Cô giáo ‘Ngụy’
Posted on December 20, 2018
by dongsongcu
Thần Long
Học sinh Trường Trung Học
Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173 Không Vận
Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (Hình: Flickr manhhai)
“…Tôi đã thấy điều đẹp đẽ
trong một xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi
đã mù quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở
nên một bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này…”
Một đứa học trò la lớn. Bọn
con trai, mấy đứa con trai đang quây quần ở cuối lớp chơi trò “dích” hình, đứa
nào đứa nấy vội vã thâu tóm lại mấy tấm hình màu bằng bìa cứng có in hình sặc sỡ.
Bọn con gái đang tụm ba tụm bảy nói chuyện nô đùa cũng vội vàng quay về chỗ cũ.
Cô giáo Mai lễ mễ ôm phần
chia nhu yếu phẩm của cô tháng này, gồm mấy trăm gram thịt, mấy trăm gram đường
bước vào lớp. Cô bước vào lớp, tất cả học sinh đứng lên chào. Sau khi để gói thịt,
gói đường cẩn thận vào trong giỏ. Cô mỉm cười:
-Cô cho các trò ngồi xuống.
Các trò làm chi ồn rứa bộ định làm loạn giống…
Mai định nói làm loạn giống
“Việt Cộng” như thói quen cô vẫn nói khi la rầy học trò trước kia, nhưng cô
ngưng lại kịp. Sau khi nghe em lớp trưởng điểm danh, cô bắt đầu khảo bài. Học
trò của cô phần nhiều thuộc những gia đình mà chính quyền mới gọi là thành phần
có nợ máu với nhân dân hoặc có vấn đề với “cách mạng.” Hầu hết cha của các em
đang bị cầm tù trong các trại tập trung “cải tạo.” Thêm vào đó có khoảng một
vài em thuộc gia đình cán bộ Cộng Sản cao cấp mới vào Nam.
Phần đông các học trò miền
Nam những năm đầu sau khi bị “giải phóng” các em học trò miền Nam còn rất ngoan
và kính trọng thầy cô, và ngược lại thầy cô miền Nam cũng còn coi công việc gõ
đầu trẻ là một thiên chức chứ không phải thuần túy là một nghề để sinh nhai.
Mai ra trường Sư Phạm Đà Nẵng đi dạy được hai năm thì miền Nam mất. Cô được
chính quyền mới cho đi dạy lại vì theo họ lý lịch của cô tương đối khá sạch, từ
ông bà xuống tới cha mẹ không có ai làm lớn trong chính quyền cũ.
Sáng nay như thường lệ sau
khi khảo bài cũ cô bắt đầu dạy bài mới. Trước bảng đen Mai nắn nót viết bài học
Pháp văn cho tiết học hôm nay trên bảng đen.
“Mardi 26 Septembre 1977/
Conjuguez le verbe ‘Etre’ Je suis, Tu es, Il est …”
Bỗng một tiếng thét lớn:
-Thưa cô trò Hùng cú đầu
con!
Mai nhịp nhịp cái thước gỗ
vào bảng không trả lời, cả lớp lại im lặng như tờ chỉ có tiếng bút mực sột soạt
trên giấy. Cô tiếp tục viết bài học lên bảng đen. “Elle est…”
-Thưa cô trò Hùng bóp… cu
con…!
Cũng là cái giọng học trò hồi
nãy, và lần này cả lớp phá lên cười như ong vỡ tổ. Cô Mai nghiêm mặt quay lại bảo:
-Hùng, Quang hai em lên đây!
Hai đứa học trò lớp Sáu, ngồi
cạnh nhau một đứa đen đủi nhỏ thó tướng tá loắt choắt nghịch ngợm, áo bỏ ngoài
quần và một đứa mặt mũi trắng trẻo dáng điệu mảnh khảnh. Cả hai lấm lét bước
lên phía trên. Tuy có hơi giận vì học trò tinh nghịch, nhưng cô Mai vẫn chậm
rãi hiền từ:
-Có phải Hùng phá Quang
không?
Hùng cúi đầu không đáp, cô
Mai lại hỏi lần này giọng nghiêm khắc hơn:
-Có phải em phá bạn làm mất
trật tự trong lớp không?
Hùng nhìn lên trả lời lí
nhí:
-Không ạ!
