Sống Chẳng Còn Quê
Sống Chẳng Còn Quê. Hồi Ký Của Một Người Việt
Nam
Posted on January 11, 2019
by dongsongcu
Trần Mộng Lâm
Cuộc chiến Việt
Nam 1954-1975 sau cùng xét lại chỉ là một cuộc chiến tranh tàn hại trong lịch sử
nhân loại nói chung, và của nước Việt Nam nói riêng. Sự kết thúc của nó đã đẩy
ra khỏi đất nước gần 3 triệu người Việt và làm dân tộc này vào một sự chia rẽ
vô phương hàn gắn. Thường thì sau mỗi cuộc chiến tranh như vậy xuất hiện những
tác phẩm văn chương nói lên thân phận của những người vì tai trời, ách nước phải
trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của thời cuộc. Họ không phải là những người lãnh
đạo, cũng chẳng có danh phận, chức tước nào ngoài danh phận phó thường dân
nhưng ở vị trí này, họ trở thành những nhân chứng quan trọng cho một thời đại,
một biến cố mà Lịch Sử chính thức không thể ghi lại một cách trung thực được.
Chúng ta đã đọc Chiến Tranh và Hòa Bình, Cuốn Theo Chiều Gió, Bác Sỹ Gi Va Gô,
Giờ Thứ 25.. và say mê với các tác phẩm
này. Thế nhưng cuộc chiến vừa qua tại đất nước chúng ta thì chỉ thấy xuất hiện
về sau những tập hồi ký ghi lại những sự kiện riêng biệt của một nhân vật nào
đó, vào một giai đoạn nào đó, có thể là một trận đánh, một thời gian cải tạo, một
cuộc vượt biên, một cuộc đời làm lại nơi xứ người. Hiếm có một hồi ký nào ghi lại
cả một cuộc đời, tương tự như cuốn tiểu thuyết BS Gi Va Gô của nhà văn Nga,
Boris Pasternak . Rất may, cuốn hồi ký Sống Chẳng Còn Quê của Trần Xuân Dũng vừa
xuất hiện năm 2018 đã giúp chúng ta và con cháu thấy được cái thảm kịch của Việt
Nam thế kỷ 20 qua những gì ghi lại của một người Việt Nam , một thanh niên tầm
thường như hàng triệu thanh niên khác, không phải là một nhà cách mạng hay lý
thuyết gia, cũng không phải lãnh tụ tôn giáo như các ông Hồ Chí Minh, Ngô đình
Diệm, Ngô đình Nhu hay Thích Trí Quang…v..v
Cuốn Hồi Ký Sống Chẳng Còn
Quê của Trần Xuân Dũng dầy 683 trang, trình bầy trang nhã.
Hình bìa là
hình một căn nhà bằng gỗ, có dàn muớp hoa vàng, trái xanh.
Hình bìa sau
là một nông trại tại Úc, với cây cổ thụ cao ngất trời.
Hai tấm hình,
hai nơi chốn, hai giai đoạn của một đời người, đời tác giả.
Nếu chỉ hiểu cuốn sách này
là một hồi ký của một cuộc đời, thì cuộc đời đó đầy chông gai, nước mắt. Tuy
nhiên, người đọc có cảm tưởng là mục đích của tác giả khi ngồi viết 683 trang
sách không phải là chỉ để ghi lại cuộc đời mình, mà tác giả muốn qua nó, viết lại
lịch sử của toàn thể Việt Nam, từ năm 1939, là năm sinh của tác giả, cho đến
ngày hôm nay. Có thể nói, tác giả khi ngồi viết lại cuốn hồi ký này, ông đã làm
cái việc mà nhà văn Đoàn Thêm gọi là Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử.
Có lẽ chúng ta không cần biết
đến thân thế của chàng trai Việt này, tuy việc tìm hiểu không khó .
Cái mà chúng ta cần biết là ông là một nhà thơ rất có
tài, và đồng thời ông là một nhiếp ảnh gia, đồng thời là một nhà khoa học. Hai
yếu tố này khiến ông mô tả rất chính xác những sự kiện ông chứng kiến trong cuộc
sống hàng ngày.
