Nước Pháp tiễn đưa JEAN D’ORMESSON
http://www.caidinh.com/trangluu1/sinhhoat/sinhhoatthegioi/nuocphaptienduajean.htm
Nước Pháp tiễn đưa JEAN D’ORMESSON
(Trông người, lại gẫm đến ta. Có người làm văn hoá khi chết được
đối xử long trọng như thế này chưa?)
Các
quân nhân mang linh cửu Jean d’Ormesson trong buổi quốc lễ tại điện Invalides,
Paris, ngày
08/12/2017. AFP/Pool/François Mori.
Tổng Thống Pháp Macron, với hai tổng thống tiền nhiệm Sarkozy, Hollande cùng với hàng trăm khuôn mặt văn hóa, sáng nay, thay mặt cả nước Pháp, tiễn đưa nhà văn hàng đầu Jean d’Ormesson vừa từ trần.
Emmanuel Jean-Michel Frédéric Macron is a French politician who has been President of France and ex officio Co-Prince of Andorra since 14 May 2017
François
Gérard Georges Nicolas Hollande is
a French politician who served as President of France and ex officio Co-Prince
of Andorra from 2012 to 2017.
Emmanuel Macron đặt lên quan tài một chiếc bút chì theo ý nguyện của người quá cố, một nhà văn 92 tuổi còn viết bằng bút, lúc nào trong túi cũng có 4 cây bút để sẵn sàng viết. D’Ormesson nói
“viết văn rất khó, nhưng khó hơn nữa là ngừng viết.”
Có những người lạc quan, yêu đời đến độ người ta ngạc nhiên thấy họ cũng từ trần, như Jean
d’O, mặc dù ông đã 92 tuổi.
Huyền thoại sống
Jean d’Ormesson là nhà văn vua biết mặt, chúa biết tên (giao du với những Tổng thống, Thủ tướng…), nhưng cả nước coi như một người trong gia đình, nhờ gần 50 cuốn sách và sự tham dự của ông trên truyền thanh, truyền hình, từ những chương trình văn hóa có uy tín tới những chương trình bình dân nhất.
Jean Bruno Wladimir François de Paule Le Fèvre d'Ormesson was a French novelist. He was the author of forty books,
the director of Le Figaro from 1974 to 1979, and the Dean of the Académie
française.
Một triệu người theo dõi chương trình đặc biệt về Jean d’Ormesson đêm qua, con số khán giả kỷ lục với một chương trình về văn chương, trong khi các đài khác có những chương trình hấp dẫn đám đông: football, ca nhạc, phim đủ loại và tưởng niệm một ca sĩ nổi danh nhất cũng vừa từ trần, Johnny Halliday.
Jean d’Ormesson là một huyền thoại sống (mythe
vivant). Một ông già rất trẻ, một nhà quý tộc rất bình dân, một nhà văn kiến thức mênh mông nhưng
ngôn ngữ đơn giản. Nhất là cặp mắt xanh ranh mãnh và một niềm lạc quan không có gì lay chuyển nổi. Jean d’Ormesson được coi là một “nhà
văn của hạnh phúc”
(écrivain du bonheur).
Văn của ông nổ vui như rượu sâm
banh, là một liều thuốc bổ.
Đó là một trường hợp hy hữu, vì trong văn chương Pháp, theo một tác giả, từ Baudelaire, Flaubert, hạnh phúc là điều cấm kỵ. Voltaire là nhà văn hạnh phúc cuối cùng. Sau đó, văn chương đồng nghĩa với bi kịch, với bi quan, với mặt trái của xã hội. André Gide nói: với những tình cảm tốt, người ta làm những cuốn tiểu thuyết dở.
Charles Pierre Baudelaire was a French poet who also produced notable work as an essayist, art critic, and one of the first translators of Edgar Allan Poe.
Gustave Flaubert was a French novelist. Highly influential, he has been considered the leading exponent of literary realism in his country. He is known especially for his debut novel Madame Bovary, his Correspondence, and his scrupulous devotion to his style and aesthetics
François-Marie
Arouet, known by his nom de plume Voltaire, was a French Enlightenment writer, historian, and
philosopher famous for his wit, his criticism of Christianity—especially the
Roman Catholic Church—as well as his advocacy of freedom of speech, freedom of
religion, and separation of church and state.