Lần này thì thằng Quang la lớn:
-Nó xạo, nó cú đầu con rồi
bóp…
Mai đưa một ngón tay lên môi
ra hiệu cho Quang đừng nói nữa không thì cả lớp lại cười như vỡ chợ. Có nhiều
tiếng nhao nhao:
-Trò Quang nói đúng đó cô,
thằng Hùng nó có làm đó,… nó còn viết bậy lên lưng áo em nè…
Thằng Hùng chợt đưa tay làm
thành nắm đấm đôi mắt căm hờn:
-Chúng ông sẽ cho tụi mày biết
tay nhé… chúng ông cho bố bọn mày đi “cải tạo” cứ là đờ người nhé…
Lần này thì cô Mai thật sự
giận dữ:
-Trong lớp của cô hay bất cứ
nơi đâu em cũng không được phép hỗn láo vô phép với người lớn nghe chưa? Nghe
rõ chưa? Em Hùng đến góc kia quay mặt vào tường cho đến hết buổi.
Buổi dạy học tưởng như bình
thường sáng hôm đó đem đến cho Mai nhiều chuyện bất ngờ sau này.
Vài ngày trong khi lớp Pháp
văn của cô đang làm bài kiểm tra, người tùy phái đến lớp của cô mời cô xuống
văn phòng hiệu trưởng có chuyện cần. Mai hỏi:
-Có chi quan trọng rứa bác
Tam? Lớp tôi đang làm bài thi làm răng mà bỏ đi? Bác nói đợi tới hết giờ rồi
tôi sẽ xuống bác hỉ!
Người tùy phái già trả lời:
-Dạ tui cũng nói như rứa với
bà hiệu trưởng và ông khách, nhưng họ có chịu nghe mô. O xuống nhanh đi, nghe
nói ông khách nớ làm lớn lắm.
Mai đáp:
-Bác Tam à, tôi không thể xuống
được ngay bây chừ, bác xuống văn phòng giải thích dùm tôi…
Không Quân Hoa Kỳ tại Trường
Trung Học Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173
Không Vận Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (Hình: Flickr manhhai)
Ông Tam quày quả đi ra. Khoảng
vài phút sau một người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen, tay đeo cái đồng hồ
Seiko5 vàng sáng chói, nước da men mét, hàm răng hơi vổ, mặc quân phục rộng
thùng thình, vai đeo xà cạp, ngang nhiên bước thẳng vào lớp, theo sau là ông
Tam. Con Trang lớp trưởng sau một vài giây ngỡ ngàng vì người khách vào lớp bất
ngờ, nhanh nhẹn hô lớn “Nghiêm!” Cả lớp buông bút viết, đứng thẳng chào khách.
Lần này thì đến lượt người đàn ông đội nón cối đeo mắt kính đen ngỡ ngàng và ngạc
nhiên đến độ lúng túng, cô giáo Mai đứng trên bục giảng lễ độ hỏi:
-Thưa ông có việc gì cấp thiết
không ạ?
Người đàn ông nhìn lên lúng
búng trả lời:
-À không, tôi chỉ muốn nói
chuyện với cô một vài vấn đề, nhưng bây giờ tôi sẽ đợi cô dưới văn phòng.
Cô Mai từ trên bục gỗ bước
xuống từ tốn:
-Dạ cám ơn ông, xin ông
thông cảm, lớp đang làm bài kiểm tra tôi không thể tiếp chuyện ngay với ông.
Hết giờ Pháp văn, cô Mai vội
vã xuống văn phòng hiệu trưởng. Bước vào cô hơi ngạc nhiên khi chỉ thấy có ông
khách đang chễm chệ ngồi sau bàn giấy của bà hiệu trưởng. Ông khách đưa tay mời
cô ngồi. Ông ta vẫn còn đeo đôi kính Rayban đen trong căn phòng không có cửa sổ.
Cô Mai bất giác muốn phì cười, nhưng ngăn lại kịp. Ông khách tự giới thiệu:
-Chắc cô không biết tôi là
ai, nên không xuống gặp tôi ngay.
Cô Mai trả lời ngay:
-Dạ thưa tôi biết ông là người
rất quan trọng nhưng vì bài kiểm tra này quan trọng đến kỳ thi học kỳ của các
em…
Ông khách ngắt lời:
-Ô! Không, không tôi có ý
phiền trách gì cô đâu, thực ra thì lúc cô không xuống ngay tôi giận lắm, vì
ngoài Bắc mỗi khi tôi vào trường con tôi học là giáo viên phải đến gặp tôi chứ
tôi không bao giờ phải lên kiếm giáo viên cả.
