Từ nhiễu nhương đến thiên hạ đại
loạn:
Từ nhiễu nhương đến thiên
hạ đại loạn:
Thời đại của
Nguyễn Du và thời đại
của chúng ta
Phạm Cao Dương
Thời đại và
cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán thế kỷ thứ
hai mươi, tiền bán thế kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên
tài văn học tương lai hay đã có nhưng hiện chưa được khám phá, chắc
chắn còn có nhiều giá trị hơn gấp bội. Mong lắm thay!
Trong hầu hết các tác
phẩm viết về Văn Học Sử Việt Nam, Nguyễn Du thường được xếp vào
thời Nguyễn Sơ hay Tiền Bán Thế Kỷ 19.
Sự sắp xếp này có lẽ đã được căn cứ vào thời gian nhà đại
thi hào của chúng ta sáng tác Truyện Kiều sau chuyến ông đi sứ nước
Tầu về, tức sau năm 1813. Sắp xếp
như vậy tôi nghĩ không được hợp lý và quá tùy thuộc vào các yếu tố
chính trị và vào sự phân định thời gian theo lối Tây Phương. Lý do là vì sắp xếp và phân định thời
gian trong văn học sử không nhất thiết phải gò bó một cách cứng nhắc
y như sự sắp xếp trong sử học, đành rằng ngay trong sử học, nhất là
lịch sử văn minh, khi nói tới Thế Kỷ 19, người ta không bắt buộc phải
nghĩ rằng thế kỷ này phải bắt đầu vào năm 1800 và chấm dứt vào năm
1899, cũng như Triều Nguyễn phải bắt đầu vào năm 1802. Tất cả đều có
thể sớm hơn hay trễ hơn tùy từng khía cạnh hay cách nhìn của sử gia
về mỗi vấn đề, mỗi tác giả. Lý do rất đơn giản: một tác phẩm văn
học, đặc biệt tác phẩm văn học lớn thường phản ảnh hoàn cảnh chính
trị và xã hội của cả thời đại của tác giả.
Đối với Truyện Kiều,
được viết sau năm 1813 không có nghĩa là chỉ thuộc Thế Kỷ 19, chỉ
thuộc Thời Nguyễn Sơ. Trái lại,
đại tác phẩm này phải được coi là đã thành hình từ nhiều chục năm
trước đó và được kết tinh trong thập niên thứ hai của Thế Kỷ 19,
dưới thời Nhà Nguyễn. Nó không
phải chỉ phản ảnh cuộc đời và tâm sự riêng của Nguyễn Du mà còn
phản ảnh cuộc đời và tâm sự chung của một phần không nhỏ những
người thuộc thế hệ ông, những người sinh trưởng ở Bắc Hà trong hậu
bán Thế Kỷ 18, dưới thời Lê - Trịnh
và còn tiếp tục sống trong những thập niên đầu của Thế Kỷ 19
dưới thời Nguyễn Sơ. Phạm Quý
Thích và hơn hai chục ông nghè khác của Triều Lê chẳng hạn. Gia dĩ ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn
là tác giả của nhiều tác phẩm khác không kém giá trị ngoài tính
phổ thông trong dân gian của chúng, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mà các
sư ở các chùa ở Miền Bắc luôn luôn ngâm đọc với một giọng điệu vô
cùng đau thương và thảm thiết trong ngày Rằm Tháng Bảy, ngày cúng cô
hồn, chẳng hạn. Trong bài này, tôi
muốn cùng bạn đọc nhìn lại thời đại của Nguyễn Du và những ảnh
hưởng của những gì đã xảy ra ở thời này đối với cuộc đời, tâm tư
và sự nghiệp của tiên sinh, đồng thời so sánh phần nào thời đại đó
với thời đại của chúng ta hiện tại với một ước vọng trong những năm
tới đây chúng ta có thể chứng kiến sự ra đời của không phải của một
mà nhiều tác phẩm lớn nếu không hơn thì ít ra cũng không kém tác
phẩm của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh. Tất nhiên ước vọng là một
chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Nhưng ước vọng thì cứ ước vọng.
Trong lịch
sử Việt Nam từ Thế Kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen
tối hơn thời kỳ của những năm cuối
cùng của thời Lê Mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có
thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945.
Nguyễn Du đã
sống trong những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và chúng ta đã sống
trong những chục năm sau Thế Chiến Thứ Hai.
