Chỉ Biết Sợ Tầu Để Giữ Đảng
Chỉ Biết Sợ Tầu Để Giữ Đảng
Tác giả : Phạm Trần Nguồn: Việt
Báo Ngày đăng: 2019-11-08
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN biết sợ Tầu là nhục, nhưng
còn hơn nghe dân để mất Đảng.
Tư duy này đã rõ như ban ngày trong cách hành xử ngoại giao và bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ, cả trên đất liền và biển đảo, trước áp lực của Trung Cộng, của
các thế hệ lãnh đạo Việt Nam từ sau 1975.
TỪ THÀNH ĐÔ ĐẾN BIỂN DÔNG
Đầu tiên, phải kế đến cam kết Việt Nam không được nhắc lại cuộc chiến biên
giới Việt-Trung năm từ 1979 đến 1989 mỗi khi họp với phía Trung Cộng; Không tổ
chức kỷ niệm cuộc chiến này.
Lệnh này được Lãnh đạo tối cao Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình, giao cho Tổng Bí
thư đảng Cộng sản Trung Cộng Giang Trạch Dân để giao kèo với Đoàn Việt Nam, tại
cuộc họp kín ở Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990. Đây là một trong 2 điều kiện để
hai nước nối lại bang giao bị gián đoàn vì cuộc chiến biện giới. Điều kiện kia
là Việt Nam phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên để xúc tiến giải pháp
chính trị cho nước này.
Đòan Việt Nam khi ấy do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cầm đầu, cùng với sự có
mặt của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Tuy nhiên đoàn Việt Nam đã vô cùng thất vọng khi Đặng Tiểu Bình tìm cách
tránh gặp như kỳ vọng của phía Việt Nam.
Nạn nhân trực tiếp của Thỏa hiệp bí mật Thành Đô là Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương, Thân phụ của Bộ trường Ngoại giao
Phạm Bình Minh), người đạ bị Trung Cộng ép phía Việt Nam loại khỏi Đại hội đảng
kỳ VII thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, vì có thái độ chống Tầu
Thứ hai, Việt Nam không được nêu vấn đề Hoàng Sa, đã bị Trung Cộng chiếm
ngày 19/01/1974, mỗi khi thảo luận về Biển Đông.
Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, 103 tuổi, nguyên Đại sứ tại Trung Cộng từ
1974 đến 1987 là chứng nhân lịch sử của những “nỗi nhục” này trong quan hệ Việt-Trung.
Hai nguyên Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu (khóa VIII) và Nông Đức Mạnh (hai
Khóa IX và X), những người có trách nhiệm ký và thi hành 3 Văn kiện :
- Hiệp ước Biên giới trên đất liền giữa Việt Nam- Trung
Quốc ký ngày 30-12-1999.
- Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, ký ngày 25/12/2000.
- Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ, ký 25/12/2000.
phải chịu chung trách nhiệm trước lịch sử cùng với Quốc hội, cơ quan đã nhắm
mắt phê chuẩn mà không có bất cứ cuộc duyệt xét hay thảo luận nào, để cho những
hệ lụy vẫn đang diễn ra ở Biển Đông.
Thứ ba, mặc cho Việt Nam tranh cãi, nhưng Lãnh đạo Trung Cộng gồm Đảng, Nhà
nước và Quân đội vẫn khẳng định các bãi đá, đảo và vùng nước chung quanh là của
tổ tiên họ để lại.
Thứ bốn, đảng và nhà nước CSVN cũng nói Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam,
nhưng lại không dám đánh hay kiện Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế để :
1) Lấy lại Hoàng Sa.
2) Đòi bồi thường khi ngư dân Việt Nam bị tấn công (nhiều khi có người chết
và bị mất tài sản) ; bị ngăn cấm đánh bắt ở Biển Đông;
3) Không dám dùng biện pháp Quân sự để ngăn cản hay chống Trung Cộng đã
ngang nhiên đưa Tầu khảo sát dầu khi xâm nhập sâu vào thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế 200 Hải lý (lối 370 cây số tính từ bờ biển), như đã xẩy ra trong
vụ Hải Dương 981 (HD-981) năm 2014 (từ 2/5 đến 16/07/2014) và Hải Dương 8
(HD-8) ở bãi Tư Chính băm 2019 ( từ ngày 3/7 đến 24/10/2019).
MIỆNG LƯỠI LÃNH ĐẠO
Trong khi đó, tam đầu chế gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng;
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Chính phù Nguyễn Xuân Phúc
đã không dám chỉ trích đính danh Trung Cộng khi xẩy ra vụ Tư Chính.
Trong hàng Bộ trưởng, duy nhất chỉ có Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoai giao
Phạm Bình Minh đã công khai chí trích Trung Cộng 1 lần, tại Hội nghị cấp Bộ trường
Ngoại giao ASEAN-Trung Cộng lần thứ 52 (AMM-52) ở Bangkok, Thái Lan ngày 31/7
(2019).
Ông Minh được trích lời đã bầy tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về hoạt động khảo
sát của tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 và các tàu hộ tống của Trung Hoa ở khu
vực Bãi Tư Chính.
