NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ
NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ (Khuất Đẩu)
Posted on April 17, 2017 by Lê Thy
NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ
Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai nhầm thế
kỷ! Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế chiến thứ nhất,
thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và cuộc nội chiến
lê thê suốt hai mươi năm dài.
Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt vọng. Vì còn kêu được
kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra trong những thế kỷ yên
bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh ra làm người vẫn hơn
là không được sinh ra.
Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư, bảy lăm, sau chúng tôi một
thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi:
Sinh chúng tôi ra
làm gì?
Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở ra hơi
mà vẫn phải bết bát chạy.
Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu Tràng Tiền
lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con. Sau cùng đến
giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống bến Bạch Đằng,
hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn Nhất. Một cuộc chạy
Marathon dài nhất trong lịch sử.
Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ với sự
giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.
Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt trong
quần mà mẹ không hay.
Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang ngồi
tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ không
cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.
Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con bị
người ta đạp cho nát bét.
Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang ném những
xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ
không ném những người đàn bà chửa)
Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị đạn dưới
đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức giữ cho
máy bay khỏi rơi.
Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, khi tông tông Dương Văn
Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều
kiện”.
Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang chiến đấu
mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân phục lẫn lộn
giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1
Người ta đi biển có đôi
Còn tôi đi biển mồ côi một mình.
Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con bú. Tuy chỉ uống nước lã
cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu hiếm hoi màu đỏ khi chảy
qua miệng con vẫn thành màu trắng thơm tho.
Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi xác chết thối rữa, mùi
khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong tiếng đại bác ì ầm, tiếng
A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.
Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, mẹ ngơ
ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa xanh nửa đỏ.
Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang trang.
Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố, xóm
làng của mình. Ngay cả con phố, căn nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.
Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội xuống ruộng,
mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày thay trâu. Mẹ
làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón lá chỉ làm cho
nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.
Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc, gọi
là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy còn
nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc
suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét rừng, bụng ỏng da vàng khè.
Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ vay mượn
chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý thị trường
rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi, nói ra thật
xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo bè bạn đi
đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.
Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị bắt đi cải
tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái gọi là tình
chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp xe thồ, bán
cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.
Con được (hay bị) dạy thành cháu ngoan
Bác Hồ.
Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm trước
mặt con.
Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.
Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi tuổi,
cái tuổi "tứ thập nhi bất
hoặc." Còn bi đát tội
nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai
để hướng tới, chỉ có cái hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số
không chẳng biết để làm gì.
Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn, tuy
không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng chỉ
đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng năm
sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ phía
bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ cho
những ông chủ kém may mắn nói trên.
Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi:
Sinh ra trong chết chóc, lớn lên
trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh chúng tôi ra làm gì?!
Khuất Đẩu
©T.Vấn 2015
No comments:
Post a Comment