị đơn vị được hoàn tất vào cuối tháng 4. Đến
ngày 20 tháng 10 năm 1944, những chiếc Mustang Mk I của Phi đội 309 được thay thế bằng những
chiếc Mk III; và đến ngày 11
tháng 12 năm 1944, đơn vị lại được đổi tên một lần nữa thành Phi đội Tiêm
kích Ba Lan 309. Vào năm 1945, Phi đội Tiêm kích Ba Lan 303 nhận được 20 chiếc Mustangs Mk
IV/Mk IVA thay thế. Sau chiến tranh, từ ngày 6 tháng
12 năm 1946 đến ngày 6 tháng
1 năm 1947, cả năm phi đội Ba Lan trang bị Mustang được giải thể. Ba Lan
đã hoàn trả khoảng 80 chiếc Mustangs Mk III và 20 chiếc Mustang Mk IV/IVA cho
không quân Hoàng gia Anh, rồi được chuyển trả cho Chính phủ Hoa Kỳ.[53]
Chín chiếc Cavalier F-51D (bao gồm hai chiếc
TF-51s) được giao cho Bolivia, trong một chương trình được gọi là Peace
Condor.[52]
Một chiếc P-51D được phục
chế mang huy hiệu Phi đội phụ thuộc Số 402 "City of Winnipeg" của
Không quân Hoàng gia Canada.
Canada có năm phi đội được trang bị Mustang trong Thế Chiến II.
Các phi đội Không quân Hoàng gia Canada số 400, 414 và 430 sử dụng những chiếc
Mustang Mk I (1942-1944) và các phi đội 441 và 442 lái những chiếc Mustang Mk III và
IVA vào năm 1945. Sau chiến tranh, có tổng cộng 150 chiếc Mustang P-51D được mua
và phục vụ cho hai phi đội thường trực số 416 "Lynx" và số 417
"City of Windsor", và sáu phi đội tiêm kích phụ thuộc: số 402
"City of Winnipeg," số 403 "City of Calgary," số 420
"City of London," số 424 "City of Hamilton," số 442
"City of Vancouver" và số 443 "City of New Westminster." Những
chiếc Mustang được xem là lạc hậu vào năm 1956; nhưng có một số chiếc thuộc phiên bản nhiệm vụ đặc biệt tiếp tục
phục vụ đến đầu những năm 1960.
Theo những điều khoản của Hiệp ước Rio 1947, Mỹ đã cung cấp
cho Cuba những chiếc F-51D Mustang.[54] Tuy
nhiên, sau cuộc Cách mạng Cuba năm 1959, lực lượng Không quân Cách mạng Cuba (Fuerza
Aerea Revolucionaria) đã sở hữu bất hợp pháp ba chiếc Mustang tư nhân được cho
là đã mua lại từ Canada bởi những phái viên của Fidel Castro. Những chiếc P-51 Mustang
này đã không được đưa vào hoạt động đủ sớm để tham gia cuộc cánh mạng. Trong vụ Sự kiện Vịnh Con Lợn, những chiếc Mustang bị hư hại trên mặt đất, và chúng được sửa
chữa quá trễ để tham gia chiến đấu. Chúng phục vụ cho lực lượng không quân Cuba
cho đến khi được thay thế bằng vũ khí do Liên Xô chế tạo vào đầu những
năm 1960.[55]
Không quân Cộng hòa Dominica (FAD)
là lực lượng không quân châu Mỹ La tinh sử dụng F-51D nhiều nhất với sáu máy
bay sở hữu được vào năm 1948; trong năm này họ cũng mua thêm 44 máy bay F-51D nguyên của Thụy
Điển và một chiếc Mustang nữa không rõ nguồn gốc.[56] Đây cũng là nước cuối
cùng sử dụng F-51 Mustang, với những chiếc cuối cùng được sử dụng cho đến
năm 1984.[52]
Không
quân El Salvado (FAS) đã mua năm chiếc
Cavalier Mustang II (và một chiếc Cavalier TF-51 với bộ điều khiển kép), có các
thùng nhiên liệu phụ ở đầu chót cánh để gia tăng tầm bay chiến đấu và động cơ
Merlin nâng cấp. Thêm bảy chiếc P-51D Mustang cũng được đưa vào phục vụ.[52]
Nhiều chiếc P-51 đã bị rơi trong khi hoạt động tại Đức và bị Không
quân Đức chiếm được. Chúng được sửa chữa và được "Zirkus
Rosarius" hay "Rosarius Staffel" thử