Sự thực, văn Jean d’Ormesson nhẹ nhàng, không
một chút làm dáng, kênh kiệu, nhưng diễn tả những suy nghĩ sâu xa của một tác giả uyên bác, thạc sĩ triết, tốt nghiệp đại học văn chương uy tín nhất: Normal Sup. Như Oscar nói: cái sâu xa ở ngay trên bề mặt. Emmanuel Macron nhắc đến cái nhẹ nhàng, trang nhã của Jean d’O:
“nhẹ nhàng
không có nghĩa là hời hợt, chỉ trái nghĩa với nặng nề.”
Pléiade
Jean d’Ormesson là một nhà văn được quần chúng ưa chuộng, nhưng cũng được giới văn hóa nhìn nhận.
Tác phẩm của ông được in trong Pléiade, một ấn bản đặc biệt của nhà xuất bản Gallimard dành cho những nhà văn có uy tín trên thế giới. Thường thường là những nhà văn đã qua đời, vì không có
gì chắc chắn hơn để đánh giá một nhà văn hơn là thời gian.
Cùng với André Gide, Milan Kundera, Aragon…, d’Ormesson thuộc những nhà văn hiếm hoi được in trong Pléiade khi còn sống. D’Ormesson không khỏi hãnh diện: “Đó là giải Nobel của tôi” và nói với Gallimard: từ nay, sách Pléiade (rất đắt, dành cho những người say mê văn chương) sẽ trở thành best sellers.
André Paul Guillaume Gide was a French author and winner of the Nobel Prize in Literature. Gide's career ranged from its beginnings in the symbolist movement, to the advent of anticolonialism between the two World Wars.
Milan Kundera is a Czech writer who went into exile in France in 1975, becoming a naturalised French citizen in 1981. Kundera's Czechoslovak citizenship was revoked in 1979. He was given a Czech citizenship in 2019.
Louis Aragon was a French poet who was one of the leading voices of the surrealist movement in France. He co-founded with André Breton and Philippe Soupault the surrealist review Littérature. He was also a novelist and editor, a long-time member of the Communist Party and a member of the Académie Goncourt.
Cái tựa dài thoòng của cuốn sách cuối cùng (2016) tóm tắt nhân sinh quan của tác giả:
“Je dirai malgré tout que cette vie fut belle” (Tôi sẽ nói cuộc đời này dù sao cũng thật đẹp).
Jean d’O có lý
do để thấy cuộc đáng sống.
Giòng dõi quý tộc (gia đình giao du
với những người như
Sigmund Freud, Charles Darwin, Stefan Zweig…), ông lớn lên trong những lâu đài, tác phẩm đều là best
sellers, từ cuốn đầu tay tới
cuốn cuối cùng, giám đốc nhật báo Le
Figaro, kết hôn và hạnh phúc với con gái ông vua
đường (Béghin Say), vua báo chí. Mỗi sáng, bạn bỏ một viên đường vào ly café, đọc một tờ báo, bạn làm giầu cho gia đình Béghin.
Tiểu thuyết của Jean d’O được yêu chuộng, vì mặc dù đặt bối cảnh trong giới quý tộc, nhưng vẽ lại cả một thờI
đại của xã hội Pháp. Jean d’O không phải là một nhà văn “nombriliste”, coi cái rốn của mình là trung tâm vũ trụ, như đa số các nhà văn Pháp hiện đại. Jean d’O thuộc truyền thống những nhà văn nhân bản như Balzac, Standhal.
Ngoài tiểu thuyết, tác phẩm của ông gồm đủ loại: tùy bút, biên khảo, về đủ mọi góc cạnh liên hệ tới đời sống.
Một cái gì
bất ổn
Cuốn tiểu thuyết “Au Plaisir de Dieu”,
một thứ “Gone With The Wind” (Cuốn theo Chiều Gió), mô tả đời sống thăng trầm của chính gia đình ông, một gia đình quý tộc. Cuốn sách best
seller trở thành phim, thu hút hàng triệu khán giả. Dấu hiệu của một tác phẩm lớn: mỗi người tìm thấy mình trong tác phẩm, mặc dù không sống trong cùng một bối cảnh, một giai cấp xã hội.
Văn phong của Jean d’O nhẹ nhàng, trang
nhã, nhưng đề cập tới những vấn đề nhân sinh với con mắt triết gia.
Sinh ra với cái thìa bằng bạc trong miệng, vào đời với vé tàu hạng nhất, như ông nói,
Jean d’O có những cái nứt rạn trong đời sống, cũng như trong tâm hồn.