Cô Mai trả lời:
-Dạ trong ni chắc còn lạc hậu,
không biết bao chừ mới theo được bằng ngoài nớ…
Cô Mai không biết ông khách
đang nghĩ gì và ánh mắt phản ứng ra sao sau cặp kiếng đen. Ông trầm ngâm một
chút rồi nói:
-Bây giờ thì tôi hết giận rồi
cô ạ. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Thượng Tá Trần Kình, chính ủy của Trung
Đoàn Không Quân Tiềm Kích 935 đóng tại căn cứ Không Quân Đà Nẵng. Con tôi là Trần
Hùng học trong lớp của cô, vài hôm trước đây nó có phản ánh phê bình cô có
khuynh hướng bảo vệ bọn con cái thành phần chống cách mạng. Cô Mai nghĩ sao?
Mai thật sự ngạc nhiên, dầu
miền Nam đã bị chiếm đóng hơn hai năm, bởi một đạo quân nói cùng một ngôn ngữ
và cùng chung màu da với cô nhưng cô vẫn chưa thật sự chưa hiểu hết về cách suy
nghĩ, giao tế của người Cộng Sản. Cô trả lời chậm rãi:
-Thưa ông Kình, tôi không biết
phải trả lời ông ra sao. Tôi là một người thầy giáo chuyên nghiệp, tôi dạy bất
cứ học sinh nào được giao phó cho tôi, tôi không phân biệt đối xử các em theo
thành phần gia đình… hơn nữa các em khi sinh ra cũng không có sự lựa chọn về lý
lịch của cha mẹ. Lý lịch cha mẹ các em theo ý tôi không thuộc phạm vi học đường.
Còn việc tôi phạt em Hùng là vì em đã phá rối trật tự trong giờ dạy học của
tôi. Tôi bảo đảm không có vấn đề bênh vực thành phần giai cấp gì đó….
Người đàn ông tên Kình, ngồi
thẳng lên đan hai bàn tay vào nhau:
-Đó là tư duy của tôi cách
đây nửa giờ cô Mai ạ. Sau khi tôi lên lớp của cô thấy việc các em lễ phép chào
khách, bàn cô giáo có lọ hoa, các em quần áo chỉnh tề tôi rất lấy làm ấn tượng.
Tôi thành khẩn với cô nhá, tôi chưa thấy trường nào ngoài Bắc học trò có văn
hóa như lớp của cô. Tôi rất mừng thằng Hùng được cô dạy. Thôi thì thế này nhé,
cô cứ công tác tốt, tôi sẽ bảo với đồng chí hiệu trưởng bỏ lời phê bình tiêu cực
của tôi về cô đi. Coi như không có sự cố gì cô Mai nhé.
Mai mỉm cười:
-Dạ nếu ông đã dạy thế thì
tôi rất vui. Nhưng tôi không dám nhận hết lời khen của ông, vì trong Nam này
trường nào lớp nào cũng đứng nghiêm, chào khách chào thầy cô. Còn chuyện trang
hoàng lọ hoa cho bàn thầy cô thì quả thật là công khó của các em học sinh nữ của
lớp tôi đã tự ý hái hoa đồng cỏ dại trang điểm cho lớp học, không phải do tôi dạy
bảo.
Ông Kình cười:
-Cô không tuyên truyền cho
miền Nam đấy chứ ? Ồ! Tôi chỉ đùa thôi cô ạ, vâng tôi tin cô nói sự thật. Còn vấn
đề này nữa, sao tôi không thấy lớp cô Mai treo ảnh Bác nhỉ?
Mai thán phục sự quan sát của
người đàn ông này, chỉ có ít phút trong lớp mà ông Kình đã nhận xét được biết
bao nhiêu là chuyện. Cô có biết đâu ngoài Bắc người ta treo hình bác Hồ cũng
như trong Nam người ta treo cái gương chiếu yêu trước cửa nhà, để xua đuổi ma
quỷ. Việc treo hình của ông Hồ là một điều bắt buộc, nhà nào cơ quan nào mà
không có gương mặt lom lom, cười cười của ông Hồ là có vấn đề lớn. Thành thói
quen, nhiều người treo hình bác Hồ như một sự thông báo cùng hồn ma bóng quế
nhà tôi có chúa quỷ ở đây nhá! Các ngài ma quỷ hồn ma bóng quế tép riu liệu mà
xéo đi… Mai ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
-Hình như một năm trước đây
tôi nhớ có treo, nhưng vì lớp học xây dựng bằng phương pháp tiền chế, vật liệu
là sắt và tôn ximăng cho nên đinh đóng vào tường không chắc, bức hình lộng kiếng
của Bác bị rơi xuống vỡ nát ông ạ.