nghiệm đánh giá tại Göttingen. Chúng được sơn lại phù
hiệu của Đức và màu vàng sáng trước mũi và dưới bụng để dễ nhận diện. Một số
chiếc P-51B/C (kể cả những chiếc mang ký hiệu của T9+CK, T9+FK, T9+HK và
T9+PK Không quân Đức) và ba chiếc P-51D đã chiếm được.[57] Một số chiếc P-51 được
lực lượng Đồng Minh tìm thấy sau khi chiến tranh kết thúc, trong khi số còn lại
bị rơi đang khi thử nghiệm.[58]
Không
quân Guatemala (FAG) đã có 30 chiếc P-51
được đưa vào phục vụ từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1970.[52]
Không quân Hoàng gia Hà Lan tại Đông Ấn thuộc Hà Lan nhận được 40 chiếc P-51 và sử dụng chúng trong cuộc xung đột
tại Indonesia. Sau khi cuộc xung đột chấm dứt, Indonesia đã nhận được một số
chiếc Mustang.[52]
Haiti có hai chiếc Mustang khi Tổng thống Paul
Eugène Magloire nắm quyền từ năm 1950 cho đến năm 1956. Chiếc cuối cùng được cho nghỉ hưu trong khoảng năm 1973-1974 và được bán cho Cộng hòa Dominica để làm phụ tùng thay thế.[59]
Trong vòng một tháng sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, mười chiếc F-51D
Mustang được cung cấp cho Không
quân Cộng hòa Hàn Quốc vốn đang bị thiệt hại nặng như là một
phần của Kế hoạch Bout One. Chúng
được lái bởi cả các phi công Nam Trều Tiên, nhiều người trong số đó là cựu chiến
binh của Lục quân và Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong
Thế Chiến II lẫn các cố vấn Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Thiếu tá Dean Hess. Sau
đó, có thêm nhiều chiếc được cung cấp từ nguồn dự trữ của Hoa Kỳ và Nam Phi, khi nước này chuyển sang sử dụng F-86 Sabre. Chúng
đã tạo nên xương sống cho Không quân Nam Triều Tiên cho đến khi chúng được thay
thế bởi những chiếc Sabre.[52]
Indonesia sở hữu một số chiếc F-51 từ lực lượng Không quân Đông Ấn
thuộc Hà Lan trong những năm 1949/1950. Những chiếc Mustang này đã được sử dụng chống lại lực lượng Khối Thịnh vượng chung Anh (Không quân Hoàng gia Anh, Australia và New Zealand) trong
"Cuộc chiến đối đầu" với Indonesia vào đầu những năm 1960. Lần cuối cùng những chiếc Mustang được bố trí nhằm mục đích
quân sự là chuyến hàng sáu chiếc Cavalier II Mustangs (không
có thùng nhiên liệu đầu cánh) được giao cho Indonesia trong những năm 1972-1973, vốn được thay thế vào năm 1976.[60][61]
https://s20.postimg.cc/58iy5g2ql/Hatzerim_Mustang.jpg
P-51D at the Israeli Air Force Museum; the marking beneath the cockpit notes its participation
in the wire-cutting operation at the onset of the Suez Crisis.
Một vài chiếc P-51 Mustang đã được Israel mua một cách bất hợp
pháp vào năm 1948 để sử dụng trong cuộc Chiến
tranh giành độc lập Israel và nhanh chóng chứng tỏ là kiểu máy
bay tiêm kích tốt nhất mà Israel có được. Thêm một số máy bay nữa được mua từ Thụy Điển và Nicaragua, và
chúng được sử dụng trong Sự kiện kênh đào Suez và
trong Chiến dịch Kadesh (1956)
trước khi được thay thế bởi những chiếc máy bay phản lực vào cuối những
năm 1950. Người ta đã cho rằng, trong cuộc xung đột này, một phi công
Israel táo bạo đã cắt đứt liên lạc bằng dây điện thoại giữa thành phố Suez và tiền duyên phía Ai Cập bằng cánh quạt của chiếc
Mustang.[62].