Trong lịch sử văn học
Việt Nam, Nguyễn Du có thể nói là một người đã sống một cuộc sống
đau thương nhất, u buồn nhất, do đó đã mang một tâm sự u uẩn nhất,
xót xa nhất. Còn trong lịch sử dân
tộc, chúng ta là những kẻ đã phải gánh chịu hay được chứng kiến
nhiều cảnh đổ vỡ, chia ly éo le nhất, từ đó đã mang những niềm đau
khắc khoải nhất, thầm kín nhất, đặc biệt là những người đã có cái
may, hay không may sinh ra và trưởng thành trong những năm trước khi Thế
Chiến Thứ Hai chấm dứt và hiện tại vẫn còn đang sống. Nguyễn Du cũng là người có cái may
đồng thời cũng là cái không may tương tự.
Hai đại biến cố, hai cuộc đời cách nhau ngót hai trăm năm, tuy mang
những tính cách đặc thù của những biến cố và những sự thực lịch
sử vẫn có những tác động giống nhau đối với nội tâm của con người.
Có khác chăng là ở thời Nguyễn Du mọi chuyện chỉ xảy ra quanh quẩn
trong nội địa của nước Việt Nam và giữa người Việt Nam với nhau.
Còn ở thời
đại chúng ta mọi chuyện đã xảy ra trên một bình diện lớn lao hơn, cổ
kim chưa từng có, là khắp thế giới.
Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã bẩy tung hàng triệu người Việt ra
khắp địa cầu để đến bây giờ, bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba sau Tây
Lịch, một học sinh Việt Nam đã có thể hãnh diện được học rằng:
“Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất
có người Việt Nam cư ngụ!”
thay thế cho
một học sinh người Anh hồi cuối Thế Kỷ 19, với tất cả những cái may
cũng như những cái không may của sự kiện lịch sử này.
Sinh năm 1765, dưới thời
Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, trong một gia đình cha, chú,
anh, em đều thi đậu và làm quan to vào bậc nhất phẩm đương thời. Nguyễn Du đã có dịp sống cuộc đời niên
thiếu của một công tử con nhà thế gia, vọng tộc ở chốn kinh đô ngàn
năm văn vật, vào lúc cơ nghiệp của hai họ Lê, Trịnh còn tương đối
vững chãi, chưa có gì báo trước một sự xụp đổ trong tương lai. Ông hãy còn được thấy tận mắt hay được
nghe nói về cuộc sống nghiêm ngặt hay nhàn rỗi, xa hoa ở các cung vua,
phủ chúa vào lúc nước nhà vô sự như được tả trong Thượng Kinh Ký Sự
của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) hoặc Vũ Trung Tùy
Bút của Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), mặc dầu cha mẹ mất sớm và mặc
dầu không được thành công lắm trên đường khoa hoạn. Nhưng kể từ khi
Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mất (1782), thế đứng của hai họ Lê, Trịnh đã
bắt đầu suy sụp. Kiêu Binh làm loạn
(1784) và Tây Sơn ra Bắc (1786 – 1787) đã chấm dứt triều đại Nhà Lê sau
ngót bốn trăm năm trị vì kể từ khi Lê Thái Tổ đánh đuổi Quân Minh dựng
nên nghiệp lớn (1428 -1787) và làm xụp đổ ngôi chúa của họ Trịnh. Tố
Như Tiên Sinh lúc ấy mới có 22, 23 tuổi.
Cuộc đời đầy u buồn, bất đắc chí, xen lẫn với những nuối
tiếc của ông bắt đầu từ khi ông phải tản cư về ẩn náu ở quê vợ
thuộc xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình ngày nay, xa hẳn
đất kinh kỳ, nơi sau này chỉ còn là cảnh:
Thiên niên cự
thất thành quan đạo,
Nhất phiến
tân thành một cố cung.
(Thăng Long I)
Dinh xưa cung
cũ còn đâu?
Mà nay đường
trước thành sau khác rồi!
(Hoa Đăng dịch)
hay:
Tương thức
mỹ nhân khan bão tử,
Đồng du hiệp
thiếu tận thành ông.
Người đẹp
buổi xưa đều bế trẻ,
Bạn chơi
thuở nhỏ thẩy thành ông!
(Quách Tấn dịch)
khi Nguyễn Du “Bạch đầu
do đắc kiến Thăng Long” (Bạc đầu
còn được thấy Thăng Long) nhân chuyến đi sứ Nhà Thanh vào năm 1813 có
dịp ghé lại.