Trần Xuân Dũng
đã trải qua một thời thơ ấu rất gian truân, đánh dấu bằng nạn đói năm Ất Dậu
1945 . Năm đó, vì sự ác độc của quân đội Nhật, bắt dân bỏ việc trồng lúa để trồng
đay cung cấp cho chiến trường (Thế Chiến Thứ 2), Việt nam trải qua một nạn đói vô cùng khủng khiếp.
Hãy xem ông thu vào ống kính
cảnh tượng thê thảm của nạn đói này :
Một buổi sáng,
tôi đang ngồi trong cửa sổ nhìn ra ngoài đường, chợt nghe tiếng lọc cọc. Tiếng
xe bò lăn trên đường. Từ phía thành Vinh về hướng nhà Ga. Xe tới gần, không thấy
bò kéo xe mà là người. Hai người gầy yếu cố kéo cái xe đi từng chút một, trên
xe có vài xác chết trộn lẫn với một ít bột vôi trắng. Những cái xác nằm trên xe
đã rất gầy. Mặt thụt vào, da nhăn nhúm, tay chân không còn thịt. Có xác chỉ mặc
có một cái quần đùi. Có xác mặc áo quần, nhưng đã tả tơi rách nát. Nhưng có điều
là khuôn mặt nào cũng gần như giống nhau. Da bám sát vào xương mặt. Mầu trắng bệnh
nhợt nhạt, như không có máu đã lâu ngày. Môi họ đều khô cong, dường như có nhiều
lằn nứt dọc….Những đám ruồi hiện đang bay hay đậu vào mặt những xác này.
Như thế đó, nạn đói năm Ất Dậu
tại thành phố Vinh.
Chính trong hoàn cảnh đau
thương này mà đảng Công Sản Việt Nam có cơ hội nắm chính quyền.Việt Minh, thuở
khởi đầu, chỉ là một bọn cơ hội chủ nghĩa. Với quyền sinh sát trong tay, nhân
danh Cách Mạng, chúng làm mưa làm gió, giết người qua những bản án trời ơi đất
hỡi, tuyên án bởi những quan tòa chưa từng học qua một ngày tại các trường Luật.
Những ai tưởng rằng những người CS hồi đó trong sạch, có lý tưởng lầm to.
Cha của tác giả
chỉ vì đã làm việc trong một nhà ga nên coi như là đã cộng tác với thực dân
Pháp nên bị họ bắt cầm tù. Việc đó khoan nói là oan hay ưng. Chỉ biết rằng việc ông được thả ra
hoàn toàn là do đút lót và mỹ nhân kế, qua sự trung gian của một người đàn bà
có nước da trắng, ăn mặc tân thời, người ta gọi là cô giáo, nhưng có vóc dáng của
một cô đầu. Việt Minh tham nhũng và dâm ô kể từ những năm cuối của thập niên 40
chứ không phải sau này. Tiếng cách mạng chỉ là trên đầu môi chót lưỡi, và người
dân cũng biết là như vậy nhưng với vũ khí cung cấp bởi Mao Trạch Đông, người dân Việt không làm gì được để
chống đối. Họ chỉ có thể bỏ vùng do Việt Minh kiểm soát để về Hà Nội, tuy là
thành phố này do người Pháp cai trị.
Trái với những gì CS sau này
tuyên truyền, tác giả cho biết quang cảnh Hà Nội trước Genève :
Năm 1953, tình
hình Hà Nội sáng sủa nhất. Thủ đô phát triển về mọi mặt rất nhanh. Sự thịnh vượng
và huy hoàng lộ rõ (Trang 179).
Rất tiếc tại các nơi ngoài thành phố, vùng do họ kiểm
soát, Việt Minh khủng bố người dân với những việc đấu tố của Cải Cách Ruộng đất
, chém giết thẳng tay. Bởi vậy, việc người dân Miền Bắc di cư vào Miền Nam sau
Hiệp định Genève chỉ chứng tỏ một điều là lòng dân chán ghét CS ngay từ những
năm 50 của thế hệ trước. Chẳng có chiến đấu vì độc lập, tư do gì hết. Tất cả đều
do họng súng và do Cộng Sản Quốc Tế, đặc biệt là Cộng Sản Tầu. Cuốn hồi ký của
TXD nói rõ điều này và những gì CS tô hồng chuốc lục cho sự nhiệp Cách Mạng của
họ sau này đều là nói láo. Việc này mọi người đều rõ, và sự sợ hãi, cúi đầu cam
chịu của người dân trước sự lộng hành của CS chỉ cắt nghĩa được bằng sự sợ hãi.