Chiếc P-51C-11-NT "Evalina" mang số hiệu
"278" (số hiệu cũ của Không lực Mỹ là 44-10816) phục vụ tại Phi đội
26, Liên đội Tiêm kích 51, đã bị hỏa lực phòng không bắn trúng vào ngày 16 tháng 1 năm 1945 và phải hạ cánh bằng bụng xuống sân bay Suchon tại Trung Quốc vốn đang bị quân Nhật
chiếm đóng. Người Nhật đã sửa chữa chiếc máy bay, vẽ phù hiệu Nhật và lái chiếc
máy bay về Trung tâm đánh giá Fussa (ngày nay là Căn cứ
Không quân Yokota) tại Nhật Bản.[52]
Nicaragua đã mua được 26 chiếc Mustang từ Thụy Điển vào
năm 1954 và sử dụng chúng cho đến năm 1964.[52]
New
Zealand đã đặt mua 320 chiếc P-51 Mustang để thay thế một phần những
chiếc F4U Corsair của họ tại Mặt trận
Tây Nam Thái Bình Dương. Đã có 30 chiếc được giao hàng vào
năm 1945 nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi chúng được đưa ra
sử dụng; số còn lại đã được giữ lại Mỹ. Số 30 chiếc đã nhận được giữ trong kiện
hàng cho đến tận năm 1950 khi chúng được đưa ra sử dụng cùng Không lực
Lãnh thổ New Zealand (TAF) tại các Phi đội 1 Auckland, Phi đội
2 Wellington, Phi đội 3 Canterbury và Phi đội
4 Otago. Không lực Lãnh thổ được giải tán vào năm 1957 và những chiếc Mustang được cho nghỉ hưu, một chiếc được
Phi đội 42 Không
quân Hoàng gia New Zealand giữ lại sử dụng trong vai trò kéo mục
tiêu giả, trong khi những chiếc còn lại bị bán sắt vụn. Các phi công Không quân
New Zealand trong đội ngũ Không quân Hoàng gia Anh cũng
từng lái P-51 và có ít nhất một phi công New Zealand từng ghi được nhiều chiến
công trên bầu trời châu Âu khi được biệt phái đến một phi đội P-51 Không lực Mỹ.
Một chiếc Mustang hiện đang được trưng bày tại Bảo
tàng Không quân Hoàng gia New Zealand và có ba chiếc Mustang
thuộc sở hữu cá nhân còn bay được tại nước này.[63]
Vào cuối năm 1944, đơn vị Không quân
Pháp đầu tiên đã chuyển sang sử dụng những chiếc Mustang trinh
sát. Vào tháng 1 năm 1945, Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 2/33 của Không quân Pháp đã sử dụng
những chiếc F-6C và F-6D bên trên lãnh thổ Đức trong các phi vụ không ảnh bản đồ.
Những chiếc Mustang tiếp tục phục vụ cho đến đầu những năm 1950 khi chúng được thay thế bằng những chiếc máy bay tiêm kích
phản lực.[52]
Philippine Air Force
P-51D. The tailwheels were fixed in the extended position.
Philippines đã
nhận được 103 máy bay P-51 Mustang sau khi Thế Chiến II kết
thúc, và chúng đã trở thành trở thành xương sống của Không lực
Lục quân Philippines và Không quân Philippines; đã được
sử dụng rộng rãi trong chiến dịch Hukchống lại
các cuộc nổi dậy của Cộng sản nước này. Mustang cũng là kiểu máy
bay đầu tiên được trang bị cho Phi đội Thao diễn hàng không Philippine, vốn được
thành lập năm 1953 và được đặt tên là "The Blue Diamond" trong năm
tiếp theo.[64]Chúng
được thay thế bằng những chiếc F-86 Sabre vào
cuối những năm 1950.
Không quân Nam
Phi sử dụng một số chiếc Mustang I và II (P-51A) tại Ý và Trung Đông trong Thế Chiến II.