Chưa hết, sự đổi chủ đã
không diễn ra một cách êm đềm mà trong cảnh “Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời” với
những “ Bãi sa trường thịt nát máu rơi”
để “Phơi thây trăm họ nên
công một người” đã liên tiếp xảy ra mà Nguyễn Du đã tả
trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.
Nguyễn Hữu Chỉnh, người bạn giao du thân thiết với anh em họ
Nguyễn, người được coi là thiên tài vô song của đất Bắc Hà, đã bị
xé xác, phơi thây, bào huynh của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh cũng bị
Tây Sơn giết chết. Anh em xưa kia quây
quần đông đúc, nay ly tán mỗi người một phương, còn chính Nguyễn Du
cũng đã hơn một lần bị Tây Sơn bỏ ngục.
Cuối cùng vào năm 1796, tiên sinh đã phải bỏ tất cả, trở về
sống ở chốn cố hương, ngày ngày đi săn để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn
một lòng tưởng nhớ tới Nhà Lê với một tâm sự mà Hồng Liên Lê Xuân
Giáo, một trong những vị túc nho lão thành đã di tản sang sống ở San
Diego trong thời đại của chúng ta, đã so sánh với tâm trạng của Đặng
Dung, xuyên qua hai câu thơ trong bài Thuật Hoài của vị nghĩa sĩ của Thời
Hậu Trần này:
Trí chủ hữu
hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô
lộ vãn thiên hà.
Vai khiêng
trái đất mong phò chúa,
Giáp gột
sông trời khó vạch mây.
(Phan Kế Bính dịch)
Với một lòng ước vọng
không bao giờ đạt được là “Muốn ra tay tát cạn Biển Đông”. Có điều
là vận của Nhà Lê đã hết. Năm
1802, Gia Long thống nhất đất nước. Người ẩn sĩ đã không sao ẩn được
danh mình vào lúc toàn thể non sông đã đổi chủ, vào lúc:
Trời Đông
Phố ào ào gió động,
Hội tao
phùng đái ủng tân quân.
(Bùi Kỷ, Văn Tế Tiên
Điền Nguyễn Du)
Để cuối cùng thấy mình “dật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay” hay “Hàng thần lơ láo” và chẳng biết “phận mình ra đâu”. Bị triệu vời với
đích danh, Nguyễn Du đã phải ra làm quan với Nhà Nguyễn một cách
miễn cưỡng trong nhiều năm ròng rã. Cuối cùng ông đã tự kết liễu
đời mình bằng cách đau mà không chịu uống thuốc.
Nếu lập một bảng đối
chiếu đại cương thời đại Nguyễn Du với thời đại chúng ta hiện tại,
ta có thể thấy vô số những điểm tương đồng. Cũng với đất nước bị chia đôi với con
Sông Gianh được thay thế bằng Sông Bến Hải. Cũng một xã hội tuy không cường thịnh
nhưng những gì các thế hệ trước để lại vẫn còn nguyên vẹn, với
những thành trì, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, đền miếu, tập tục,
lễ nghi, văn chương đạo đức... mà một dân tộc văn minh phải lấy làm
hãnh diện. Cũng với những mốc
thời gian then chốt, 1784 và 1787 cho thời Nguyễn Du và 1945, 1975 cho
thời hiện tại. Cũng với những đổi
thay và đổi đời vĩ đại, khủng khiếp cho một con người bình thường,
với những cảnh “thất thế tên rơi, đạn
lạc”, “máu tuôn lai láng , xương khô rụng rời” trên mặt đất,
hay những trường hợp “đem thân chôn giấp
vào vòng kình nghê” trên mặt biển, đặc biệt là của những
thành phần xưa kia “phong gấm rủ là”, “màn
lan trướng huệ”, “cung quế phòng hoa”.
Nhưng ở thời đại
chúng ta còn ngang trái, bi thảm hơn
nhiều. Người anh hùng đất Bình
Định, sau khi diệt Nhà Lê, đã đánh dấu triều đại của mình bằng
chiến thắng vĩ đại ở Gò Đống Đa, tiếp đó đã khơi dậy trong lòng dân
tộc mình một tinh thần tự tin và tự chủ qua dự định lấy lại Lưỡng
Quảng về cho đất nước, do đó đã được một phần dân chúng Bắc Hà
chấp nhận.
Những kẻ xâm
chiếm Miền Nam năm 1975 đã không làm nên điều gì mọi người mong đợi.