Ông Kình hỏi:
-Thế thì sao không báo cáo
và thay ngay đi, hồi trước giải phóng các thầy, các cô trong Nam treo ảnh Thiệu
ra sao mà bây giờ lại nói đóng đinh không được?
Cô Mai cười xòa:
-Trước giờ trong này không
có lệ treo hình lãnh tụ trong nhà riêng hay trong lớp học.
Điều này thì ông Kình có thể
tin, vì khi Trung Đoàn 935 tiếp thu căn cứ Không Quân Đà Nẵng ông cũng hơi ngạc
nhiên khi thấy không có văn phòng, cơ sở nào có treo hình Tổng Thống Thiệu cả.
Nhưng ông đã tự giải thích rằng chắc cũng như ảnh Bác là biểu tượng thiêng
liêng bọn “Ngụy” khi di tản đã đem ảnh của Thiệu theo để tỏ lòng yêu kính lãnh
tụ, như cái đồng chí gì đấy ở ngoài Bắc, nhà cháy nhưng đồng chí ấy cố xông vào
để cứu ảnh Bác, trước khi cứu con trai ruột của mình… Ông chợt thốt lên:
-À, công tác chính trị đảng
cầm quyền của Thiệu yếu nhỉ!… À này tôi có xem lý lịch của cô, khá trong sạch
và cũng thuộc thành phần cơ bản đấy, cha cô là công nhân sở điện, mẹ làm cho
hãng dệt, không hiểu sao trường chưa cho cô vào đối tượng Đoàn? Để tôi giúp cho
nhé?
Mai im lặng một chút rồi
nói:
-Chuyện hơi dài ông ạ, sợ kể
ra đây làm mất thì giờ của ông, nhưng đây không phải chi bộ Đoàn sơ xuất đâu mà
là hoàn toàn do tôi cả.
Ông Kình hơi nhổm người về
phía trước:
-Tôi không dám tò mò, nhưng
nếu cô muốn kể thì tôi không sợ mất thì giờ cô ạ, tôi muốn tìm cách giúp cô. Cô
Mai yên lặng một lúc, ánh mắt cô trở nên xa xăm, rồi cô chậm rãi kể.
Chuyện xảy ra cũng gần một
năm về trước. Mai gặp lại người bạn học cũ, Đoàn Đình Bình, Bình đã theo cha vô
bưng sau cuộc “tổng khởi nghĩa” thất bại của Cộng Sản tại Huế năm 1968. Cả lớp
của Mai khi ấy không biết Bình đi đâu hay đã bị chết thảm dưới bàn tay của Việt
Cộng khi Bình về ăn Tết ở Huế.
Đầu năm 1976, Bình được bổ về
làm bí thư chi bộ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản tại trường của Mai đang dạy. Lúc đầu
hai người không nhận ra nhau, nhưng Mai nhớ ngờ ngợ cái tên người bạn cũ Đoàn
Đình Bình, nên sau một lần họp giáo viên Mai hỏi phải Bình hồi nhỏ có học trường
tư thục Bình Minh tại Đà Nẵng không? Hai người nhận ra nhau, rồi trở nên đôi bạn
thân. Mai rất trân quý những kỷ niệm và bạn học của ngày xưa thời học trò. Còn
Bình thì cũng vui mừng được gặp lại người bạn xưa của ngôi trường đầy tuổi thơ
êm đềm trước khi phải ra Hà Nội để bị hấp thụ một nền giáo dục rất ư “vô giáo dục.”
