Sunday, March 31, 2019


Một người thầy

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019
Tản mạn về một người thầy

Tôi vẫn thường nói đùa, Giáo sư Bùi Dương Chi là một trong những người Việt tỵ nạn đến Hoa Kỳ sớm nhất. Chính xác là vào năm 1974, một năm trước ngày “định mệnh” khi Miền Nam… “đổi chủ”.

Sớm là vì ông rời Việt Nam để nhận học bổng của Đại học Boston, Massachusetts, môn Cao học Giáo dục khi Sài Gòn vẫn còn chìm đắm trong lửa đạn chiến tranh. Đến khi tốt nghiệp, ông không thể về nước và đã trở thành người tỵ nạn “bất đắc dĩ” để bắt đầu cuộc sống mới nơi đất khách.


GS Bùi Dương Chi tại Sài Gòn, 2015

Âu đó cũng là một “duyên may” khi tôi được học Anh văn với GS Chi năm lớp Đệ Tam và Đệ Nhị tại trường Trung học Ban Mê Thuột. Phải nói, cuối thập niên 60 Anh văn là một môn học đã thu hút sự chú ý của học sinh khi cuộc chiến tại Miền Nam bắt đầu “leo thang” với sự hiện diện của Hoa Kỳ và các nước đồng minh khác.

Thầy và trò chỉ hơn nhau 7 tuổi nhưng quả thật GS Chi đã “thổi” vào đầu óc học trò tỉnh nhỏ chúng tôi “một luồng gió mới” về môn Anh văn, nhưng quan trọng hơn cả là những suy nghĩ về cuộc sống. Đó là điều đọng lại sâu đậm nhất dù chỉ hai năm ngắn ngủi nhưng tràn đầy kỷ niệm của tuổi học trò.

Anh văn hồi tôi còn đi học chỉ là môn sinh ngữ phụ, sau tiếng Pháp. Ấy thế mà chỉ trong 2 năm mọi chuyện đã thay đổi, nó trở thành sinh ngữ chính lúc nào không biết. Thầy Chi có một phương pháp dạy học rất mới, ông kết hợp sách giáo khoa với âm nhạc, văn chương và cả với các hoạt động ngoài lớp học.

Ông dạy chúng tôi những bài thuộc loại dân ca Hoa Kỳ như “Five hundred miles” (1), những truyện ngắn nổi tiếng như của O’Henry, “The gift of the magi”, và thiết thực hơn nữa, ông tổ chức xây thư viện trong sân trường. Học sinh tự làm gạch rồi tự xây một thư viện “bỏ túi” để vào ngồi đọc sách! 


Thầy Chi và Thư viện trường Trung học Ban Mê Thuột

Rồi thời gian qua đi, thầy trò gặp lại nhau khi GS Chi về Sài Gòn để làm thủ tục du học năm 1974. Khi đó tôi đã là giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội và hai thầy trò lên An ninh Quân đội (Số 4 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) để tôi đứng ra bảo lãnh cho thầy đi Mỹ du học theo luật định hồi đó!

Cả hai thầy trò đều không ngờ đó là lần cuối của thầy tại Việt Nam, rõ hơn là dưới chính thể VNCH. Cuộc đời của một giáo sư Anh văn đã bước sang một trang mới, tôi gọi đó là “đời tỵ nạn”, khác hẳn với đời của một giáo chức ngày xưa.

Qua những hồi ức mang tên “Tôi du học”, chúng ta hiểu được phần nào cuộc sống của người tỵ nạn những ngày đầu sau biến cố 30/04/1975. Thầy Chi viết:

“Tốt nghiệp NK [niên khóa] 1975-1976 tôi theo lời khuyên của thân nhân xuống tiểu bang Virginia kiếm việc vì nơi đây đang tuyển dụng giáo viên dậy tiếng Anh cho học sinh nhập cư. Nộp đơn và tờ khai quá trình dậy học mới mấy ngày là tôi đã nhận được thư nhanh mời đến Phòng Nhân Viên để Tiểu Ban Tuyển Dụng phỏng vấn”.

Thầy Chi đã được tuyển dụng làm giáo viên tiếng Anh, là “ngôn ngữ thứ hai” (ESL – English as a Second Language), kiêm tư vấn cho Ủy ban vì sĩ số Trung-Tiểu học và Mẫu giáo tại Fairfax khi đó đã lên tới khoảng 188.000 học sinh với gần 1/3 có tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh.