Trái lại, chiến thắng của họ đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến một
tình trạng càng ngày càng tăm tối, tồi tệ hơn.
Ở thời
đại Nguyễn Du, tuy bất đắc dĩ phải phục vụ tân quân và tân triều,
nhưng các sĩ phu Bắc Hà thời ông đã được phục vụ với đầy đủ danh
dự như là những quan lại, kể cả quan lại cao cấp của Triều Đình
Huế.
Ở thời đại của chúng ta, những kẻ
hậu duệ của Tố Như Tiên Sinh cũng phải miễn cưỡng ra phục vụ triều
đại mới nhưng là phục vụ trong những trại tù khổ sai được những kẻ
chiến thắng, giả nhân, giả nghĩa gọi là lao động cải tạo hoặc đem
thân ra làm thuê, làm mướn nơi đất khách, quê người để nhà cầm quyền
lấy tiền trả nợ, hay lên các vùng kinh tế mới ở với rắn và gió,
trong những căn lều không vách...
Ở
thời đại Nguyễn Du không có những trận đói trong đó nhiều làng một
mạng sống không còn để những thành phần chống đối chính quyền đương
nhiệm có cơ lợi dụng. Ở thời đại
chúng ta không ai có thể quên được Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945
khiến hai triệu người bị chết. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện
vu cáo và thanh toán lẫn nhau bằng kết tội nhau là Việt gian, phản
động và thủ tiêu nhau vô tội vạ. Ở
thời đại Nguyễn Du không có chuyện
Tự Vệ Vũ Trang với những cuộn dây thừng để bắt Việt gian, với Công
An chận đường bắt cóc mang đi mất tích hay đương đêm vào nhà bắt
người mang đi rồi ít ngày sau nạn nhân chỉ còn mình một nơi, đầu một
nẻo với một bản án gắn trên ngực, không có chuyện đồng chí con,
đồng chí bố, vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha, không có Đảng, không
có Cách Mạng có quyền sinh sát trong tay để khoan hồng hay bắt người
đền tội. Ở thời đại Nguyễn Du
không có những cuộc chiến triền miên kéo dài cả ba chục năm mà vẫn
chưa hoàn toàn kết thúc với ba, bốn và có thể năm triệu người chết
và không biết bao nhiêu triệu người đau khổ. Ở thời Nguyễn Du biến
loạn chỉ ảnh hưởng giới hạn trong giới cầm quyền hay lãnh đạo. Ở thời Nguyễn Du chiến tranh chỉ xẩy ra
ở kinh đô và một số những địa điểm quan trọng.
Ở thời đại chúng ta, chiến tranh xả ra ở khắp
các làng xã, các hang cùng ngõ hẻm, thậm chí cả những vùng rừng
núi, những thôn bản xa xôi, trước kia rất ít người các miền đồng
bằng lui tới. Ở thời đại chúng ta,
chiến tranh là chiến tranh toàn diện, không một người dân nào, dù là
đàn bà, con trẻ, những kẻ khố rách, áo ôm, những người cùng đinh
trong xã hội, bằng cách này hay cách khác, không bị cuốn hút vào
cuộc chiến, sau đó là sự cưỡng chiếm miền Nam của người Cộng Sản
miền Bắc và cuộc ra đi tị nạn của hàng triệu dân Việt trong suốt hơn
bốn chục năm và ảnh hưởng của nó trên toàn cầu, cùng với lối trả
thù những người bị kẹt lại một cách vô cùng hiểm độc, dã man, khó
có thể tưởng tượng được bởi những người Cộng Sản miền Bắc sau biến
cố 30 tháng Tư, 1975.
Tất
cả đã dẫn tới hai phong trào dời
bỏ quê hương mà Phạm Duy, trong bài 1954 Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước
đã diễn tả bằng những câu hát như:
Một ngày năm
bốn cha bỏ Sơn Tây
Dắt díu con
thơ vô sống nơi Biên Hòa
Dù là xa đó
vẫn là nước nhà
Một mảnh
đất thân yêu gia đình ta.
............
Một ngày
bảy lăm con đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ
xua con ra đại dương
Một ngày
bảy lăm con bỏ nước ra đi
Hai mươi năm
là hai lần ta biệt xứ
Giờ cha lưu
đầy ở ngay trên nước ta
Và giờ con
lưu đầy ở đây nơi xứ lạ...
