CON CÒN NỢ BA
dimanche 21 juin 2015
Dư Thị Diễm Buồn viết
Con Còn Nợ Ba,và Chẩm Tá Nhân với Lời Nói Dối Của Cha, Tha Nhân.
Kính gửi quý anh chị
bài viết của chị Dư Thị Diễm Buồn,
nghe nhạc Tình Cha, và đọc bài Chẩm Tá Nhân
với Lời Nói Dối Của Cha.
Caroline Thanh Hương
Tình Cha - Quang Lê
CON CÒN NỢ BA
“Mùa báo hiếu từ phụ”
DTDB
Ba ơi, sắp đến ngày báo hiếu người cha rồi!
Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm dung đó
ba!
Con biết ba sẽ cười hiền
lành mà bảo với con rằng:
- Con bé nầy nhiều chuyện và rườm rà quá đi… Bởi
ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả nhà mở con mắt không lên … thì còn
có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo ơn con ơi. Công ơn cha mẹ bổn phận
làm con không chỉ có ngày đó thôi đâu. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết
ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ. Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần
thì đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn,
hay gởi cho mấy chục... Có tiền thì được một trăm, hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh
gia đình của họ. Theo ba nghĩ thì công ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi
Thái, như đại dương vô bờ vô tận… chớ đâu chỉ có mấy ngày đó con…
Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực,
ôm chầm lấy vai mà nhỏng nhẻo nũng nịu với ba:
- Ba ơi, theo con biết, mỗi năm xứ người có
ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc nhở lòng tôn kính, thương
yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn tùy thuộc vào tâm tình và
hoàn cảnh của mỗi người nữa ba. Còn con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương
và kính yêu ba dài dài, đều đều, cho đến ngày lìa bỏ cõi đời, trong con cũng
không hề lạt phai thương kính ba chút nào hết đó ba!
Những hồi ức quay về, Nghĩa
chép miệng thở ra! Cô nhìn những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng kêu
vang vang của chúng trên trời cao, và những cây mọc trong nước sát mé bờ, có
nhánh gie ra ngoài… Trên cành có tổ chim, mà chim mẹ đang đút từng miếng mồi nhỏ
vào miệng lũ chim con… Cô cảm thấy buồn nao cõi lòng, và thở dài nghĩ ngợi!
Vì cho đến bây giờ thật sự
tôi cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng? Cũng có
thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con? Có thể, có thể, và có thể lắm… Bao
nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu? Nhưng từ nhỏ đến giờ
tôi vẫn không có câu giải đáp! Vì chưa bao giờ tôi được gặp và biết mặt mẹ
mình! Cho đến khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ, Má”
khi tôi biết nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và tôi biết tủi
thân khi thấy những đứa trẻ tuổi cỡ mình có mẹ!
Bởi mẹ bỏ Nghĩa cho nội, khi
con bà chưa đầy 2 tuổi! Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối
cùng của gia đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên
trong phường. Họ bảo đó là nhà của “Ngụy quân” cho nên bà cháu tôi bao
nhiêu năm ở trong căn nhà đó, đương nhiên có tên trong danh sách phải đi kinh tế
mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo.
Bà nội già cả mà đùm túm
cháu lang thang sống hẩm hiu lây lất bữa khoai, bữa đậu ở xó chợ, gầm cầu! Vì
bà cháu tôi giờ đây không còn nhà nữa, và vì già yếu nên bịnh tật liên miên nữa…
Cho đến ngày giặc thả ba tôi về, ông bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch
nổi.
Vì thế chúng mới cho về vì
lý do đơn giản là: ông ở trong tù chỉ tốn kém, chớ không có lợi lộc chi cả. Và
nếu nhốt ông bị chết trong tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế nhân nữa
là:
“Nhốt người vô tội, bịnh hoạn không thuốc
men cho đến chết…”
Tội nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị
đày đọa trong tù ngục cải tạo. Thân thể ông đầy thương tật, yếu đuối, gầy còm
như cái xác biết đi! Khi được giặc thả về, ba của tôi mất tất cả, cái gì cũng
không có, chỉ có nhiều thứ bịnh!
Nỗi đau buồn mất
mát đeo dính ba người chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu mà thang thuốc… Vì bịnh
tật, thiếu thốn, khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Ba tôi như người mất
trí, bởi bà nội đột ngột qua đời, sau khi ông được thả về chưa đầy ba tháng!