Thầy được xếp vào bậc lương “Step 5”, bậc cao nhất dành cho những người ngoài tiểu bang đến dậy với kinh nghiệm trên 5 năm. Trước khi nhận việc, thầy Chi được thuyết trình rất kỹ về nền giáo dục Hoa Kỳ, chẳng hạn như nguyên tắc “Spare the rod, spoil the child” (Tha roi vọt là làm hư trẻ) hoàn toàn không được áp dụng tại Mỹ.

Giáo viên nào xúc phạm đến thân thể học sinh trong bất kỳ tình huống nào là vi phạm luật giáo dục và cả luật hình sự. Ông Giám đốc Nhân viên nhấn mạnh đó là nguyên tắc mà tất cả mọi giáo viên cũng như ban Giám hiệu phải tuân thủ triệt để tại Hoa Kỳ. Ông còn giải thích thêm, “In Rome do like the Romans” (Ở La Mã phải hành xử như người La Mã).

Điều khiến thầy Chi bối rối là vấn đề quốc tịch. Theo luật định, giáo viên phải có quốc tịch Mỹ nên nhà trường có lời khuyên ông nên đến Sở di trú nộp đơn nhập quốc tịch càng sớm càng tốt. Ông rất khó xử vì không có ý định bỏ quốc tịch Việt Nam. Thấy vậy, ông Giám đốc khuyên thầy nên suy nghĩ kỹ về vấn đề này sau niên học đầu tiên.


"Tôi du học" - Bùi Dương Chi

Đang từ một nền giáo dục của VNCH với 3 nguyên tắc "Nhân bản - Dân tộc - Khai phóng" thầy Chi được tiếp xúc với một lý thuyết mới lạ của Hoa Kỳ, trong đó vai trò của thầy và trò được xác định qua phương châm: “Đừng đi đằng trước tôi, tôi không theo đuôi; đừng đi đằng sau tôi, tôi không dẫn lối; hãy đi bên cạnh tôi và làm bạn của tôi” (2). Ông viết:

“Ở Mỹ, trong một niên khóa, học sinh thường học từ 190 đến 200 ngày… Học sinh nhà nghèo được mượn sách và ăn trưa miễn phí. Vì quận Fairfax rất khá giả [về ngân sách] nên nhiều em còn được ăn điểm tâm dù cha mẹ không phải là công dân Mỹ.

“Tiết 2 thường gọi là “Homeroom”. Tất cả các học sinh cùng lớp phải về phòng của giáo viên hướng dẫn (chủ nhiệm) để điểm danh, chào cờ, nghe thông cáo, thảo luận sinh hoạt hiệu đoàn (ngoại khóa), v.v…

“Trừ tiết “Homeroom”, tiết thể dục và tiết ăn trưa, học sinh thường học 4 tiết mỗi ngày, tùy theo trình độ và các môn đã chọn được ghi trong thời khóa biểu cá nhân để đi đến phòng học… 

(hết trích)

Một đặc điểm của nền giáo dục trung học Hoa Kỳ là chương trình “G & T” (Gifted & Talented - Thiên phú & Tài năng). Những em dù điểm trung bình thấp vẫn có thể được chọn vào nhóm này miễn là có lý luận sắc bén, có ý kiến khác người hoặc thậm chí có óc tưởng tượng phong phú.

Theo GS Chi, nhờ những chương trình tìm kiếm và đào tạo nhân tài như vậy mà Hoa Kỳ luôn giữ ngôi vị hàng đầu trong các lãnh vực khoa học, nghệ thuật, kinh tế, quân sự…


“School bus” chở học sinh đến trường và về nhà

Cuối niên khóa 1981-1982 Khu học chính Fairfax lại gửi văn thư nhắc về việc nhập quốc tịch Mỹ. Thầy Chi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Ông cho rằng giáo viên dạy trung và tiểu học ở Mỹ khác hẳn với công việc của một giáo sư dạy trung học tại Việt Nam mà ông đã trải qua. 

Khi còn dạy Đệ nhị cấp tại Ban Mê Thuột ông chỉ dạy có 12 tiếng mỗi tuần và được trả lương phụ trội nếu dậy thêm giờ. Ở Mỹ, ông làm việc 8 tiếng mỗi ngày, kể cả công việc chăm lo cho học sinh tại căng-tin!