Sợ đến nỗi một người như Nguyễn Tuân sau này phải thú nhận là ông ta sở dĩ sống
sót được là vì biết sợ. Nói điều này chỉ là để xác nhận một điều :
Cộng Sản chẳng qua
chỉ là một bọn cướp, một bọn Mafia gieo rắc kinh hoàng cho người dân chẳng khác
Al Capone tại Nữu Ước ngày xưa.
Sau hiệp địmh Geneve, tác giả
theo gia đình di cư vào Miền Nam. Tại đây, dưới chế độ Tự Do của Việt Nam Công
Hòa , TXD đã có những năm tháng hạnh phúc. Tại trang 267 của tập hồi ký, ông viết
:
Học sinh vui
sướng, tinh thần thoải mái. Chẳng ai bảo ai, toàn bộ học sinh CVA đều rất kính
phục TT Ngô đình Diệm. Và cảm ơn nữa. Nhưng dòng này tác giả viết tại Úc, sau
khi TT Ngô đình Diệm đã qua đời trên 60 năm, không thể nói là để tuyên truyền
hay vì áp lực nào khác.
Đó là sự thực,
100% sự thực.
Những ai thuộc thế hệ tác giả, trong đó có tôi, có thể xác nhận điều này.
Nếu không có bọn CS và cuộc chiến sau này do chúng gây ra, thì chắc chắn là Việt
Nam ngày nay đã khác xa, đã tiến bằng hay tiến hơn Đại Hàn.
Cuộc sống của người dân Miền
Nam sau 1954 là một cuộc sống đã dược tác giả tả lại tại trang 279 : Sài Gòn sống
trong cảnh thanh bình, thịnh vượng. Tôi đậu tú tài một, rồi tú tài hai, ban
toán. Nhờ Việt Nam Công Hòa, TXD lên đại học và vào trường Y Khoa. Rất tiếc, đến
giai đoạn này, cuộc sống của người Miền Nam không còn được CS để yên nữa. Chúng
đã một mặt mua chuộc được những người Miền Nam nhẹ dạ (như một ông trưởng giả
người miền Nam là hàng xóm của ông trong đồng Ông Cộ), một mặt xua quân vượt vỹ
tuyến 17 vào Miền Nam gây nên một cuộc chiến tranh vô cùng thảm khốc kéo dài
mãi đến 1975, trong đó gần 3 triệu thanh niên đã bỏ mình, lãng nhách, không có
gì có thể biện minh cho sự cần thiết của cuộc chiến này.
Như đa số các thanh niên Miền
Nam, TXD đã vào quân đội , không vì muốn chiến thắng ai, mà chĩ để bảo vệ nếp sống
mà mình đã chọn. Nhưng người thanh niên Miền Nam, ưa hoà bình nhưng không còn một
lưa chọn nào khác là hy sinh. Hãy nghe tác giả nói về trường hợp một người lính
Miền Nam : trang 373 :
Một người từ
ngày nhập ngũ tính đến nay đúng mười năm. Anh ta cứ ở nguyên một chỗ trên một
nơi hẻo lánh, đó là một ngọn núi trong tình trạng vô cùng nguy hiểm, Hàng ngày,
pháo kích của Việt Công rơi xuống chỗ đóng quân đều đặn. Từ ngọn núi này đi ra,
không thể dùng đường bộ. Xe cộ sẽ bị Việt Công phục kích. Đời sống của những
người tại đơn vị nhỏ này lệ thuộc vào những chuyến tiếp tế. Từ lương thực đến
súng đạn , tất cả đều phải bằng máy bay… Anh lính này cưới vợ xong là đi lính,
mỗi năm về phép hai lần, mỗi lần 7 ngày. Anh ở Long An. Những người như người
thanh niên Miền Nam này sau đó bị gán cho hai chữ ngụy quân. Không có gì vô lý
hơn việc này. Nếu không có chiến tranh mà người CS gây nên, anh ta đã có mười
năm hạnh phúc bên vợ con tại Long An. Anh ta có buôn bán gì với người Mỹ mà nói
đến chuyện bán nước ?? Nói đi nói lại chỉ để nói lên một sự thực là đảng Công Sản
phải chịu trách nhiêm về những đau đớn hy sinh của thế hệ này, trong Nam cũng
như ngoài Bắc.