Đau khổ ngập lòng, uất hận
riêng mang, nhiều lần ba tôi đã ngửa mặt lên trời cao, nghẹn ngào mà than rằng:
- Ông Trời có bất công không? Hay kiếp trước
tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ
buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ
quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc đã vay. Mong Ơn Trên linh thiêng
giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống thật sự của kiếp một con người bình
thường trên cõi đời nầy…
Không còn lối thoát, ba tôi
phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi thôi.
Vì khốn khổ chất chồng, và thương đau khóc mẹ, đôi mắt ông đã bị mù lòa! Tội
nghiệp ba tôi sống không bằng chết! Ông sống trong tăm tối không được ánh sáng
mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, và xấu hổ ngửa tay xin tiền, mong
nhờ vào từ tâm của thế nhân! Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong
sáng như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho tôi biết ai là bạn, ai
là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất
chí, rồi làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung
quanh... Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành
cho sạch/ Rách cho thơm” và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh
trái ngang của đời ông.
Ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm
tới chiều tối mới về. Nhưng không bao giờ ông cho tôi đi theo. Tôi được ba gởi
trong chùa để sư cụ sai vặt, và dạy cho biết chữ. Nhớ lại ngày nào, sư cụ cũng
thấy cha con tôi hàng ngày gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương
tình gọi lại hỏi thăm và cho cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa. Với
trí hiểu biết non nớt của mình, tôi không biết ba tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng
tôi biết chắc chắn một điều:
“Ý chí mãnh liệt để
ông sinh tồn vì không muốn con mình côi cút, bơ vơ…”
Tôi không sao quên, đó là
ngôi chùa nghèo nằm sát bên bờ sông Bảo Định (Thành phố Mỹ Tho) nước ròng, nước lớn lửng lờ
xuôi chảy. Những ngày gió lạnh mưa chan đi xin về
đến chỗ ở, có khi ba tôi bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu cứu, sư nấu nước gừng
nóng cho uống, sư châm cứu, cho đốt củi lửa hơ, và xức dầu nắn bóp để ba tôi
giãn gân cốt, và từ từ khỏe lại…
“Hoàng thiên bất
phụ hảo tâm nhân”
Tôi vẫn nhớ chiều hôm đó,
cha con tôi vui mừng và hết sức ngạc nhiên. Bởi có ông khách qua đường dừng lại
cho ba tôi một số tiền lớn! Một số tiền rất lớn với một người mù đi xin ăn bữa
đói bữa no… Vị thần độ mạng của cha con tôi,
chính là một đồng đội cộng sự với ba ngày xưa. Giờ ông là một ngoại kiều về
thăm quê hương bất ngờ gặp lại… Kể từ sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa,
và gánh nặng xót xa trong lòng ba có phần nào được nhẹ đi.
Cứ mỗi sáng sớm, khi vầng
thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi… Thành phố
Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con
cười nói trên đường đến trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ…
tâm hồn tôi se thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong long...
Mỗi ngày như mọi ngày, tôi dắt
ba ra ngã tư Giếng Nước, ở đầu đường có nhiều người qua lại. Giúp ông treo tấm
ni-long che nắng che mưa để ngồi bán vé số, chiều tối tôi mới đến dắt ba về.
Cha con tôi đi giữa thành phố lên đèn, qua những ngôi biệt thự đồ sộ nguy nga
tráng lệ, qua những nhà hàng, khách sạn cao ngất trời của bọn tư bản đỏ… Chúng
đang phè phỡn vui cười, sống sa hoa trong đau khổ của nhân dân nghèo khổ...
Khi vui, ba thường kể cho
con gái mình nghe những chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say
sưa, với niềm tin lẫn niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín… Dần
dà ba tôi đã lấy lại mức sống bình thường trong tâm hồn, và thỉnh thoảng tôi
còn bắt gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ông.
Ngày đó, nắng Sài Gòn đẹp lắm! Phố phường rực
rỡ vàng màu cờ và sắc áo lính. Những người lính chiến trên Bốn Vùng Chiến Thuật
đại diện các quân binh chủng, từ các chiến trường trở về dự trong ngày Đại lễ.