Cuối cùng, thầy Chi tạm xếp bút nghiên để hành nghề lao động tự do! Ông chọn nghề thợ sơn và sửa chữa lặt vặt sau khi đã nghiên cứu sách vở và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước.

Để quảng cáo, ông nhờ người quen thiết kế “tờ rơi” (flyer), in thành 1.000 bản rồi đem bỏ vào thùng thư hoặc gài vào khe cửa từng nhà khắp vùng Tây Bắc Washington thay vì quảng cáo trên các phương tiện truyền thông rất tốn kém.


Tờ rơi quảng cáo dịch vụ sơn sửa nhà cửa

Chờ đợi hơn một tháng mà chẳng thấy một người khách nào gọi điện thoại đến! Ông bắt đầu nao núng với số tiền đã bỏ ra mua dụng cụ, tiền trả góp xe pick-up để chuyên chở đồ đạc. Tức cảnh ông làm thơ than thở:

“Chờ hoài khách không gọi,
Quanh quẩn đếm ngày qua,
Khoan, kìm, cưa, búa… rỉ
Bạc đầu ai biết ta?” 


Đầu tư cho một nghề mới

Thế rồi khách hàng đầu tiên cũng xuất hiện. Ông kể lại lần “mở hàng” trong “Tôi du học”:

“Tổ sơn mộc chắc thấu tình nên ít lâu sau đó có một bà gọi điện thoại hỏi tôi nhận sơn sửa lặt vặt không? Mừng quá tôi thưa: “no job is too small” nhưng giả bộ bận việc, tôi gồng mình nói tuần tới mới có thể ghé qua xem việc được. Rất may bà chịu chờ. Tới ngày hẹn, tôi mặc một bộ quần áo bạc mầu, khuỷu tay và đầu gối vá thêm vải lót, lái xe tới đậu gần nhà bà, căn y chang giờ giấc rồi cầm sổ tay bước lên thềm nhấn chuông.

“Chờ một hồi vừa nghe tiếng chó con sủa thì một bà đứng tuổi mở cửa ra gặp. Bà xin lỗi vì mắc bận điện thoại đường dài. Tôi tươi tỉnh chào và xin xem nơi cần sơn sửa. Bà dẫn ra nhà để 2 xe (2-car garage) bảo tôi con bà sắp vào Đại học nên đã đến lúc gỡ bỏ khu bóng rổ, trám xi măng các lỗ xoắn, thay mấy khung kính bị rạn nứt phía trên cửa và sơn 3 mặt ngoài của garage ăn thông với nhà bếp.

“Chăm chú ghi chép xong, tôi ra giá. Bà bằng lòng. Tôi cám ơn và một lần nữa lại giả bộ bận bịu nên nói để tôi xem lại lịch làm việc rồi sẽ bắt đầu.

(hết trích)

Sau mấy ngày lao động cật lực, kể cả việc quét dọn sạch sẽ “hiện trường” và trừ đi tiền mua vật liệu… tiền công ông kiếm được trong “phi vụ” đầu tiên bằng cỡ ¼ lương tháng của một giáo viên!

Với chủ trương “lấy công làm lời” của một “tay ngang”, thầy Chi đã bắt đầu một cuộc sống lao động chân tay, khác hẳn với những ngày lao động trí óc trước đó. Vị khách hàng đầu tiên rất hài lòng với công việc thầy Chi đã làm và từ đó giới thiệu với bạn bè có nhu cầu sửa chữa.

Dần dà, qua những lời giới thiệu truyền miệng (words of mouth), những tháng sau đó thầy Chi đã có từ một đến hai khách hàng. Người xưa đã nói “năng nhặt chặt bị” quả là không sai!

Đây cũng là dịp tốt để ông tiếp xúc với giới tinh hoa của khu phố cổ Georgetown tại thủ đô Washington. Khu này rất nổi tiếng vì là nơi sinh sống của những nhân vật thành đạt trong giới hàn lâm, chính khách và doanh nhân.

Thầy Chi dần dần phát triển dịch vụ sơn sửa nhà cửa với một ông anh ruột, một người bạn cũ là cựu giáo sư ngày xưa cùng dậy học trên Ban Mê Thuột… rồi lại còn thêm 3 anh em ruột thuộc loại “thợ gì cũng làm” khi mới vượt biên sang Hoa Kỳ.