Qua một thời gian, Bình âm
thầm yêu Mai và muốn tiến xa hơn với Mai, nhưng trước hết phải giới thiệu được
cho Mai vào đối tượng Đoàn, thì việc xin lãnh đạo chấp thuận cho cưới Mai sẽ dễ
dàng và vinh dự hơn nhiều. Không hỏi ý kiến Mai, vì muốn dành cho bạn một sự ngạc
nhiên mà theo ý Bình đây cũng là một vinh dự cho Mai. Bình mời Mai tham dự một
buổi họp Đoàn và tuyên bố đề nghị cho Mai được làm đối tượng Đoàn Thanh Niên Cộng
Sản, sau khi đã đọc lý lịch trích ngang trích dọc của Mai trước mặt mọi người để
minh chứng Mai thuộc thành phần tốt. Về phần Mai khi nhận lời dự buổi họp chỉ
vì nể Bình và cũng có đôi chút tò mò muốn biết khi họp Đoàn ngưòi ta rù rì rủ rỉ
cái chi. Mai không ngờ việc xảy ra như thế. Khuôn mặt của Mai từ trắng chuyển
sang hồng, Mai im lặng. Cả phòng họp nghĩ là Mai quá xúc động trước cái đặc ân
to lớn kia. Một lúc sau Mai mới run run nói:
-Cảm ơn anh Bình đã giới thiệu
Mai, nhưng Mai không hoàn toàn thuộc thành phần tốt như cách mạng định nghĩa
đâu, và cũng không đủ tiêu chuẩn vào Đoàn. Mai đã có chồng, mặc dầu chưa chính
thức trên giấy tờ. Chồng của Mai là phi công của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Câu sau cùng Mai nói chậm, dõng dạc từng chữ như lời tuyên bố.
-Lỗi tại Mai, Mai đã không kể
cho anh Bình nghe, vì Mai nghĩ đó là chuyện riêng tư, nhưng bây giờ thì bắt buộc
Mai phải nói. Cả phòng họp lặng thinh, không ai biết phải phản ứng như thế nào,
còn Bình đứng sững như trời trồng bên cạnh Mai. Một hai phút sau đó anh lắc đầu
và bỏ ra ngoài. Mai chạy theo Bình ra đến khoảng sân vắng nói khẽ với Bình.
-Mai xin lỗi nhé, nhưng nếu
Mai không nói thì suốt đời Mai sẽ áy náy lắm…
Bình quay lại hằn học:
-Tại sao Mai không cho tôi
biết, Mai làm tôi ngượng trước mặt bao nhiêu người, mà những điều Mai nói là thật
hay bịa đặt vậy? Bình đã hỏi thăm người ta ở chỗ Mai thường trú họ nói là Mai
chắc chắn còn độc thân mà… Bình thật không ngờ, không ngờ. Mà nếu điều Mai nói
là sự thật Mai có yêu thằng đó – xin lỗi – anh đó không?
Mai ngạc nhiên về thái độ gần
như ghen tương của Bình, Mai không nói gì từ từ kéo sợi dây chuyền từ trong cổ
và tháo ra một chiếc nhẫn, loại nhẫn mà phi công sau khi ra trường bên Mỹ
thường đeo. Mai nói thong thả:
-Mai có chồng thật chứ, nhẫn
cưới của anh ấy trao cho Mai đây này…
Bình bưng hai tai không muốn
nghe thêm chạy thất thểu ra khỏi cổng.
Ông Kình, chép miệng:
-À ra thế, thế thì gay đấy,
Đoàn hay Đảng có quyền từ chối đối tượng chứ có ai có gan dám từ chối vào Đoàn
vào Đảng… À anh chồng của cô bây giờ ở đâu? Còn ở đây hay di tản rồi?
Mai nhớ lại câu chuyện các
thực tại chưa xa lắm, vào một ngày cuối Tháng Ba năm 1975. Anh Nguyễn Bé Tư,
phi công F-5E biệt phái từ Biên Hòa ra. Hai người quen nhau từ mùa Xuân 1974
trong một buổi văn nghệ ủy lạo, trường của Mai tổ chức để ủy lạo chiến sĩ. Năm
1975, một ngày trước khi Đà Nẵng bị thất thủ, anh đã gặp Mai. Anh không nói gì
nhưng qua nét mặt âu lo của anh, Mai biết là tình hình chiến sự ngày càng xấu
đi. Anh dẫn Mai đi ăn tối ở nhà hàng Bạch Đằng trên bờ sông Hàn, hai người cố
tránh không nói gì về chiến tranh để được một lần hẹn hò trọn vẹn. Gần lúc chia
tay, anh rút chiếc nhẫn ra trường bên Mỹ đeo vào ngón tay Mai và nói:
-Anh muốn cùng em sống đến
cuối cuộc đời, em có thuận làm vợ của anh không?