Ngồi tán dóc với mấy bà
trong xóm, bà Tám y tá (chích thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước:
- Mấy chị biết con bà Hai bán bánh bò, bánh da
lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu mặc bộ đồ lính Thủy Quân Lục Chiến,
cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành “Ngày
Quân lực 19 tháng 6” Ôi trông cậu ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai
phong quá chừng chừng đi!
Bà Tư bán gạo, góp chuyện:
- Thế
cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì
các em trong xóm lượn qua lượn lại nườm nượp hà! Họ mong coi có được lọt vào giếng
mắt xanh của chàng, để làm người yêu lính chiến miền xa không?
Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở
to mắt ngạc nhiên, lên tiếng:
- Mấy chị nói “chơi hay nói giỡn”, bộ có vậy
thiệt hả, sao tôi không biết vậy cà?
Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến,
tài xế xe đò đường Long An, Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn
chuyện thiên hạ sự. Tánh tình chị trẻ trung và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư chị
cười khè khè chêm vào những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống
gân cổ trỗi giọng:
- Có chớ, sao không thật! Mấy
bà nghĩ xem:
“Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly
bôi/ Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở
về là khi nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy
qua câu đầu kia: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp
tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/
Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời mấy trăm người… Có
ai bằng đôi ta đâu…”
Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh đít thiếu
điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho chàng ta là đàng khác…
Coi bộ chưa đã, chị hứng chí
lớn tiếng:
- Nhưng “Sức
mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì hai bông mai vàng trên ve áo cậu
Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi
học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh nghèo mạt rệp… Chê cho đã chớ có biết
đâu anh chàng lính chiến Nhân “nhà nghèo, nhưng
học giỏi, và đẹp giai” giờ anh ta tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong
xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi ngày xưa lỡ dại chê nhằm người
ta... đó mà!
Các bà phá lên cười rộ vui vẻ
rồi trở về nhà ai phận nấy. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình
dân, vui vẻ, tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi ai đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay
chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói
hành nói tỏi, hay có ác ý với ai…
Cho đến một ngày kia, chàng
Nhân dắt về giới thiệu với mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy
người bạn ngoại quốc ghé mua hàng “PX” (cửa hàng của quân đội đồng minh, không
có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ dễ dãi, thương yêu và luôn chiều chuộng
con. Bà nghĩ giờ con bà cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho
anh.
Thế là đám cưới nhà binh được
tổ chức đơn sơ nhưng đầy đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi,
nhưng bà Hai cũng đi đủ lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười
chê mẹ con bà.
Sau ngày cưới,
Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi
ba tháng mới về thăm gia đình một lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho
tên Nghĩa (Nguyễn Thị Nhân Nghĩa) con của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng
Thủy…
Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng
sung sướng ở nhà trông coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó
đa! Bà để cho con mình yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi làm! Thuở đó, ở
góc nhỏ của phương trời miền Nam tự do, có gia đình bà Hai, không giàu sang
nhung lụa, nhưng ấm êm hạnh phúc dâng đầy.
Rồi thời thế đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” thì giặc phương Bắc
ào át tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc bắt
cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không bao
lâu vợ anh đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác, lượm lon… khổ
cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu cuộc sống nghèo nàn chờ
ngày con trai trở về…
(Đó là những gì Nghĩa nghe
bà nội kể lại, và cô hiểu biết suy xét theo thời gian tuổi lớn khôn dần…)
Bà chủ tiệm nước Cao Thăng ở
chợ thành Mỹ Tho, thường đi chùa làm việc từ thiện… Qua lời sư, bà biết được
tình cảnh cha con tôi. Nên khi sắp sửa trốn chạy khỏi nước Cộng sản nầy… bà cho
hai cha con tôi một chỗ ngồi ở dưới tàu chở mấy trăm người vượt biên.
“Một chỗ ngồi
nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ
đi tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát
bao la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng ( chủ tàu vượt biên…) đối với
cha con chúng tôi”
Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một
người đi. Nhân nhường cho con gái đi, còn ông thì ở lại!
Nghĩa khóc sướt mướt vùi đầu
vào ngực ba bệu bạo:
- Con không đi, con không đi đâu! Con không thể
xa ba… Chết sống chúng ta có nhau ba ơi…
Cặp mắt sâu hõm hàng ngày
như hai cái hố nhỏ của ba tôi càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh
lùng bảo tôi:
- Nghĩa, hãy trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không?”