Có thể nhờ vào nhân cách của cả tốp thợ tay ngang nên khách hàng, những người cần sự an toàn và riêng tư, rất tin tưởng khi giao phó công việc sửa sang nhà cửa.

Thầy Chi còn giữ được thư cám ơn của một viên chức Quỹ Dự trữ Tiền tệ Liên bang. Âu đó cũng là một phần thưởng tinh thần dành cho những người Việt chân chính tại đất Mỹ, bất kể đó là lao động trí óc hay lao động chân tay.


Thư cám ơn của một khách hàng

Chuyện “Tôi du học” của GS Chi là như vậy. Tuy nhiên tôi lại nghĩ, nên đặt tên cho chuyện này là chuyện của những người di tản thời kỳ đầu tiên trên đất Mỹ để chúng ta có thể biết chi tiết hơn về cuộc sống của những người tha hương… “bất đắc dĩ”!

***

Chú thích:

(1) Bản nhạc “Five hundred miles” có kèm lời ca với hơn 6 triệu người vào nghe:

(2) “Don’t walk in front of me, I will not follow; don’t walk behind me, I will not lead; walk beside me and be my friend”.


***

Tham khảo thêm:

* “Tình nghĩa thầy trò”
chinhhoiuc.blogspot.com/2014/07/tinh-nghia-thay-tro.html

* “Qùa Giáng Sinh” (The Gift of the Magi)
chinhhoiuc.blogspot.com/2017/12/qua-giang-sinh.html

***

Saturday, March 30, 2019


Nhiếp ảnh trên lá cây

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014
Binh Danh & nhiếp ảnh trên lá cây

Nhiếp ảnh là việc tạo ra hình ảnh bằng tác động của ánh sáng với phim hoặc thiết bị nhạy sáng được thực hiện bằng các phương tiện cơ học, hóa học, hay kỹ thuật số thường được gọi là máy ảnh.

Ảnh cố định đầu tiên được chụp năm 1826 bởi Joseph Nicéphore Niépce bằng một máy ảnh hộp gỗ do Charles và Vincent Chevalier sáng chế tại Pháp. Niépce dựa trên khám phá của Johann Heinrich Schultz vào năm 1724 khi ông phát hiện hỗn hợp bạc và phấn bị đen lại khi gặp ánh sáng.

Các máy ảnh đầu tiên thường có thêm hộp trượt ra-vào để lấy độ nét. Mỗi lần thu hình, một tấm chất nhạy sáng được đặt vào chỗ màn ảnh ngắm. Quy trình “daguerreotype”, đặt theo tên của Jacques Daguerre, là dùng tấm đồng, còn quy trình “calotype”, do William Fox Talbot phát minh, thì thu hình lên tấm giấy.


Máy ảnh vào thế kỷ 19 có thân xếp để lấy nét

Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không nói đến những hình ảnh tạo ra từ máy ảnh cơ hay máy ảnh kỹ thuật số mà đề cập đến một hình thức mới lạ: “nhiếp ảnh trên lá cây” do một người Mỹ gốc Việt sáng tạo.

Nhiếp ảnh gia kiêm nghệ sĩ Binh Danh còn rất trẻ, anh chào đời tại Việt Nam ngày 9/10/1977. Gia đình Danh vượt biên năm 1979 và định cư tại Hoa Kỳ khi anh mới tròn 2 tuổi. Năm 2002 Danh tốt nghiệp San José State University với văn bằng Cử nhân Nghệ thuật (Bachelor of Fine Arts), chuyên ngành nhiếp ảnh.

Binh Danh cũng là một trong những nghệ sĩ trẻ nhất khi anh học tiếp chương trình Cao học Nghệ thuật (Master of Fine Arts) tại Stanford University khi mới 25 tuổi. Tại đây, anh chọn chủ đề nghiên cứu về “studio art”, tạm dịch là nghệ thuật phòng chụp hình.


Binh Danh

Rời khỏi Việt Nam lúc mới 2 tuổi, Danh có tham vọng muốn tìm hiểu về cuộc chiến tranh tại quê hương mà người Mỹ gọi là “Vietnam War” trong khi ở trong nước lại gọi là “Chiến tranh chống Mỹ”. Anh sưu tầm những hình ảnh về cuộc chiến và tái tạo chúng qua một kỹ thuật mới mà anh gọi là “chlorophyll print”, một hình thức in ảnh phối hợp với chất diệp lục sẵn có trên lá cây để có những tấm… "ảnh diệp lục".