Cuối cùng là sự thành
hình của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại với nhiều hứa hẹn sẽ trở
thành thành phần thứ hai của Dân Tộc Việt Nam độc lập với thành
phần ở trong nước mà tôi gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam của Thiên Niên
Kỷ Thứ Ba với Thế Kỷ 21 là thời kỳ chuyển tiếp.
Sự so sánh kể trên nếu
chỉ được đặt ra một cách đơn thuần, nói chung, có thể bị cho là không cần thiết, đặc biệt là
đối với những người thường lưu tâm đến sự nghiệp của thi hào Nguyễn
Du, nói riêng, ai cũng có thể làm được. Nhưng tôi đã lựa chọn nó để trình
bày ở đây vì từ trước tới giờ tôi luôn luôn thắc mắc là ở thời Lê
Mạt, một thời không có gì đáng gọi là huy hoàng của lịch sử dân
tộc, đứng trên bình diện chính trị, ngoại giao hay quân sự , trái lại
đó là một thời kỳ đại loạn, thế mà trong thời này lại có nhiều
tác phẩm lớn, bất hủ xuất hiện.
Thời của chúng ta so với thời Lê Mạt còn tệ hại hơn
nhiều. Câu hỏi được đặt ra là liệu
rằng trong thời hiện tại đã có những công trình nào đáng kể xuất
hiện chưa và trong tương lai liệu có tác phẩm nào xuất hiện
không? Nguyễn Du với những tâm sự u
uẩn bời bời, chất chứa trong lòng từ nhiều chục năm, sau chuyến đi
sứ sang Tầu của ông đã để lại cho hậu thế những áng văn vô giá, bất
hủ. Người Việt chúng ta trong thời
đại mới cũng có dịp xuất ngoại và xuất ngoại ra nhiều hơn là ra
một nước Trung Hoa và lưu lại suốt đời hơn là một thời gian đi sứ
ngắn ngủi. Liệu rằng trong những
năm, những chục năm sắp tới, điều người ta mong đợi có xảy ra
không? Câu hỏi này cho đến nay chưa
có câu trả lời, nhưng tôi tin tưởng rằng một khi được tìm tòi sẽ có
rất nhiều hy vọng là sẽ có, nhất là ở các anh em trẻ vì anh em vừa
được sống, vừa được học hỏi. Thời Nguyễn Du, Tiên Sinh và những
người đồng thời với Tiên Sinh chỉ được biết có một nước Tầu. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta
được biết nhiều hơn một nước Pháp hay một nước Mỹ, một nước Nga hay
một nước Tầu. Hơn thế nữa, trong
thời đại Nguyễn Du, Nguyễn Du và các cựu thần Nhà Lê khác đã mang
những mặc cảm tội lỗi với triều đại cũ, những bạn bè xưa và với
chính mình. Những Nhà Nho này đã hơn một lần bị đưa ra làm đề tài
chế diễu.
Trong thời đại của chúng ta,
không thiếu những anh em, bà con của chúng ta mang những tâm sự đau
lòng của những kẻ bất đắc dĩ phải đào tẩu, bỏ lại cha mẹ, vợ con,
anh em, bạn bè, chiến hữu, thuộc cấp đã từng nhiều năm sát cánh
chiến đấu với mình, che chở đùm bọc cho mình và đào tẩu bằng những
phương tiện của người bạn cũ mà mình cho là đã phản bội mình, đào
tẩu với một ý thức rõ ràng là hành động này sẽ làm cho phần đất
mà mình phải bảo vệ sụp đổ mau chóng hơn. Sau đó tất cả đều đã
phải tranh đấu, vật lộn để tồn tại, để hướng về tương lai, tương lai
cho chính mình, cho con cháu mình và tương lai cho cả tập thể mình
với những nỗi lòng không dễ gì bày tỏ cùng ai được, chẳng khác gì
những miếng cơm, ngụm nước mà không thiếu gì những bà con vượt biển
của chúng ta đã phải nghẹn ngào nuốt nước mắt, xót xa, tủi nhục khi
nhận lãnh từ tay đám hải tặc trước đó đã làm hại đời mình.