Giọng sũng nước mắt:
- Dạ có, dạ có… trên cõi đời nầy người con kính
yêu nhứt là bà nội và ba… Ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin
ba đừng bắt con phải xa ba… Cho dù nơi con sắp đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn
Bồng lai tiên giới cũng vậy, nếu không có ba con sẽ không đi đâu ba ơi…
Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt
tóc nghẹn lời thổn thức:
- Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì
tương lai của con… Qua bên đó may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người
khác xứ, sẽ được đi học, và tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba
không lo cho con được! Dù muốn lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người
thất bại bị kẻ thù trù dập cố tình hủy diệt thì làm sao lo… Ở đây chúng ta ăn
không no, lạnh không áo, vô gia cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ
về đâu? Và con còn chuyện quan trọng phải thay ba đang làm dang dở… Con ơi, trả
hiếu cho ba, thì con hãy nghe lời ba! Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi
đó con…
Tôi ôm chặt lấy ba vừa khóc vừa
trả lời:
- Dạ con nghe ba… Con sẽ quyết làm những gì ba
muốn, ba dặn dò… Con nghe ba, con nghe ba! Con thương ba lắm ba ơi!
Trong cuộc đời bé nhỏ của
tôi, chưa bao giờ tôi sung sướng bằng! Dù sau nầy ngày tôi ra trường Y khoa, nhận
bằng bác sĩ ở Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ suốt đời kiếp nầy để
không bao giờ quên ơn người, ơn đời.
Sáng hôm đó trời trong, mây
tạnh và nắng hồng rạng rỡ chiếu lung linh trên cành cây so đũa. Lác đác trên những
cành ẻo lả, bông so đũa trắng như mây trời và điểm những trái dài xanh như ngọc,
mong manh treo tòn ten trên cành ở hiên sau chùa. Tôi ngồi ôm bọc áo quần cũ vá
chằng vá chịt của cha con tôi. Nhưng lòng tôi ngập tràn hạnh phúc… cho dù trước
mắt là hầm chông, là bẫy mìn… tôi vẫn thản nhiên tiến bước, vì có ba đi bên cạnh
cuộc đời với tôi! Mặc dù ba tôi là người tàn phế, đang ngồi đó, trầm ngâm chẳng
nói lời nào, trong đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng
trên khuôn mặt hằn nét thống khổ, kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi sức sống,
niềm tin và niềm hy vọng mảnh liệt vô biên!
Trong đoàn người ngồi chờ xuống
tàu lào xào, ồn ào lúc to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở
giữ yên lặng… Tôi nhớ rất rõ, mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên.
Tôi buồn rầu vì phải sắp xa người cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp
dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ, khi
lòng đang ngổn ngang trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Ngồi
dựa gốc câythút thít khóc một mình, tôi lơ đãng đưa mắt nhìn trời xanh mây trắng,
nhưng trong tâm tư tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang
kín trên cao… Và tôi cũng nghĩ dại, mong trời sập xuống chết hết cho rồi!
Từ trong Chánh điện bước ra,
dáng sư cao gầy. Mặt sư lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư bảo:
- Nghĩa, cha con đâu, ông đi bán vé số rồi à?
Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang khóc đó hả?
Tôi mau lẹ lấy tay quẹt
nhanh những giọt nước mắt còn đọng trên mi:
- Dạ, con khóc vì không muốn xa ba con! Tội
nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con ra chỗ bán vé số, không ai
rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn… Con thương ba con lắm sư cụ ơi…
Nhịn không được, tôi khóc ồ
lên! Sư vuốt tóc tôi chép miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh
hòa cùng tiếng mõ chuông lại ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang,
trầm hương theo gió nhè nhẹ thoảng bay…
Chiều đó tôi dắt ba đến gặp
sư, như sư đã dặn dò. Tôi thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng
trước sân chùa. Sư vẫn điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng
tôi:
- Nghe thấy hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ
Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn một thể…
Cha con tôi quì xuống lạy
sư! Không nói gì, tay lần chuỗi, mắt u buồn hiền lành, sư từ tốn khẽ bảo:
- Cầu xin Phật Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi
chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của một người cha như anh, đã làm
động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui như vậy… Anh phải luôn ăn hiền ở
lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có lòng… Tôi sẽ cầu an cho cha con anh…
Sư quay qua vuốt tóc tôi:
- Nghĩa, sư biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới
bờ bến tự do con ráng học hành… làm người tốt, để trả hiếu cho cha con và trả
ơn đời…
Mười mấy ngày trên đường vượt
tuyến sóng gió biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo.