Mai không nói được gì, chỉ
khe khẽ gật đầu nước mắt bắt đầu tuôn vì xúc động và vui sướng. Mai đã là phu
nhân của Nguyễn Bé Tư từ ngày ấy. Trong buổi tối ngắn ngủi đó hai người đã vẽ
ra biết bao nhiêu là mộng đẹp, về ngày cưới về gia đình tương lai… Đêm đó anh
Tư phải vào trực tác chiến trong phi đoàn. Ngày hôm sau thì Đà Nẵng mất, Mai
tìm cách về Sài Gòn vào hỏi Bộ Tư Lệnh Không Quân về tin tức của anh Tư. Mai
còn nhớ mấy người lính Không Quân ai cũng lắc đầu nhìn chị thương cảm ái ngại.
Kể từ đó cái tên Nguyễn Bé Tư mộc mạc đối với Mai như thuộc về một kiếp nào rất
gần mà rất xa xăm. Nhưng cô lúc nào cũng tự nhận là người vợ âm thầm của người
phi công Nguyễn Bé Tư.
Nữ sinh Trường Trung Học
Công Thanh. Ngôi trường được xây dựng với sự hợp tác của Lữ Đoàn 173 Không Vận
Hoa Kỳ và người dân, ngày 12 Tháng Mười, 1967. (Hình: Flickr manhhai)
Câu chuyện cô Mai từ chối
vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản được đồn ra, được thêm thắt, và từ đó học trò gọi
đùa cô Mai là “Cô giáo ‘Ngụy.’” Cô nghe nhưng không bao giờ la rầy các em vì biết
các em không có ý xấu, ngược lại các em từ đó rất kính nể cô, mấy đứa con trai
có cha anh là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nói cô Mai chịu chơi và “chì”
lắm. Mỗi khi nghe ai kêu “Cô giáo ‘Ngụy’” Mai mỉm cười hạnh phúc tự nhủ: “Ừ,
‘Ngụy’ thì ‘Ngụy’ mình thua thì người ta gọi mình là giặc. Ngày xưa Gia Long cũng
gọi Bắc Bình Vương Quang Trung, Tây Sơn là ‘Ngụy’ đó thôi!”
Giáng Sinh 1980
Sau nhiều lần vượt biên hụt,
Mai bị đuổi không cho dạy nữa. Cô sinh sống bằng việc lấy mối rau quả và bán ở
chợ. Một buổi chiều ông Kình ghé ngang hàng của cô lựa lựa mấy bó rau hồi lâu.
Cô không nhận ra ông vì bây giờ ông coi có da thịt hơn trước nhưng lại già hẳn
đi, và không còn đeo cặp kính Rayban nữa. Đến khi hết khách ông mới khẽ bảo:
-Gớm! Cô không nhận ra tôi
à? Kình đây, tôi kiếm mãi mới biết cô bán hàng ở đây, tôi có thể gặp riêng cô để
nói một chuyện quan trọng không? Tôi sẽ dàn xếp chỗ gặp, cô nhớ đến nhé.
Buổi chiều hôm đó tại một
căn biệt thự, ông Kình đề nghị cô Mai dẫn Hùng con ông đi vượt biên ông sẽ lo mọi
chuyện.
Mai dường như không tin vào
tai của mình:
-Ông không nói đùa chứ?
Ông Kình nhìn cô cười:
-Tôi nghĩ là cô sẽ nói thế.
Lời đề nghị của tôi rất nghiêm túc nói như người Sài Gòn là “một trăm phần dầu”
cô ạ. Sau năm năm ở miền Nam tôi thấy chế độ Cộng Sản đã làm băng hoại mọi sự
cô ạ. Những năm chiến tranh thì người ta còn có thể biện minh nhưng khi vào miền
Nam thì tôi nhận xét thấy giá trị đạo đức nói chung là trong Nam ưu việt hơn
ngoài Bắc. Sau năm năm thì tôi thấy con người Cộng Sản đã làm cho miền Nam ngày
càng tồi tệ, càng ngày càng giống như miền Bắc. Tôi đã thấy điều đẹp đẽ trong một
xã hội văn minh, tôi không thể nào quay về những cái thấp hèn mà tôi đã mù
quáng tôn sùng. Tôi muốn con trai tôi ra đi, tôi không muốn thấy nó trở nên một
bánh xe trong cái cỗ máy thống trị này. Nếu cô hứa dẫn nó đi, chăm sóc nó đến
năm 18 tuổi tôi sẽ lo tất cả mọi chi phí phương tiện ra đi cho cô.