Thay vì có những tấm hình in trên giấy, Danh chọn lá cây hoặc lá cỏ thích hợp ngay trong vườn nhà để in ảnh. Danh bắt đầu thử nghiệm sự kết hợp giữa nhiếp ảnh với quá trình quang hợp của lá cây: anh đặt tấm film âm bản lên lá cây, cố định chúng bằng những tấm kính, sau đó phơi chúng dưới ánh nắng mặt trời.

Anh gọi đó là "ảnh diệp lục" vì chất diệp lục của lá khi tiếp xúc với cường độ ánh sáng khác nhau sẽ chuyển thành những màu sắc khác nhau, tạo nên những chi tiết của ảnh ngay trên lá cây. Dĩ nhiên là những màu sắc kết hợp từ trạng thái diệp lục với ánh sáng mặt trời trên lá cây tạo ra một bức ảnh khác hẳn với ảnh nguyên thủy trên giấy và đó cũng là giá trị của “ảnh diệp lục”.

Tỷ lệ thành công của quá trình “ảnh diệp lục” khá thấp, khoảng 20%, nghĩa là cứ 5 tấm hình anh phơi thì chỉ một tấm thành công. Thời gian phơi có thể là vài ngày nhưng cũng có khi kéo dài hằng tuần vì lý do thời tiết. Mỗi chiếc lá sau khi được kết hợp thành công giữa nhiếp ảnh và sinh học sẽ được Binh Danh che phủ bằng nhựa thông (resin) và được đặt trong khung kính để bảo quản.

Có thể nói, Binh Danh là một nhà nhiếp ảnh không tác phẩm. Bộ sưu tập về cuộc chiến tại Việt Nam mang tựa đề “Immortality, The Remnants of the Vietnam and American War” gồm 11 tấm “ảnh diệp lục”, hay nói khác đi, 11 tấm ảnh đó là của các phóng viên chiến trường được Danh dùng để tái tạo trên lá cây. Hiểu theo một nghĩa khác, đó chính là tác phẩm của anh với sự góp sức của những người khác!

Chúng tôi trình bày 11 tác phẩm này theo thứ tự thời gian thực hiện. Năm 2000 chỉ có duy nhất một bức “ảnh diệp lục” trên nền lá dài theo chiều ngang, hình ảnh một toán binh sĩ Mỹ hành quân tại miền Nam Việt Nam. Chiếc lá nền đã ngả sang màu vàng úa và người xem thấy ngay hiệu ứng của những bóng ma thể hiện qua ảnh. Thế cho nên Binh Danh đặt tên bức này là “Drifting Soul”.


Drifting Soul (2000)

Năm 2005 có tất cả 6 bức được Binh Danh thực hiện. Người ta nhận ra ngay nhóm ảnh này được chia thành 2 chủ đề: (1) chiến tranh đối với những người cầm súng; và (2) hệ quả của nó đối với những thường dân.

Ở tấm hình nang tên “Battlefield” dưới đây có bóng dáng chiếc trực thăng trên lá và những người lính nổi lên giữa những đường gân lá đã ngả màu trên chiến trường.


Battlefield (2005)

“Barracked” là bức ảnh những người lính tìm sự an toàn giữa những bao cát vây quanh. Ngoài hai người lính Mỹ đội nón sắt xuất hiện ở tiền cảnh ta còn thấy một người nhỏ con, đội nón vải ngồi phía sau. Có thể đoán ngay đó là người Việt, thường là “trung sĩ thông dịch viên đồng hóa” được phân công đi theo các đơn vị của Hoa Kỳ.  


Barracked (2005)

Làm nền cho bức hình kế tiếp chỉ là một nửa chiếc lá. Từ trên sống lá là một chiếc B52 đang thả hàng loạt quả bom từ trên các tầng mây trắng xóa. Binh Danh đặt tên bức hình này là “Fire in the Sky”.


Fire in the Sky (2005)

Ở chùm ảnh thứ hai là những nạn nhân vô tội của chiến tranh. Trong bức ảnh “Combust”, những đường gân lá gợi cho người xem hình ảnh những tia sét đánh xuống thi thể người đàn ông nằm chết, trên mình chỉ còn độc chiếc quần đùi mầu đen sậm.