Trên Hành trình vượt biên của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng
vàng. Chủ tàu đóng cho Việt cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736” Tàu vượt biên chúng tôi chết gần
cả trăm người vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức…
“Huyệt mộ người
cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng đường biển
nầy!”
Hôm nay cũng trên chuyến tàu ra biển, tôi
theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù
Alcatraz, ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California.
Nhìn trời nước bao la, nhìn
thành phố San Fransico nhà cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền
nhau. Cả thành phố dưới bầu trời rạng rỡ nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ
trên mặt nước trong xanh lao xao sóng bủa chập chùng.
“Ba kính yêu của
con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm nhìn trời xanh,
in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi là đà. Nắng mai chiếu lung linh, gió
mát thổi bồng mái tóc con và là là trên mặt nước biển xanh, trong vắt thấy cả
cá lội nhởn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… Con gái ba không phụ
lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ làm việc ở bịnh
viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành nghề trong các
đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các nước vùng dân
nghèo… cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố quốc, vì nơi
đó vẫn còn chế độ Cộng sản bất công và đói nghèo, khốn khổ...
Sư cụ giúp chúng ta đã viên
tịch… Gia đình ông Cao Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada
(bà chủ qua đời từ mấy năm trước) các con ông đã thành nhân.
Lời dạy dỗ của
ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa
ba đi lính vì vì an nguy cho gia đình và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba
cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng
Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con gái ba làm những gì con có thể làm được như
ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và…
Ba ơi, mặc dù
ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con,
nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con thấy tủi thân không có ba như các bạn bè.
Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy quà kia cho cha, trong ngày lễ báo hiếu,
vinh danh cha…
Thưa ba, mỗi
năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con
xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ
phụ.
Ba đã cho con dáng dấp hình
hài lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất
cả, tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện mà ba dặn dò chỉ dạy…
Nhưng con vẫn
còn nợ ba! Trước khi lìa đời, ba đã trăn trối: “...Trước khi qua đời ba còn nhắc
nhở/ …Hoàn cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/
Trên đất nước mấy nghìn năm Văn Hiến…” Thưa ba, chúng con những người trẻ lưu
vong sẽ hoàn tất trong ngày không xa… sẽ dong ruỗi con đường ba đi còn dang dở…”
Ba ơi “Con còn nợ ba”!
Trong tuyển
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com
LỚI NÓI DỐI CỦA CHA
Gia đình nghèo, mẹ cha lớn tuổi
Mới cưới nhau,
không hỏi, không xin.
Suốt cuộc đời
bẩy nổi ba chìm,
Tần tảo nuôi bầy
con bốn đứa.
Cuộc sống là một
chuỗi gian khổ.
Thường cơm
rau, ba bữa lót lòng.
Nhà ven sông,
nhưng cá cũng không.
Vì cha yếu, mẹ
thường bệnh hoạn.
Có cá ăn, kể
là thịnh soạn.
Nhưng luôn
luôn tôi nhận thấy rằng
Cha chỉ dành
ăn đầu và xương.
Tôi thắc mắc hỏi
ông sao vậy.
Cha nghiêm nghị,
nói như răn dậy:
"Cha già
rồi, thường thấy nhức đầu.
Các Cụ dậy hễ
đau ở đâu
Thì cứ ăn thật
nhiều thứ đó.
Cha lại còn bị
đau xương nữa.
Nên xương, đầu
phải cố mà ăn.
Cốt là để bồi
dưỡng bản thân!"
Chúng tôi
nghe, đinh ninh là thật.
Năm mẹ con
chia nhau phần thịt,
Còn xương, đầu
dồn hết cho cha.
Một đôi lúc
tôi cũng nghi ngờ,
Phân vân hỏi,
thì cha cười bảo:
"Lúc trước
đây, khi Cha còn nhỏ,
Nội cho ăn thịt
đã đời luôn,
Đến bây giờ
còn ớn tởn thần!
Khi các con lớn
khôn sẽ hiểu!"
Rồi sau này
qua thời niên thiếu,
Anh em tôi có
thể thay cha
Mò cua, bắt
cá, lội sông hồ.
