Sự ra đời của bài hát “Thuyền Viễn Xứ"
Bài hát “Thuyền Viễn Xứ"
Posted on January 12, 2019 by dongsongcu
Sư ra đời của bài hát “Thuyền Viễn Xứ” cùng với những hình ảnh sống động của
Sài Gòn xưa và nhạc phẩm Thuyền Viễn Xứ của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ thơ Huyền
Chi, ca sĩ Lệ Thu trình bày.
Sài Gòn Xưa
HUYỀN CHI – TÁC GIẢ BÍ ẨN CỦA CA TỪ THUYỀN VIỄN XỨ
Huyền Chi là ai? Ít thông tin trên mạng cho biết cô là một cô gái phụ mẹ
bán vải ở chợ Bến Thành. Cơ duyên nào khiến bài thơ của cô được nhạc sĩ danh tiếng
Phạm Duy phổ nhạc, vào đầu năm 2019 mới đây, tôi có xem được những tấm ảnh của
Huyền Chi và biết thêm nhiều thông tin về cô, trong ảnh, Huyền Chi là một cô
gái có nét đẹp của một diễn viên điện ảnh với dáng cao, cân đối và trắng trẻo, cô
gái ấy sinh ra ở vùng Tân Định, Sài Gòn, có lúc ra định cư tại Phan Thiết rồi
quay về sống ở thành phố này tới nay.
Cô học tiếng Anh từ trước năm 1954 khi tiếng Pháp là ngoại ngữ phổ biến,
đang được học hằng ngày ở các trường Tây tại Sài Gòn, cô làm thơ khi còn rất trẻ,
ra tập thơ duy nhất năm 18 tuổi rồi để thất lạc, cô có một bài thơ được phổ
thành ca khúc Thuyền viễn xứ của nhạc sĩ Phạm Duy dù chỉ gặp ông lần duy nhất
trong đời.
Bài thơ buồn của cô gái trẻ
Tôi gặp bà Hồ Thị Ngọc Bút tại quận 2, trước giờ bà dạy tiếng Anh tại nhà
và không thể nghĩ rằng bà đã 85 tuổi, trước mặt tôi là một phụ nữ trắng trẻo,
vóc dáng cao, khỏe mạnh.
Bà Ngọc Bút chính là nhà thơ Huyền Chi của những năm đầu thập niên 1950, đầu
thập niên 1930 có một kỹ sư Hỏa xa (Ingénieur technique adjoint) tên là Hồ Văn
Ánh, từng được đào tạo tại Pháp trong những khóa đầu tiên cho thuộc địa, năm
1940, ông làm giám đốc Hỏa xa các tỉnh Phan Thiết, Phan Rang và Nha Trang, có
ngôi nhà riêng hai tầng khang trang ở Phan Thiết, một “wagon” riêng trên tàu hỏa
đặc biệt cho gia đình tùy nghi sử dụng miễn phí.
Công việc của ông là tổ chức, đào tạo, kiểm soát và duy trì hệ thống Hỏa xa
toàn quốc. Vì công việc, ông di chuyển và ở lại nhiều thành phố nên vợ ông lần
lượt sinh sáu người con ở các nơi trên đường công tác, con gái út Ngọc Bút được
sinh ra tại Sài Gòn khi ông làm việc tại đây, khi ông đến Phan Thiết, Ngọc Bút
được đi học tại Trường nữ tiểu học Phan Thiết, cuộc sống đang êm đềm thì biến cố
xảy ra, bà nội của cô ở quê nhà Bắc Ninh bệnh nặng. Đáng lẽ cả gia đình đều phải
về, nhưng trong nhà có một người con cũng đang bị bệnh nên chỉ có ba cô và hai
anh chị cô về Bắc trước.
Dự tính khi con bớt bệnh, mẹ cô sẽ dẫn tất cả về luôn, không ngờ đó là lần
cuối cùng cô gặp cha, rồi do bom đạn, loạn lạc, tản cư và cuối cùng là cuộc
chia đôi đất nước khiến gia đình cô phân cách vĩnh viễn, mẹ cô mở sạp bán vải tại
cửa Nam chợ Bến Thành để sinh sống, cô ở với mẹ, vừa đi làm vừa đi học, vừa dọn
hàng giúp mẹ, trong thời gian hai miền Bắc – Nam được tự do thông thương năm
1954, mẹ đã trở về Bắc với cha cô, nhưng bốn người con vẫn ở lại miền Nam vì
lúc ấy ai cũng đã có công ăn việc làm và cô cũng sắp kết hôn.
Những năm tuổi nhỏ được theo cha mẹ về thăm quê mỗi năm và đi đây đi đó, Ngọc
Bút có nhiều cảm xúc về quê hương xứ Bắc, hơn nữa, sự phân ly, chia cắt gia
đình quá sớm khi còn bé đã để lại một ấn tượng sâu trong lòng cô, vì vậy cô đã
tưởng tượng ra một cuộc chia ly trên quê hương trước khi nó biến thành sự thật.
Đó là lý do ra đời của bài thơ Thuyền viễn xứ.
Nhiều người hỏi: “Vì sao cô còn trẻ mà làm thơ buồn thế?”, cô trả lời: “Tôi
tưởng tượng thôi mà!”. Nhưng thật ra nỗi đau âm ỉ trong lòng cô trong nhiều năm
đã tạo nên những vần thơ ấy.