Sau khi cuộc
chiến chấm dứt một cách tức tưởi dưới súng đạn mà Tầu Công cung cấp để người Việt
Nam chém giết nhau dẫn đến cuộc Bắc Thuộc hiện nay mà nguy cơ mất nước lên cao
độ hơn bất cứ thời đại nào, TXD còn phải chia sẻ với những người thanh niên Miền
Nam thuộc thế hệ anh 3 kiếp nạn khủng khiếp nữa là Học Tập Cải Tạo, Vượt Biên
và làm lại cuộc đời nơi xứ người (Úc).
Học tập cải tạo của bọn Việt
Cộng thưc ra chỉ là một loại ngục tù giống như Quần Đảo Goulag bên Nga mà
Soljenitsyne đã mô tả, trong đó bọn cai tù dùng những biện pháp khủng bố về vật
chất và tinh thần để triệt tiêu ý chí người tù, sao cho đối với họ, chỉ còn miếng
ăn là quan trọng. Không còn chống đối, không còn ý chí, không còn danh dự, không còn nhân phẩm.
Thời gian ở tù dài hay ngắn, người đi cải tạo hoàn toàn không biết. Trong đêm tối,
họ dùng phương pháp chuyển trại, kẻ đi không biết tại sao mình đi, kẻ ờ lại
không biết tại sao mình phải ở lại, từ đó phát sinh ra những lời bàn bạc, phỏng
đoán vu vơ, chủ yếu gây sự hoang mang, và người tù sống trong một không khí
kinh hoàng, tuyệt vọng, đến nỗi nhiều người phải đi đến chỗ tự tử, vì họ không
chịu được sư tra tấn về tinh thần này. Nếu không tự tử, thì sự thiếu dinh dưỡng,
bệnh tật cũng tàn phá thân thể người tù. Đó là chỉ tiêu, là mục đích của cái gọi
là học tập cải tạo. Hãy xem TXD tả lại quang cảnh trong trại học tập:
Mỗi sáng, để chối bỏ tình trạng
xuống dốc của cơ thể, anh em ráng tập đi bộ quanh những căn nhà….Nhìn họ, tôi
biết họ đang lâm vào một chứng bệnh thuộc về thần kinh tâm lý. đó là chứng bệnh
khước từ hiện trạng, chối bỏ sự thật, tiếng Anh Denial .
Và cái đêm kinh hoàng anh bị
chuyển trại :
Vài tháng sau,
đến lượt tôi bị gọi tên. Gói ghém vật dụng, lên xe Molotova. Khuya đến, đoàn xe
chuyển bánh. Xe không có mui, không có ghế. Cả người lẫn hành lý chồng chất lên
nhau. Xe chạy suốt đêm. Lệnh cai tù là tiêu tiểu tại chỗ. BS Chi, thuộc bộ
binh, vãi cứt đái ra quần. Gió bạt hơi thối, lúc hương này, lúc hương khác.
Tất cả bài bản học tập cải tạo
này, thực ra Việt Công học từ bọn Nga, mà tác giả của nó là những chuyên viên
tâm lý lỗi lạc. Chúng ta đã nghe nói về những trại giam vùng Tây Bá Lợi Á bên
Nga, không phải chỉ là tàn bạo đâu, có nghiên cứu, có bài bản khoa học hẳn hoi.
Nếu cuộc sống trong trại cải
tạo đen tối, thì cuộc sống bên ngoài cũng không hơn gì. Người dân Miền Nam đã
được hưởng tư do trong khoảng hai chục năm, dưới thời Cộng Hòa I, rồi Cộng Hoà
II, khác với người Miền Bắc, họ không chịu nổi cái chế độ hà khắc là chế độ Cộng
Sản, với sự quản trị cái bao tử của người dân, và những đợt dánh tư sản, đổ tiền
làm họ khánh kiệt.