Combust (2005)

Hình kế tiếp là một người đàn bà ngồi ôm đứa con nhỏ, hy vọng cô bé vẫn còn sống vì một tay bám víu vai của mẹ. Người đàn bà có khuôn mặt hốt hoảng, miệng bà mở lớn có lẽ vì gào thét trong cảnh lửa đạn. Bức hình “Mother and Child” vừa sống động nhưng cũng vừa cảm động dù được thể hiện trên một chiếc lá có nhiều nếp gấp.


Mother and Child (2005)

“Part of War” là bức ảnh được Binh Danh tái hiện trên lá cây từ một tấm hình đăng trên Life của phóng viên ảnh Ronald L. Haeberle. Hình chụp thi thể nạn nhân của vụ thảm sát Mỹ Lai ngày 16/3/1968 và đã trở thành một trong những “vũ khí” hữu hiệu của những người phản chiến tại Hoa Kỳ.

Trong kho ảnh của tôi trên Flickr có tấm hình gây nhiều tranh cãi đó với gần 1.000 người xem (Xem hình tại: http://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/6101598008/in/set-72157607206524413). Và đây là bức ảnh của Ronald L. Haeberle qua kỹ thuật thể hiện trên lá cây của Binh Danh:


Part of War (2005)

Năm 2006 Danh còn thực hiện một tấm hình có liên quan đến những người dân thường trong cuộc chiến. Bức hình mang tên “Untitled” trên một chiếc lá hoàn chỉnh với đầy đủ cuống lá, gân lá. Ánh mắt của người đàn ông trong hình ngồi ôm một em bé nói lên thật nhiều điều và cũng trả lời thật nhiều câu hỏi tại sao lại có chiến tranh?


Untitled (2006)

Lá phong vốn rất cân đối về bố cục nên được Binh Danh chọn làm nền cho một bức hình mang tên Helicopter. Người ta thấy cả một phi đội trực thăng xuất hiện trên bầu trời màu lá úa. Theo tôi, đây là một trong những bức ảnh diệp lục thành công nhất của Danh.


Helicopter (2006)

Một bức hình thành công không kém “Helicopter” là “Ambush in the Leaf”, một cái tên vừa gợi ý gần lẫn ý xa. Trước mắt chúng ta thấy một bà mẹ và 2 đứa con ẩn mình qua chiếc lá nhiều cạnh, khuôn mặt của cả ba người dân quê lộ vẻ sợ hãi.

Họ sợ gì? Tôi nghĩ người mẹ đang cố tìm cách che chở những đứa con trước họng súng của một người lính. Chiến tranh là vậy, dù phần thắng nằm ở phe nào nhưng những người dân vô tội luôn nằm ở phía thua thiệt nhất.   


Ambush in the Leaf (2007)

Tác phẩm cuối cùng của bộ ảnh về chiến tranh tại Việt Nam được Danh thực hiện năm 2008. Cũng vẫn hình ảnh của những chiếc B52 và những quả bom được in trên một chiếc lá, trông tựa như lá sen, và được bố cục theo chiều thẳng đứng. Những cái bóng chập chờn trên lá tạo cảm giác như bóng dáng của tử thần ẩn hiện trên bầu trời có sức tiêu diệt mọi sinh vật trên mặt đất.


Shock & Awe (2008)

Sau chiến tranh Binh Danh đã trở về Việt Nam và sang nước lân cận Campuchia để chứng kiến dấu tích của một thời bom đạn. Tại Campuchia, anh đã đến trại tù S-21 dưới thời Khmer Đỏ của Pol Pot mà trước đó là một trường học. Gần 14.000 người gồm đủ mọi lứa tuổi đã bị hành quyết, đến năm 1979 nơi đây chỉ còn lại vài chục người sống sót. Binh Danh viết về chuyến đi Campuchia:

“Khi đến Bảo tàng Diệt chủng Tuol Sleng tôi mới hình dung được cảnh chết chóc… Hàng trăm chân dung những tù nhân đã bị giam giữ và thủ tiêu tại đây vẫn còn được lưu trữ, mỗi người đều mang một con số và con số đó theo họ cho đến lúc qua đời”.