Cuộc sống đỡ vất
vơ, vất vưởng.
Cha cũng có thịt
ăn thỉnh thoảng,
Nhưng vẫn dành
từng mảng xương, đầu.
Có lẽ muốn chứng
tỏ trước sau
Ông không hề
tào lao, nói dối.
Tháng ngày
qua, vật dời, sao đổi,
Cha ra đi, về
cõi vĩnh hằng.
Còn phần tôi,
theo với tháng năm
Đã ổn định,
không giầu sang lắm,
Cũng gọi là dư
dả, êm ấm.
Vợ con hiền,
thảo, chẳng thua ai.
Những bữa ăn,
thỉnh thoảng đôi ngày
Có món cá, vợ
tôi sửa soạn.
Tôi nhớ lại những
ngày cay đắng
Dặn vợ giữ những
mảng đầu, xương
Cho riêng tôi.
Nàng rất cảm thông
Nên đầu, xương
xẻ riêng một chỗ.
Con gái tôi,
ngạc nhiên, hỏi bố:
"Sao Bố
ăn lạ thế, Bố ơi?"
Tôi mỉm cười:
"Bố lớn tuổi rồi
Đầu thường
đau, xương hay nhức nhối!
Ăn đầu, xương
tốt thôi, con gái!
Sẽ giúp Bố khỏe
lại mấy hồi!"
Nói vậy rồi,
nhớ đến cha tôi,
Nước mắt bỗng
tuôn rơi trên má!
CHẨM TÁ NHÂN
(phóng tác)
06/03/2014
KHÓC CHA!
Ôi thôi Bố mất
mất rồi!
Mặt trời rụng
xuống đời tôi còn
gì!?
Bố ơi sao Bố vội
đi!?
Cho lòng con
trẻ khóc bi đoạn trường
Cuộc đời những
lẽ vô thường
Nhưng lòng con
vẫn đau thương ngập tràn
Cha hiền sớm mất
than ôi!
Con đành chịu
tiếng mồ côi với đời
Từ nay thôi hết
mất rồi
Bóng cha đâu nữa
tô bồi cho con.
Linh hồn cha
có hay chăng tá
Nỗi niềm con từ
ngả chia ly
Đớn đau thay cảnh
phân kỳ
Con nào dám
nghĩ biệt ly bao giờ
Lòng con chết điếng lặng lờ
Con đà đánh mất
giấc mơ của mình
Đời con đã mất
bình minh
Bồi hồi nghĩ đến
tử sinh chẳng ngờ
Con như đang sống
trong mơ
Ngậm ngùi nhớ
đến ấu thơ từng ngày
Con những muốn
mơ màng giấc mộng
Đời thơ ngây
êm ái thuở xưa!
Xót thay trong
lúc đang mơ
Con nào ngờ được
có giờ biệt ly
Tình phụ tử
tìm chi thấy nữa
Chỉ vì kia ngọn
lửa vô tình
Vô tình đốt
cháy thân hình
Vô tình đốt
cháy mối tình thiêng liêng!
Củng chỉ vì ngửa
nghiêng Đất Nước
Tính phụ tử tạm
bước chia xa
Ai ngờ trời nổi
phong ba
Nên tình phụ tử
cách xa thật rồi!
Cha ơi con đôi
lời bày tỏ
Nỗi niềm con
vò võ từ đây
Tình cha thật
quá sau dày
Công ơn sinh
dưỡng đời này khắc sâu.
Chắp tay xin một
câu con nguyện
Cầu Tam Bảo thể
hiện cho cha
Nguyện xin Đức
PHẬT DI ĐÀ
Từ bi tiếp dẫn
về Nhà Tây Phương.
Khấu đầu trước
di hình con lạy
Lạy cha hiền
xin hãy thương con
Để con tỏ chút
lòng son
Những lời cha
dạy con còn khắc ghi
Con nguyện
theo hương cha đi!!./.
Tha Nhân trưởng nam ai khấp
ngày 30/11/2001 nhằm ngày
16/10, Tân tỵ
(nh»ng ngày tháng tÜ Çau
ǧn, 4/17/01)
Publié par Caroline Thanh
Huong à dimanche, juin 21, 2015
شركة تنظيف قصور بجدة
ReplyDeleteشركة تنظيف بيوت بالرياض
افضل شركة ترميم منازل بجدة