Lý do tôi nhờ đến cô vì thứ
nhất tôi biết cô muốn ra đi và thứ hai cô là người rất thật thà, chung thủy.
Ngay cả trong người thân tôi cũng không thể thố lộ kế hoạch này hay nhờ ai vì
lý do an ninh và tính mạng của tôi, chỉ có cô mới giúp được tôi. Chuyến vượt biên
của cô do công an Đà Nẵng tổ chức bến bãi, nên việc ra đi phải nói là rất chu
đáo.
Chuyến đi thật suôn sẻ. Tàu
vượt biên của Mai sau năm ngày lênh đênh đã cập bến Hương Cảng bình yên vô sự.
Tại đây Hùng gặp lại gia đình một người bà con xa ở Hải Phòng đã đến Hương Cảng
trước đó một tháng. Hùng muốn nhập chung form định cư với họ. Mai không đồng ý,
qua một người trung gian cô gửi thư về Việt Nam hỏi ý kiến ông Kình. Vài tuần
sau, Mai được ông cho biết là ông bằng lòng cho Hùng “tách form” với cô, và coi
như lời hứa của cô đối với ông đã hoàn thành.
Khi được Cao Ủy phỏng vấn,
cô giáo Mai chọn thành phố Sydney xinh đẹp của quốc gia Úc Đại Lợi làm nơi định
cư. Còn Hùng thì theo bà con định cư tại Canada. Cô Mai đi học lại lấy bằng kỹ
sư điện toán, cô rất nhân hậu nhã nhặn nên được rất nhiều người khác phái theo
đuổi, nhưng không có ai có thể thay được hình ảnh của người phi công ngày nào.
Trong những năm gần đây khi
các hội thân hữu Không Quân QLVNCH được thành lập tại Úc, người ta thường thấy
cô trong những buổi họp mặt. Mai tham gia mọi sinh hoạt, báo chí văn nghệ. Câu
hỏi đầu tiên cô hỏi những người lính Không Quân mà cô gặp lần đầu lúc nào cũng
là: Có ai biết tin tức gì về anh Nguyễn Bé Tư phi công F-5E biệt phái ở Đà Nẵng
hay không? Cô Mai không biết là lần thứ mấy đã hỏi câu hỏi đó, cô hỏi nhưng
chính cô rất sợ câu trả lời về số phận của một người mất tích đã hơn hai mươi
lăm năm.
Tháng Tư, 1998
Hùng đứa học trò ngày xưa của
cô từ Canada qua thăm cô giáo Mai. Hai thầy trò gặp nhau mừng mừng tủi tủi sau
mười bảy năm. Hùng bây giờ là một thanh niên tuấn tú lễ phép, rất chững chạc và
là một bác sĩ y khoa. Hùng báo cho cô Mai biết là ông Kình đã giải ngũ về hưu,
và ông đã tỉnh ngộ hẳn giấc mơ Cộng Sản và sống rất an phận tại Hà Nội.
Trước lúc chia tay, Hùng đưa
cho cô Mai một phong thư niêm kín, “Em cũng chẳng rõ có cái gì trong ấy mà bố
em rất cảnh giác không dám gửi qua bưu điện, hay gửi qua người quen đi nước
ngoài, chỉ khi em về Việt Nam bố mới trao cho em và dặn là phải đưa tận tay cho
cô, và cho cô rõ là phải khó khăn lắm mới lấy được tư liệu này… Bố em dặn cô đọc
xong đừng phổ biến, không thì rắc rối lắm cô nhé!”