Không lâu sau ngày chiến thắng, những chiếc máy bay này bị tháo dỡ. Đến
năm 1950, hai phi đội Không quân Nam Phi được trang bị những chiếc F-51D
Mustang cung cấp bởi Hoa Kỳ để chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên. Những chiếc máy bay đã được thể hiện tốt trong tay các phi
công Nam Phi trước khi được thay thế bởi những chiếc F-86 Sabre trong những năm 1952/1953.[52]
Không quân Thụy Điển (Flygvapnet)
ban đầu đã lấy được bốn chiếc P-51 (hai chiếc P-51B và hai chiếc P-51D đời đầu)
vốn đã đổi hướng bay sang Thụy Điển khi gặp trục trặc trong những phi vụ
tại châu Âu. Đến tháng 2 năm 1945, Thụy Điển đặt mua 50 chiếc P-51D và đặt tên chúng là J
26, được các phi công Hoa Kỳ giao hàng vào tháng 4 và
được bố trí đến Phi đoàn F 16 tại Uppsala như
những máy bay tiêm kích đánh chặn. Vào đầu năm 1946, Phi đoàn F 4 tại Östersund được
trang bị lô thứ hai gồm 90 chiếc P-51D. Một lô cuối cùng gồm 21 chiếc được đặt
mua vào năm 1948. Tổng cộng có tất cả 161 chiếc J 26 đã phục vụ trong Không quân Thụy Điển vào
cuối những năm 1940. Có khoảng một tá máy bay được cải biến thành máy bay trinh sát
hình ảnh và được đặt lại tên là S 26. Một vài chiếc trong số này đã
tham gia các phi vụ trinh sát tối mật nhằm vẽ bản đồ các công trình quân sự Xô
Viết mới xây dựng tại vùng bờ biển Baltic trong
những năm 1946-1947 (Chiến dịch Falun), một kế hoạch đòi hỏi nhiều lần
vi phạm có chủ đích không phận Xô Viết. Tuy nhiên, do chiếc Mustang có thể bổ
nhào nhanh hơn mọi máy bay Xô Viết thời đó, không chiếc S 26 nào bị mất trong
những phi vụ này.[65] Những
chiếc J 26 đã được thay thế bằng kiểu máy bay De Havilland Vampire vào khoảng năm 1950, trong khi kiểu S 26 được thay thế bằng S 29C vào
đầu những năm 1950.[52]
Không quân Thụy Sĩ đã
sử dụng vài chiếc P-51 của Không lực Mỹ do chính phủ Thụy Sĩ chiếm được trong
Thế Chiến II, sau khi các phi công gặp trục trặc đã bị buộc phải hạ cánh xuống
nước Thụy Sĩ trung lập. Họ cũng đặt mua 130 chiếc P-51 với giá 4.000 Đô la Mỹ mỗi
chiếc. Chúng phục vụ cho đến tận năm 1958.[52]
Một số chiếc P-51C và D được gửi đến Trung Quốc vào đầu
năm 1945, chúng được giao từ Không lực 10 Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Ấn Độ, và được trang bị cho các liên
đội tiêm kích 5, 3 và 4 của Không quân Trung hoa Dân quốc để
tấn công các mục tiêu Nhật Bản chiếm đóng tại Trung Quốc. Sau chiến tranh,
chính phủ Trung Hoa dân
Quốc của Tưởng Giới Thạch đã dùng số máy bay này để chống lại lực lượng cộng sản
Trung Quốc. Khi lực lượng Trung hoa Dân quốc rút lui khỏi lục địa, hầu hết
trong số đó đã đến Đài Loan theo chân các phi
công đi theo chính phủ quốc gia của Tưởng Giới Thạch, nơi chúng trở thành một phần của lực lượng phòng thủ hòn đảo.
Đài Loan sau đó đã mua thêm những chiếc P-51 từ Không quân Hoa Kỳ và các nguồn
khác. Tuy nhiên, một số chiếc P-51 cũng lọt vào tay Không quân Giải phóng quân Trung Quốc trong quá trình lực lượng Trung hoa Dân quốc rút lui khỏi lục
địa.[52]
Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc đã sử dụng một số
chiếc P-51 chiếm được từ quân đội Trung Hoa Dân Quốc khi họ tháo lui về Đài
Loan.[52]
Những chiếc P-51D thuộc
Phi đội 82 của Không quân Hoàng gia Úc tại Nhật Bản như là một phần của Lực lượng chiếm đóng Khối Thịnh
vượng chung Liên hiệp Anh vào
năm 1947.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Không quân
Uruguay (FAU) sử dụng 25 chiếc F-51D Mustang
từ năm 1950 đến năm 1960; một số chiếc sau đó được bán cho Bolivia.[52]
Sau chiến tranh Ý là một trong các nước có sử dụng P-51D; việc
giao hàng bị chậm trễ do Chiến tranh Triều Tiên, nhưng giữa tháng 9 năm 1947 và tháng 1 năm 1951, theo chương trình viện trợ quân sự, 173 chiếc đã được giao.
