Vì sao Hoa Kỳ chưa tham gia Công ước Luật Biển – UNCLOS?
https://www.luatkhoa.org/2020/07/vi-sao-hoa-ky-chua-tham-gia-cong-uoc-luat-bien-unclos/
Vì sao Hoa Kỳ chưa tham gia Công ước Luật Biển – UNCLOS?
Published 2 weeks ago on 23/07/2020
By Nguyễn Quốc Tấn Trung
Hải quân Hoa Kỳ là lực lượng
quân sự
có sức
mạnh
khuynh loát trên tất
cả
các đại
dương
trên thế
giới
hiện
nay. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Bạn có biết Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên tuyên bố sự tồn tại của “vùng lãnh hải” (territorial sea), ban đầu vốn có chiều rộng ba hải lý tính từ bờ (được tính toán dựa theo bán kính bắn của các loại đại bác phổ biến thời bấy giờ)? Và đó là vào tận năm 1793.
Bạn có biết Hoa Kỳ cũng là quốc gia đầu tiên tạo lập và bình thường hóa các chuẩn mực liên quan đến các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển với Tuyên bố Truman 1945 (Truman’s Proclamation), khẳng định quyền độc quyền khai thác của Hoa Kỳ đối với các tài nguyên của vùng thềm lục địa của quốc gia ven biển?
Harry
S. Truman
Harry S. Truman was the
33rd president of the United States from 1945 to 1953, succeeding upon the
death of Franklin D. Roosevelt after serving as vice president. He implemented
the Marshall Plan to rebuild the economy of Western Europe, and established the
Truman Doctrine and NATO.
Hoa Kỳ tiếp tục là quốc gia dẫn đầu, và quốc gia duy nhất hiện nay có khả năng dẫn đầu các chương trình chống hải tặc, bảo vệ tự do hàng hải, cũng như sự an toàn của giao thương hàng hải quốc tế.
Nói không ngoa, Hoa Kỳ tiếp tục là một trong những “nhà xuất khẩu” các chuẩn mực pháp lý quốc tế quan trọng nhất thế giới, đặc biệt trong vấn đề hàng hải.
Tuy nhiên, sẽ có điều làm
một số bạn đọc bất ngờ: Hoa Kỳ vẫn không phải là
thành viên chính thức của Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật biển
(UNCLOS: United Nations Convention on the Law of
the Sea). Nghĩa là cường quốc mạnh nhất trên biển
không nằm
trong số 168
quốc gia thành viên của Công ước
này.
Câu hỏi ngay lập tức hiện lên trong đầu của
chúng ta: Làm sao anh có thể đi phản đối
quốc gia A, phê phán quốc gia B là không tuân thủ UNCLOS, không tôn trọng các nguyên tắc luật biển, trong khi chính bản thân anh còn không phải là thành viên của UNCLOS và dường khi không bị các nguyên tắc đó điều chỉnh?
Hoa Kỳ và
quá trình hình thành UNCLOS
Như hầu hết các chế định và văn bản quy phạm pháp luật quốc tế đương đại quan trọng khác, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia nhiệt thành hỗ trợ quá trình đàm phán hình thành nên UNCLOS.
Quá trình đàm phán công ước này hoàn tất vào ngày 10/12/1982, nhưng chính quyền Mỹ của Tổng thống Ronald Reagan (1981 – 1989) không ký kết.
Theo nhận định của nhà ngoại giao James L Malone, trường Phái đoàn UNCLOS III của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã dành hết sức mình để cổ võ và pháp điển hóa vào bản thảo UNCLOS các giá trị liên quan đến tự do hàng hải và tự do liên lạc trên biển, quyền khai thác và phát triển tài nguyên biển, cũng như đẩy mạnh động lực hình thành những nhóm nghĩa vụ bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển.
Cựu hạm trưởng George Galdorisi
thuộc Hải quân Hoa Kỳ lại có nhiều tiếc nuối về mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và UNCLOS. Ông nói:
“Giá
mà chúng ta chỉ
là một
kẻ
ngoài cuộc
của
quá trình đàm phán UNCLOS, hay giá mà chúng ta phản đối UNCLOS một cách rõ ràng, mạnh mẽ
và minh thị,
việc
không ký kết
tham gia UNCLOS của
Hoa Kỳ
có lẽ đã
không gây bất
ngờ đến
vậy.