Ông nói, qua nụ cười ranh mãnh: tôi viết cuốn sách đầu tiên để tán gái, và
92 tuổi, tôi vẫn chạy theo phụ nữ, không biết để làm gì. Nhưng thú thực, nghiêm trang hơn:
“Nếu tôi hoàn toàn sung sướng, nếu tất cả đều toàn thiện, tôi đã không viết. Tôi viết bởi vì có cái gì đó bất ổn. Nhưng tôi không biết là cái gì.” (Si
j’étais tout à fait heureux, si tout était parfait, je n’écris pas. J’écris
parce que quelque chose ne va pas. Mais quoi? Je n’en sais rien)
CS chiếm Saigon, một
đại họa
Thuộc phe hữu, giám đốc nhật báo Le Figaro, ông đã cùng với Raymond Aron tích cực bênh vực miền Nam VN, trong khi hầu hết trí thức có khuynh hướng thiên tả
Người ta nhớ những cuộc tranh luận nẩy lửa giữa Jean d’O và các ký giả Cộng Sản về chiến tranh VN.
Ông viết: việc CS chiếm
Pnom Penh và Sài
gòn là một đại họa. Bởi vì người ta muốn nói gì thì nói, không ai có thể chối cãi có một luồng gíó tự do (un air de liberté) trước khi rơi vào tay Cộng Sản.
Câu tuyên bố của ông khiến cả đám trí thức thiên tả xông vào, đả kích. Ca sĩ thiên Cộng nổi tiếng Jean Ferra làm một bản nhạc, Un air de liberté, kết án d’Ormesson tay vấy máu vì đã bênh vực những người chống Cộng. “Ah, Monsieur d’Ormesson/ Vous osez déclarer/Qu’un air de liberté/ Flottait sur Saigon/ Avant que cette ville s’appelle ville HCM” (Ông d’Ormesson/ Ông dám tuyên bố/ Một luồng gíó tự do/ Bay trên Saigon/ Trước khi thành phố mang tên HCM)
Jean
Ferrat was a French
singer-songwriter and poet. He specialized in singing poetry, particularly that
of Louis Aragon. He had a left-wing sympathy that found its way into a few
songs.
Mặc dầu vậy, Jean d’O vẫn không oán trách Jean
Ferra. Ông nói: tôi không có khả năng thù oán. Bí quyết hạnh phúc của Jean d’O: “il faut tout aimer” (Phải
yêu mọi người, mọi thứ). Nếu bạn yêu người, yêu đời, yêu cái đẹp, không bận tâm đến nhữ thù oán, tỵ hiềm; hạnh phúc không
xa.
Là người trẻ nhất (48 tuổi) khi được nhận vào Hàn Lâm Viện (Académie Française), ông là người vận động và thành công trong việc đưa một nhà văn phụ nữ đầu tiên, Margueritte Yoursenar, vào Hàn Lâm Viện dành riêng cho đàn ông từ khi thành lập, thời Richelieu.
Marguerite Yourcenar was a French novelist and essayist
born in Brussels, Belgium, who became a US citizen in 1947. Winner of the Prix
Femina and the Erasmus Prize, she was the first woman elected to the Académie française, in 1980, and the seventeenth person to
occupy seat 3.
Được đời ưu đãi, Jean d’O có tinh thần nhân bản, tranh đấu cho công bằng xã hội.
Ông nói:
“Có
hai cái hầu như không
thể đạt được, là
sự thực (la vérité)
và sự công
bằng, công
lý (la justice). Tôi ghét hai loại người: những người nghĩ mình nắm sự thực và công lý trong tay; và những người nghĩ
không nên bận tâm bởi vì
sự thực và
công lý sẽ không
bao giờ có
trên đời. Không,
biết là
không làm được, nhưng vẫn phải tranh đấu đi tới”.
Không xa tư tưởng của Scott Fitzgerald mà ông ngưỡng mộ: “Hãy ý thức rằng tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng, nhưng vẫn phải hành động để thay đổi”. Những người sáng suốt nhưng lạc quan. Lạc quan nhưng sáng suốt.
Francis Scott Key Fitzgerald was an American novelist, essayist, screenwriter, and short-story writer, although he was best known for his novels depicting the flamboyance and excess of the Jazz Age—a term which he coined.
Paris (08/12/2017)
Từ Thức
No comments:
Post a Comment