Ông cũng nói với Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng, Vương Nghị rằng Trung Hoa
đã “vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, trong
khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.”
Tuy nhiên, sau đó, trong diễn văn ngày 28/09 (2019) tại Liên Hiệp Quốc, ông
Minh lại tránh nói đến Trung Cộng, ngược lại ông chỉ nói chung chung, vô tội vạ
rằng:
”Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ
luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS
1982)… Việt Nam cũng đã nhiều lần nêu rõ sự lo ngại về những diễn biến phức tạp
ở Biển Đông, trong đó có việc vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại
các vùng biển của Việt Nam được xác định theo UNCLOS 1982. Các bên liên quan cần
kiềm chế và tránh có những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình và gia
tăng căng thẳng, và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp
với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.”
Nhưng “các bên liên quan” là những Quốc gia nào, ngoài Trung Cộng là nước
duy nhất đã và đang “vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại các vùng
biển của Việt Nam” ?
Đến lượt Đại tướng Bộ trưởng Quốc Phòng Ngô Xuân Lịch, cũng không khá hơn.
Ông Tướng này cũng không dám nêu tên Trung Cộng là nước đã và đang gây ra bất ổn
ở Biển Đông. Ông Lịch nói tại Diễn đàn Hương Sơn (Trung Cộng) ngày 21/10 (2019)
:
”Tình hình Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp, nếu không được
xử lý tốt sẽ tác động đến hòa bình, ổn định tại khu vực, làm xói mòn lòng tin
giữa các quốc gia, cản trở những nỗ lực hợp tác của khu vực….Vấn đề Biển Đông
phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng
vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích hợp pháp của mỗi nước với
tinh thần đối tác, vì trách nhiệm cộng đồng...”
Nhưng ai đã gây ra tình hình “phức tạp”, ngoài Trung Cộng ? Tại sao không
nói trắng ra cho thế giới biết ? Đoàn Quốc phòng Việt Nam, do tướng Lịch cầm đầu
đã không dám bỏ phòng họp khi Thượng tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Cộng, Ngụy
Phượng Hòa tuyên bố thẳng thừng trước Hội nghị rằng:
”Các đảo ở Biển Đông và quần đảo Điếu Ngư (ở biển Hoa
Đông) là những phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi sẽ
không cho phép dù chỉ một tấc lãnh thổ mà tổ tiên của chúng tôi đã để lại bị lấy
đi”.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã có cuộc gặp với Thủ tướng Quốc vụ viện
Trung Quốc Lý Khắc Cường tại Cuộc họp cấp cao của Tổ chức ASEAN
(The
Association of South East Asia Nations, Hiệp hội các ước Đông Nam Á) tại
Bangkok, Thái Lan ngày 03/11/ (2019).
Theo báo Chính phủ Việt Nam, trước hết ông Phúc đã
“khẳng định Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn thúc đẩy
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.”
Nhưng về vấn đề trên biển, Ông Phúc lại :
”Đề nghị hai bên cùng kiểm soát tốt bất đồng, không để ảnh
hưởng tới quan hệ hai nước; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định tại khu vực…
xử lý tốt vấn đề nghề cá và ngư dân; đề nghị Trung Quốc tôn trọng các hoạt động
kinh tế biển bình thường, phù hợp với luật pháp quốc tế của Việt Nam; khẳng định
Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo theo luật
pháp quốc tế…”
Toàn là những chuyện đầu môi, chót lưỡi viển vông không ăn nhập gì đến những
hành động ngang ngược của Hải Dương 8 mà Trung Cộng đã gây ra cho Việt Nam ở
bãi Tư Chính, mới chấm dứt 10 ngày trước đó (24/10 (2019).
Thái độ cúi đầu trước Lý Khắc Cường của ông Phúc không lạ, vì trước đó, vào
ngày 21/10 (2019), Nguyễn Xuân Phúc cũng ấm ớ hội tề trong báo cáo trước Quốc hội
rằng:
”Tình hình biển Đông gần đây diễn biến phức tạp, trong đó
có việc vi phạm nghiêm trọng các vùng biển của Việt Nam được xác định theo luật
pháp quốc tế, trái với Tuyên bố DOC và các thỏa thuận cấp cao. Đảng và Nhà nước
ta đã nhất quán chủ trương những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ chúng ta không bao giờ nhân nhượng.”
Nhưng mà ai, ngoài Trung Cộng, đã “vi phạm
nghiêm trọng các vùng biển của Việt Nam” ? Tại sao ông Phúc lại sợ
không dám nói thẳng với Quốc hội và Quốc dân rằng Trung Cộng đã có những vi phạm
nghiêm trọng ở Tư Chính ?
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cũng chỉ ú ớ Diễn văn khai mạc Quốc hội
ngày 21/10 (2019). Bà nói:
”Tình hình Biển Đông thời gian gần đây có những diễn biến
phức tạp, khó lường và những tác động không thuận khác... đã ảnh hưởng không nhỏ
đến nước ta.”