Trong phong thư là bản sao của
tờ phúc trình tổn thất của sở tác chiến không quân Quân Đội Nhân Dân. Tờ phúc
trình như sau: “Thể theo chỉ thị số… Đại Tướng Văn Tiến Dũng được lệnh từ Trung
Ương Binh Chủng Không Quân Nhân Dân phải hạ quyết tâm khẩn trương làm chủ và tạo
điều kiện hồi phục sử dụng sân bay Đà Nẵng để thành lập bộ phận trinh sát và
phòng thủ mặt Nam đề phòng bọn Mỹ có thể quay trở lại can thiệp. Theo tinh thần
trên, vào sáng ngày 30 Tháng Ba, lúc 5 giờ 15 sáng giờ Hà Nội một phi đội tiêm
kích cơ hỗn hợp gồm hai máy bay chủng loại Mig21 và một Mig 17. Phi đội mang bí
số KK10 được lệnh cất cánh từ Đồng Hới để trinh sát sân bay Đà Nẵng xem xét khả
năng bố trí phòng không và máy bay tiềm kích của quân đội ta sau này. Tiểu đoàn
trinh sát TS5 báo cáo là căn cứ Đà Nẵng của quân đội Ngụy đã bị bỏ ngỏ hoàn
toàn vào lúc 2 giờ sáng 30 Tháng Ba. Khi phi đội KK10 đã băng qua Xepon Lào và
bắt đầu tiến vào Đà Nẵng từ hướng Tây Bắc, thì bất ngờ một tiềm kích cơ của
Không Quân Ngụy chủng loại F-5E xuất phát từ Đà Nẵng bất thình lình tiến công.
Giặc lái Ngụy sau khi dùng hai tên lửa loại AIM-9B bắn hạ hai chiếc Mig-21 của
ta, hắn còn ngoan cố đuổi theo dùng súng bắn hạ thêm một máy bay Mig-17 của ta.
Các đồng chí lái của quân đội nhân dân đã kiên cường bất khuất chống trả suốt gần
7 phút. Các đồng chí lái, Lai Như Hạch, Hồ Mạc Dịch, Đỗ Mai Quốc đã hy sinh
oanh liệt. Còn chiếc tiềm kích cơ địch đã bị tên lửa của ta bắn hạ. Tên giặc
lái Ngụy nhảy dù đã bị quân dân ta bắt được. Tên giặc lái ác ôn này tên là Nguyễn
Bé Tư, cấp bậc trung úy số quân… Trung Ương đã ra lệnh giải quyết thích đáng
tên giặc lái này cương quyết không để những thông tin xấu lọt ra ngoài về sự kiện
ba máy bay của không quân nhân dân anh hùng bị một tiềm kích cơ địch bắn hạ
trong vòng 7 phút. Bọn địch có thể lợi dụng để nói xấu Không Quân Nhân Dân. Đồng
chí Thượng Tá Nguyễn Công Tâm chánh án, kiêm công tố viên tòa án nhân dân đã
tuyên án tử hình tên giặc lái Nguyễn Bé Tư. Tên Trung Úy Ngụy Nguyễn Bé Tư đã đền
tội vào ngày 5 Tháng Tư, 1975.”
Trên góc trái của tờ phúc
trình có hàng chữ TUYỆT MẬT – không bao giờ được công bố.
Mai bâng khuâng, nhưng cô
không thấy buồn, cô cảm thấy rất hãnh diện và thanh thản như người lữ hành đã về
lại nhà mình. Từ lâu cô đã chấp nhận là con người mang cái tên Nguyễn Bé Tư đã
không còn có mặt trên cõi đời này nữa, cô linh cảm là anh đã đền nợ nước một
cách anh dũng, điều cô linh cảm bây giờ đã thành sự thật trên giấy trắng mực
đen. Cô kiêu hãnh về anh Nguyễn Bé Tư, anh đã chết hào hùng như anh đã sống. Cô
thương mến người phi công ấy chẳng phải vì anh hào hoa phong nhã như người ta
thường nói về những người lính Không Quân VNCH. Cô thương anh vì anh mộc mạc,
thứ mộc mạc của loại đá bọc kim cương.
Anh Nguyễn Bé Tư “Ace” đầu
tiên của Không Quân QLVNCH một mình hạ ba phi cơ địch trong vòng 7 phút, thế mà
cuộc đời lại không có quyền biết đến anh. Bọn Cộng Sản run sợ và kính nể khi nhắc
đến cái tên hiền hòa của anh, chúng sợ đến nỗi phải giết anh.
Đêm nay Mai thấy lòng mình
thật ấm áp dường như có sự hiện diện của anh Nguyễn Bé Tư đâu đây, dường như
anh đang nói với cô đừng buồn đừng giận anh. Xoay xoay chiếc nhẫn Không Quân
quanh ngón tay, Mai khe khẽ gật đầu không nói nên lời như đêm cuối cùng năm xưa
còn ngồi bên anh. Bên ngọn đèn Mai vuốt lại mái tóc đã điểm sương, thấy mình lại
là cô giáo trẻ năm nào đang choàng hoa cho người phi công khu trục anh hùng của
QLVNCH. (Thần Long)
No comments:
Post a Comment