Trong một bài tham luận
đăng trên tờ Hành Trình do Nhà Văn Cao Thế Dung chủ trương ở Thủ Đô
Washington trước đây, tôi có đưa ra một nhận xét về “Bi thảm tính trong văn hóa Việt Nam” và
cho rằng đặc tính này là một trong những đặc tính của văn hóa dân
tộc Việt Nam. Nó đã làm cho nền
văn hóa của dân tộc ta trở nên vô cùng phong phú, vô cùng sâu sắc và
hấp dẫn sau một bề ngoài có vẻ u buồn, thiếu những mầu sắc vui tươi
so với nhiều văn hóa khác. Nguyễn Du là một trong những bằng chứng
của bi thảm tính đó. Nhưng tác phẩm của ông sở dĩ mang đặc tính ấy
và trở nên muôn đời bất hủ là vì
nó phản ảnh cuộc đời và thời đại của tác giả, một cuộc đời và
một thời đại đầy dẫy những bi thảm và ngang trái. Thời đại và cuộc
đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán Thế Kỷ Thứ Hai
Mươi, tiền bán Thế Kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài
văn học tương lai hay chưa được khám phá, chắc chắn còn có giá trị
hơn gấp bội. Có điều ước vọng là
một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Đời người quá
ngắn ngủi mà những gì người ta ước mong được thấy hay muốn làm thì
nhiều, đúng như nhà thơ nổi tiếng của văn học miền Nam và hải ngoại,
Tô Thùy Yên, người mới từ giã chúng ta để về nơi miên viễn, đã than
trong bài hành bất hủ "Ta Về" của ông:
Ta về như
hạc vàng thương nhớ
Một thuở
trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời
ta sao hữu hạn
Đành không
trải hết được lòng ta!
Và người ta không khỏi
không nghĩ tới tâm sự đầy u uẩn của Nguyễn Du:
Bất tri tam
bách dư niên hậu
Thiên hạ hà
nhân khấp Tố Như!
Ba trăm năm
lẻ về sau,
Hỏi ai người
nhỏ lệ sầu Tố Như
(Người dịch, không rõ)
Còn Tô Thùy Yên thì tuy
bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng, âm thầm chấp nhận nhưng bề trong không
phải là không xót xa, oán hận:
Ta về một
bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai
đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe
đau mềm phế phủ
Mười năm đá
cũng ngậm ngùi thay!
Với gần mười ba năm tù,
Tô Thùy Yên đã phải sống gần hết thời gian đẹp nhất của cuộc đời
trong trại tù khổ sai không có án.
Hai chữ “mười năm” đã trở thành nỗi ám ảnh không rời đối với
ông khiến ông đã nhiều lần nhắc tới trong bài thơ trường thiên ông làm
kể trên:
Vĩnh biệt ta
mười năm chết dấp
Chốn rừng
thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt
sạm soi khe nước
Ta hóa thân
thành vượn cổ sơ!
Mười năm thế
giới già trông thấy
Đất bạc màu
đi, đất bạc màu
Một đời
được mấy điều mong ước?
Núi lở sông
bồi đã lắm khi…
Lịch sử ngơi
đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ
lục đã ai ghi?
Mười năm
chớp bể mưa nguồn đó
Người thức
nghe buồn tận cõi xa.
Quán dốc hơi
thu lùa nỗi nhớ
Mười năm
người tỏ mặt nhau đây
Ta nhớ người
xa ngoài nỗi nhớ.
Mười năm ta
vẫn cứ là ta.
Hãy kể lại
mười năm mộng dữ
Một lần kể
lại để rồi thôi
Hoa bưởi, hoa
tầm xuân có nở?
Mười năm, cây
có nhớ người xa?
Mười năm con
đã già trông thấy
Huống mẹ
cha, đèn sắp cạn dầu
Ta về như
nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu
mười năm luống nhạt mờ.
Nhưng cuối cùng thì tác
giả đành mượn chén rượu để giải oan:
Chút rượu
hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho
cuộc biển dâu này!
Nguyễn Du may mắn hơn.
Thời đại của Tiên Điền tiên sinh chưa có trại tù cải tạo. Không những
không bị đi tù, trái lại, ông còn được trịnh trọng mời ra hợp tác
với tân triều và lãnh những trách vụ quan trọng ở triều đình, kể
cả đi sứ.
Có điều, đúng như lời
Tản Đà của nửa đầu thế kỷ trước, cuối cùng tất cả chỉ còn là:
Cửa động, đầu
non, đường lối cũ
Nghìn năm thơ
thẩn bóng trăng chơi.
Gs Phạm Cao Dương
Khởi viết cuối Thu 1982
nhân Ngày kỷ niệm Thi hào Nguyễn Du tại Quận Cam California,
Hoa Kỳ
Sửa chữa và phổ biến
đầu hè 2019
Đăng ngày 15 tháng 06.2019
No comments:
Post a Comment