Chúng đã được sử dụng trong các đơn vị tiêm kích của Không quân Ý (AMI):
Các Stormo (phi đoàn) số 2, 3, 4, 5, 6, và 51 và một số tại các trường huấn luyện
và các đơn vị thử nghiệm. Được xem là một kiểu máy bay tiêm kích "quyến
rũ", những chiếc P-51 còn được sử dụng như là phương tiện vận chuyển cá
nhân của nhiều vị tư lệnh Ý. Một số hạn chế trong việc sử dụng đã được đặt ra
do tính chất bay không thuận lợi của nó; việc điều khiển phải thận trọng khi
thùng nhiên liệu được đổ đầy và nhiều kiểu cơ động thao diễn bị cấm. Nhìn
chung, chiếc P-51D được đánh giá cao, kể cả khi so sánh với những kiểu máy bay
tiêm kích hàng đầu của Ý trước chiến tranh và chiếc Supermarine Spitfire, một phần là do tình trạng của
những chiếc P-51D khi được giao còn rất tốt so với những máy bay tiêm kích Đồng
Minh khác được cung cấp cho Ý. Việc cho nghỉ hưu những chiếc Mustang được bắt đầu
vào mùa Hè năm 1958.[69]
P-51
trong hàng không dân sự
Nhiều chiếc P-51 đã được bán ra do dư thừa sau chiến tranh,
thường là với giá thấp đến mức 1.500 Đô la Mỹ. Một số được bán cho các cựu phi
công thời chiến tranh hay những người hâm mộ để sử dụng cá nhân, trong khi một
số khác được cải biến cho các cuộc đua hàng không.[70]
Chiếc "Excalibur III" của Charles
Blair tại Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy (NASM)
Một trong những chiếc Mustang nổi bật từng tham gia các cuộc đua
hàng không là chiếc P-51C-10-NT (số hiệu 44-10947) dư thừa được mua bởi Paul Mantz, một
phi công đóng thế vai trong điện ảnh. Chiếc máy bay được cải biến để có kiểu
"cánh ướt", cánh được làm kín để mang một thùng nhiên liệu lớn trong
mỗi cánh, và do đó hạn chế được sự cần thiết phải hạ cánh để tiếp thêm nhiên
liệu hay tăng thêm lực cản do các thùng nhiên liệu phụ mang bên ngoài. Chiếc
Mustang này được đặt tên là "Blaze of Noon", đã về nhất trong các cuộc
đua Bendix Air Race năm 1946 và 1947, về nhì giải Bendix năm 1948 và thứ ba giải Bendix năm 1949. Ông cũng lập một kỷ lục xuyên lục địa Mỹ vào năm 1947. Chiếc Mustang của Mantz được bán cho Charles Blair (sau này là
chồng của Maureen O'Hara) và
được đặt lại tên là "Excaliber III". Blair đã dùng nó để lập một kỷ
lục bay từ New York sang Luân
Đôn (khoảng 3.460 dặm/5.568 km) vào năm 1951. Cùng năm đó ông đã thực hiện một chuyến bay từ Na Uy đến Fairbanks,
Alaska ngang qua Bắc Cực (khoảng
3.130 dặm/5.037 km), chứng minh rằng việc dẫn đường bằng ánh sáng mặt trời
có thể thực hiện được khi bay ngang qua cực từ trường Bắc. Do kỳ công này, ông
đã được trao tặng giải Harmon Trophy; và Không quân Mỹ buộc phải thay đổi quan
điểm về một cuộc không kích của Xô Viết có thể được thực hiện từ phía Bắc.
Chiếc Mustang này
hiện đang trưng bày tại Bảo
tàng Quốc gia Hàng không và Không gian ở Trung
tâm Steven F. Udvar-Hazy.
Một trong số nhiều chiếc
P-51D Mustang tại triển lãm hàng không Oshkosh 2005, sơn màu của Liên đội Tiêm
kích 352, Căn cứ Không quân Hoàng gia Bodney, Anh Quốc.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những
chiếc còn lại
1/ XP-51 41-038: Chiếc nguyên mẫu ban đầu
được trưng bày tại Oshkosh.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các
biến thể
Bài quá dài, phải cắt bớt
Số lượng sản
xuất
P-51D trên đường lăn
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tổng số máy bay được chế tạo: 15.875 chiếc (số máy
bay tiêm kích Hoa Kỳ được sản xuất nhiều nhất)
Đặc
điểm kỹ thuật
P-51D
Mustang
Đặc tính chung
·
Đội bay: 01 người
·
Chiều dài: 9,83 m (32 ft 3 in)
·
Chiều cao: 4,17 m (13 ft 8 in)
·
Diện tích bề mặt cánh: 21,83 m² (235 ft²)
·
Trọng lượng không tải: 3.465 kg (7.635 lb)
·
Trọng lượng có tải: 4.175 kg (9.200 lb)
·
Động cơ: 1 x động cơ Packard Merlin V-1650-7 V-12 siêu tăng áp làm
mát bằng nước, công suất 1.695 mã lực (1.265 kW)
Đặc tính bay
Vũ khí
·
6 x súng máy Browning
M2 12,7 mm (0,50 in), 400 viên đạn mỗi khẩu cho hai khẩu
gắn trong, 270 viên đạn mỗi khẩu cho những khẩu gắn ngoài
·
cho đến 907 kg (2.000 lb) bom gắn trên 2 đế
·
10 × rocket 127 mm (5 in)
No comments:
Post a Comment