Vậy ai đã làm cho tình hình Biển Đông “phức tạp”, chẳng lẽ ma nó làm à ?
Thậm chí, người đứng đầu Đảng và Nhà nước là ông Nguyễn Phú Trọng cũng
không đả động gì đến chuyện bãi Tư Chính, khi HD-8 vẫn đang hòanh hành trong
khu vực.
Trong diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương đảng kỳ 11, ngày 13/10/2019, ông
Trọng chỉ nói mấy chữ:
”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền biển, đảo quốc gia trên cơ sở luật pháp quốc tế.”
Trong khi Thông báo cuối cùng của Ban Chấp hành Trung ương cũng chỉ nói rập
khuôn :
”Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.”
Đến ngày 28/10 (2019), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh
ra trước Quốc hội báo cáo về tình hình ngoại giao năm 2019, trong đó có vấn đề
Biển Đông. Nhưng Quốc hội lại họp kín. Nhân dân không biết ông Minh đã nói gì với
Quốc hội. Báo chí đảng cũng nín thinh như gà mắc dây thun.
Như vậy thì còn trông mong gì ở Quốc hội, Cơ quan quyền lực cao nhất nước,
nhưng lại là bù nhìn của Bộ Chính trị do ông Nguyễn Phú Trọng, một người thân
Trung Cộng cầm đầu ?
Cho đến khi Hải Dương 8 tự ý rút về nước ngày 14/10 (2019) vì đã hoàn tất kế
hoạch, theo loan báo của Trung Cộng, không ai biết phía Việt Nam đã thi hành những
biện pháp bảo vệ biển đảo ra sao.
Chỉ biết rằng, vào ngày 30/10 (2019), trước phiên họp toàn thể của Quốc hội
thảo luận về tình hình kinh tế, Đại biểu Nguyễn Lân Hiếu, đoàn An Giang, đã tiết
lộ:
”Các phương pháp chúng ta sử dụng trong thời gian vừa qua
với phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh kiên quyết, kiên trì, xử lý các hành
vi xâm phạm chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình không làm giảm đi lòng tham của
Trung Quốc. Do đó, cần có thêm những biện pháp mới.” (theo báo Thanh Niên Online, 30/10/2019)
Liệu ông Nguyễn Phú Trọng có sáng kiến gì mới không, hay ông cứ ì ra đấy để
mặc kệ dân băn khoăn ?
MÃ LAI-PHI-MỸ
Nhưng cũng rất lạ là khi các viên chức Việt Nam, nạn nhận trực tiếp và thường
xuyên của Trung Cộng ở Biển Đông, đã níu lưỡi, không dám nêu tên Trung Cộng thì
Ngoại trưởng Mã Lai (Malaysia) Saifuddin bin Abdullah đã nhấn mạnh tại cuộc họp
của ASEAN vào ngày 2/11 (2019) tại Bangkok, Thái Lan: “Malaysia lo ngại sâu sắc về sự tồn tại của Cục Cảnh sát
biển Trung Quốc” trong vùng biển của Mã Lai.
Về phần mình, Tổng thống Phi Luật Tân Rodrigo Duterte cũng nói vào tối ngày
2 tháng 11:
“Tự do hàng hải ở Biển Đông là ưu tiên hàng đầu của
ASEAN”.
Ngày hôm sau, tại hội nghị cấp cao ASEAN, 3/11, ông Duterte đã nói thẳng
trước mặt Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (Li Keqiang):
“Trung Quốc cần phải giảm bớt các hoạt động quân sự ở Biển
Đông”.
(theo báo Nhật, Nihon Keizai Shinbun (Tin tức kinh tế Nhật Bản, ngày 3/11
(2019)
Về phía Mỹ, Cố vấn an ninh Quốc gia Roberts O’Brien cũng công khai chỉ
trích Trung Cộng đã xách nhiễu các nước nhỏ ở Biển Đông.
Ông O’sBrien nói trong diễn văn với các Đại biểu ASEAN:
”Beijing has used intimidation to try to stop Asean
nations from exploiting the offshore resources, blocking access to $2.5tn of
oil and gas reserves alone,”
“The region has no interest in a new imperial era where a
big country can rule others on a theory that might makes right.”
(Bắc Kinh đã sử dụng hình thức đe dọa để cố gắng ngăn chặn các quốc gia
ASEAN khai thác tài nguyên ngoài khơi, ngăn chặn việc tiếp cận nguồn dự trữ dầu
khí trị giá 2,5 nghìn tỷ đôla.”
“Khu vực này không hứng thú với một kỷ nguyên đế quốc mới, nơi một quốc gia
lớn có thể cai trị những nước khác theo lý thuyết chân lý thuộc về kẻ mạnh.”
(VOA tiếng Việt)
Như vậy, có phải hai ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã khôn nhà dại chợ, hay hai
ông cũng chỉ biết tuân lệnh cúi đầu trước Bắc Kinh để giữ Đảng, theo chỉ thị của
ông Nguyễn Phú Trọng ? -/-
Phạm Trần
(11/019)
No comments:
Post a Comment