Huyền Chi, cô ở đâu?
Năm 1952, Ngọc Bút đến nhà in báo Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, quận
Nhứt xem tập thơ vừa in xong của mình, tập thơ mang tên Cởi mở, gom lại 22 bài
thơ do cô viết từ năm 16 tuổi, lúc đó tuy mới 18, cô đã tham gia biên tập thơ
cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương và gia nhập nhóm thơ – văn – nhạc lấy
tên là Chim Việt, những bài thơ trong tập đã được đăng rải rác trên một số báo,
cô dùng bút danh Khánh Ngọc, rồi sau đó là Huyền Chi, buổi đó, nhạc sĩ Phạm Duy
vừa đến và được bà Đào, chủ nhà in, giới thiệu về cô. Phạm Duy khi ấy còn trẻ,
mới 32 tuổi nhưng đã nổi tiếng.
Ông vừa đưa gia đình vào Nam và đang thu xếp cuộc sống ổn định ở quê hương
mới cho gia đình. Biết cô vừa in xong tập thơ, ông mượn xem và xin cô một tập để
nếu có bài nào hay thì xin được phổ thành ca khúc, một thời gian sau, cô nghe được
ca khúc Thuyền viễn xứ do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ lục bát của cô trên
sóng phát thanh và thấy ca khúc này được in thành tờ nhạc khổ lớn rất thịnh
hành lúc đó của hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu.
Trên bìa hai ấn phẩm này ghi rõ: Nhạc: Phạm Duy, ý thơ: Huyền Chi.
Đó là khoảng thời gian cô vừa lập gia đình với ông Trần Phụng Tường, giáo
sư trung học, cô rời khỏi công việc biên tập thơ, theo chồng về Phan Thiết, cô
hầu như không tiếp tục làm thơ, lo toan làm ăn, mở hiệu sách, dạy tiếng Anh và
chăm sóc tới bảy người con, có lần trong tờ giấy in ca khúc Thuyền viễn xứ, cô
thấy lời nhắn của nhạc sĩ Phạm Duy: “Huyền Chi, cô ở đâu, thỉnh thoảng, cô vẫn
nghe trên sóng phát thanh giọng hát Lệ Thu, cô nhận thấy nhạc sĩ Phạm Duy rất
tài tình, dùng ý bài thơ lục bát với nhịp điệu chậm rãi, đều đặn của cô viết
thành một ca khúc đầy cảm xúc, ông chắt lọc ngôn ngữ trong thơ, thêm thắt và tạo
nên một tác phẩm âm nhạc hoàn hảo.
Năm 1975, bà Ngọc Bút cùng gia đình về lại Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn của
bà và sống ở đây đến nay, phu quân của bà đã tạ thế năm 2010 sau mười năm nằm một
chỗ vì bệnh, trong khoảng thời gian này, bà được tin nhắn mong có cuộc gặp của
nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông hồi hương về Việt Nam, nhưng bà xin từ chối vì bận
chăm sóc chồng, sau đó, bà có nhận được khoản tiền tác quyền từ lời của ca khúc
Thuyền viễn xứ từ nơi sở hữu tác quyền ca khúc này.
Đọc lại bài thơ Thuyền viễn xứ của bà Ngọc Bút, thấy thơ của một cô gái mới
16, 17 tuổi đã rất đằm sâu và mênh mang với giọng điệu và ngôn ngữ phóng khoáng
“…Có thuyền viễn xứ Đà Giang / Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa / Hò ơi! Câu
hát ngàn xưa / Ngân lên trong một chiều mưa xứ người / Đường về cố lý xa xôi /
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang / Sau mùa mưa gió phũ phàng / Bến sông
quay lại, hướng làng nẻo xa / Lệ nhòa như nước sông Đà / Mái đầu sương tuyết
lòng già mong con…”., gặp tài năng của nhạc sĩ Phạm Duy, lời trong ca khúc mang
sắc thái khác: “Chiều nay sương khói lên khơi. Thùy dương rũ bến tơi bời. Làn
mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người. Thuyền ơi, viễn xứ
xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu. Suối nguồn xa
vắng, chiều mưa ngàn về…”.
Như một sự đồng điệu đồng cảm của người phổ nhạc, có thể vì Phạm Duy cũng
là một người xa xứ, khi đọc được bài thơ cũng là lúc ông vừa giã từ quê hương
miền Bắc để trở thành cư dân của Sài Gòn, nơi ông có thời hoạt động âm nhạc sôi
nổi nhất và sau mấy mươi năm cho đến nay, ca khúc này rất gắn bó với người Việt
hải ngoại, họ thấy mình trong đó, như vẫn đang đi trên con thuyền viễn xứ.
Nguyên tác bài thơ Thuyền Viễn Xứ của Huyền Chi
“Ra khơi sương khói một chiều
Thuỳ dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhoà như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…”
Xin cám ơn bài viết của anh Phạm Công Luận và cảm ơn bác Nguyên My về thước
phim quý giá này.
(Trích từ “Chuyện Đời Của Phố)
============
Liên kết Trang web : https://saigonxua.org/
Liên kết Facebook : https://www.facebook.com/oldsaigon75
No comments:
Post a Comment