Binh Danh chụp lại một số chân dung người Campuchia và khi về Mỹ anh thực hiện một bộ sưu tập 11 bức chân dung trên lá cây và trên cỏ mang chủ đề “Ancestral Altars” vào năm 2005. “Found Portrait # 24” là bức chân dung của một người đàn ông được thực hiện trên cỏ: 


Found Portrait # 24

“The Leaf Efffect: Study for Transmission # 13” là cả một nhành cây nhiều lá, mỗi chiếc lá mang chân dung của một phụ nữ, có tổng cộng 13 chiếc tượng trưng cho 13 số phận những người đã khuất.

Kỹ thuật thực hiện ảnh trên cành phức tạp hơn thực hiện trên lá vì phải sử dụng phim âm bản cho từng người. Như vậy, Binh Danh đã phải dùng tới 13 tấm phim cho 13 chiếc lá. Quả là một công trình đáng khâm phục.


The Leaf Efffect: Study for Transmission # 13

Mùa hè năm 2002, Binh Danh và mẹ về thăm lại hòn đảo Pulau Bidong, Malaysia, nơi gia đình anh đặt chân đến sau khi rời Việt Nam vào năm 1979. Danh kể lại:

“Chúng tôi chụp hình và có cơ hội thu thập được nhiều giấy còn sót lại tại những căn nhà trống vắng. Giấy tờ bao gồm thư từ và hồ sơ của chính phủ Mã Lai… hầu hết đã bị mối mọt ăn hoặc bị xuyên thủng bởi cây cỏ mọc chen. Giấy tờ vẫn còn hiện diện rải rác ở đâu đó sau hơn một thập kỷ…”


Letters from Pulau Bidong Island (2003)


Letters from Pulau Bidong Island (2003)

Binh Danh còn có một bộ sưu tập chân dung những người lính Mỹ đã bỏ mình trên chiến trường Việt Nam dựa theo một trang báo của tạp chí Life năm 1969 mang tựa đề “One Week’s Dead”. Bài báo đưa tin và ảnh của 242 thanh niên Mỹ đã tử trận chỉ trong trong vòng một tuần lễ, tựa như một trang kỷ yếu (year-book) của học sinh trung học nhưng chỉ toàn là di ảnh của người chết.

14 bức chân dung được in trên lá cỏ theo chiều ngang hoặc chiều dọc. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngưỡng những bức chân dung người chết tại một thảm cỏ trong nghĩa trang tĩnh lặng…


Dead Son # 1


Dead Son # 2

Bằng lối sáng tạo hình ảnh trên lá và cỏ, Binh Danh đã tái tạo nên lịch sử. Kỹ thuật nhiếp ảnh mới lạ của anh đã để lại một dấu ấn đậm nét của quá khứ, một quá khứ nhiều người muốn quên đi nhưng cũng có nhiều người muốn giữ lại. Dù cố quên hay cố nhớ, người ta không khỏi khâm phục tính sáng tạo của anh qua những bức ảnh lá cây.

Về phần mình, Binh Danh cho biết anh tự coi mình chỉ là người thợ gốm sứ chứ không phải là nhà nhiếp ảnh đúng nghĩa của nó. Tác phẩm do anh “nhào nặn” quả thật đã để lại cho người xem nhiều suy nghĩ.


Binh Danh

***

Bình luận trên FB:




***
4 nhận xét:

Phuoc Le04:43 10 tháng 3, 2014
Tấm "Fire in the sky" là hình chiếc F-4 Phantom chứ đâu phải B.52,tấm "Shock&Awe" là hình những chiếc máy bay Mig của Nga.Bạn có nhầm không ?

Trả lời
Trả lời

Ngoc Chinh Nguyen05:49 10 tháng 3, 2014
Tôi đã chỉnh lại theo gợi ý của bạn: hình "Fire in the Sky" tôi đã thêm (?) sau máy bay B52 còn tấm "Shock & Awe" B52 được thay bằng "máy bay". Quả thật về máy bay tôi không rành cho lắm,, xin cám ơn bạn về những góp ý.

Trả lời

Duong Man01:33 11 tháng 3, 2014
Rất đôc đáo một trường phái mới trong nghệ thuật nhiếp ảnh

Trả lời

PHUOCVINH22:54 19 tháng 12, 2015
Quá xúát sắc và độc đáo anh ấy đả tạo một ấn tượng mới cho nghành nhiếp ảnh

Trả lời