Thời gian này là thời gian họ
tổ chức những chuyến tầu vượt biên, nhất quyết rời bỏ Việt Nam, là quê hương họ,
không luyến tiếc, chấp nhận những rủi ro, chết chìm tại biển đông, hay chết vì
hải tặc. Nếu cái cột đèn Miền Nam có chân, chúng cũng bỏ đi. Mấy chục năm sau,
hiện nay, năm 2018, ra ngoại quốc vẫn là giấc mơ của người Việt Nam. Tại sao
như vậy, nếu không là việc lòng dân đã quá chán ghét Cộng Sản. Giấc mơ rời bỏ
Việt Nam dù có hấp dẫn đến thế nào chăng nữa cũng không phải là dể thực hiện. Phải có phương tiện, có tiền và nhất là phải
có sự may mắn nũa.
Giỏi giang
cách mấy cũng không thoát khỏi cái số phân con người, cái phước, cái đức mà tổ
tiên để lại cho con cháu, Trần Xuân Dũng đã được hưởng cái phước đó và đã đem
được gia đình sang Úc. Xem những trang giấy anh viết về quãng đời này của anh,
không thể không có cảm nghĩ là anh này có phước quá. Cuộc đời của anh coi như
99% tàn tạ, chỉ có 1% may mắn thoát, vậy mà anh có được cái 1% đó, không hiểu tại
sao.
Trần Văn Thủy, một đạo diễn
Miền Bắc viết trong tác phẩm của ông Nếu Đi Hết Biển đại khái :
Nếu đi hết biển
qua Các Đại Dưong, Châu Lục, đi mãi, đi mãi, thì sau cùng cũng lại trở về với
quê mình, làng mình.
Ý của ông này là tình Quê
Hương trong một con người mãnh liệt và không gì có thể tiêu diệt được tình cảm
này. Trần Văn Thủy đã lầm. Người ta yêu quê
hương nhưng khi quê hương ấy nằm trong tay những kẻ trời không dung, đất không
tha như bọn Việt Cộng, thì thà Sống Chẳng Còn Quê như Trần Xuân Dũng còn hơn.
Hãy nghe lời tâm sự của tác
giả :
Lúc nào tôi cũng
khắc khoải về nước Việt Nam đã mất.
Và bài thơ này của thi sỹ :
Nghe chó sủa
khuya, thấy não nề
Nhắc đời đất
khách kéo lê thê.
Ta vì thảm họa
Miền Nam mất.
Sống chẳng còn
quê, thác chẳng về
Tôi đã đọc say mê liền một
lèo trong một đêm mùa đông năm 2018 tại nơi tôi ở là thành phố Montréal, kho
tuyết rơi, và ngoài trời giá lạnh, tập hồi ký của người bạn đồng môn. Gấp cuốn
sách lại, tôi trầm ngâm suy nghĩ . Ái nữ của tác giả, cô Chim Khuyên viết trong
trang cuối cuốn sách :
Tôi coi nước
Úc là nhà, nhưng tôi biết rằng bố mẹ tôi lúc nào cũng vẫn cảm thấy như ở ngoại
quốc.
Tôi biết rằng cũng như tôi,
Trần Xuân Dũng lúc nào cũng vẫn thiết tha với Việt Nam, nhưng không về Việt Nam
nếu vẫn còn Việt Công.
Lời kết của bài viết này, đã
khá dài, là tôi xin nhắn các nhà đạo diễn điện ảnh Việt Nam, trong và ngoài nước
: Nếu các bạn muốn tìm một tác phẩm để thực hiện một cuốn phim ngang hàng với
Guerre et Paix, Autant en emporte le Vent, Docteur Jivago, thì xin hãy đọc Sống
Chẳng Còn Quê của Bác Sỹ Trần Xuân Dũng theo địa chỉ trên Internet:
txdung399.blogspot.com.
Trân trọng.
Trần Mộng Lâm
No comments:
Post a Comment