Đằng
này, chúng ta lại
là một
trong những
thành viên chủ động,
tích cực
nhất
trong suốt 25 năm soạn
thảo, đàm
phán của
UNCLOS. Chỉ
vì một
chút phật
lòng về
các điều
khoản
liên quan đến đáy
biển
và khai thác đáy biển, việc Hoa Kỳ không ký kết và tham gia UNCLOS khiến cho nhiều quốc
gia ngỡ
ngàng.”
Ông nhận định, sự đảo chiều chính sách này sẽ để lại những hệ quả chính trị bất lợi cho Hoa Kỳ.
Tổng thống tân cử Bill Clinton thăm văn phòng đương
kim tổng
thống
Ronald Reagan ở
Los Angeles ngày 27/11/1992. Ảnh: Reuters.
Đến năm 1994, chính quyền Bill Clinton thương thảo và dẫn đến một thỏa thuận bổ sung cho UNCLOS có tên gọi “Thỏa ước liên quan đến việc thực thi Chương XI
Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
1982” (Thỏa ước 1994). Theo đó, văn bản này làm rõ trách nhiệm, quy trình và thời hạn phê duyệt các dự án thăm dò, khai thác khoáng sản đáy biển của các nhà thầu, xác định vùng bảo tồn… Thỏa thuận này, cùng với UNCLOS, đã được trình lên cho Thượng viện để cân nhắc phê chuẩn, song cũng không làm hài
lòng các nhà lập pháp Hoa Kỳ cho đến tận ngày nay.
Kết quả là,
khi UNCLOS bắt đầu
có hiệu lực từ ngày
16/11/1994, không có tên Hoa Kỳ
trong danh sách thành viên. Khi Thỏa ước 1994 bắt đầu
có hiệu lực từ ngày
28/7/1996, cũng không có tên Hoa Kỳ.
Nhìn chung, có thể đồng tình rằng Hoa Kỳ có vai trò rất lớn, và thậm chí là thể hiện sự đồng thuận rất cao đối với hầu hết các giá trị và nguyên tắc mà UNCLOS hướng tới. Tuy nhiên, họ đã không thể trở thành một thành viên chính
thức của Công ước quan trọng này.
Quan ngại của Hoa Kỳ là
gì?
Theo nghiên cứu và sử liệu, điều khiến chính quyền của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và cả lưỡng viện Hoa Kỳ không hài lòng nhất về UNCLOS là chương về đáy biển, tài nguyên đáy biển và phương pháp khai thác thương mại chúng (Chương XI).
UNCLOS ghi nhận đáy biển
(seabed) là “di sản
chung” của
nhân loại.
“Di sản chung” của nhân loại thì
thật là một
cách chơi chữ cao quý sa hoa, nhưng trong quá trình đàm phán, nó lại bị biến thành giả định
cho rằng bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng phải được
hưởng lợi từ việc
khai thác tài nguyên đáy biển. Trong khi đó, những quốc gia đầu tư công
sức và tiền của vào việc
phát triển,
khai thác, thăm dò các khoáng sản lại không được hưởng lợi đúng
với thành quả lao động
của họ.
Điều này được cho là biểu hiện của việc cài cắm các học thuyết cộng sản vào pháp luật quốc tế của Liên Xô, đi ngược lại các giá trị, triết lý kinh tế – chính trị nền tảng của dân chủ tư sản phương Tây.
Các học giả và những nhà ngoại giao Hoa Kỳ cũng đặc biệt lên án cái gọi là Cơ quan Quản lý Đáy biển Quốc tế (International
Seabed Authority – ISA). Hoa Kỳ từng tin tưởng và khẩn thiết kêu gọi cho các nỗ lực quốc tế nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của các quốc gia mong muốn tham gia vào quá trình khai thác tài nguyên đáy biển, nhưng không cho rằng ISA sẽ là lời giải đáp cho các
vấn đề đó.
Hoa Kỳ khẳng định họ sẽ không chấp nhận trao quyền quản lý tài nguyên biển và những biên giới đại dương (mà con người vẫn còn chưa thể khai phá hết) cho một tổ chức quốc tế quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả.
Công bằng mà nói thì cơ cấu tổ chức của ISA phức tạp không kém gì chính bản thân Liên Hiệp Quốc, với Đại hội đồng (Assembly), Hội đồng điều hành
(Executive Council) cùng các Ủy ban Pháp lý và Ủy ban Công nghệ (Legal and Technical Commission)… và nhiều ban bệ quản lý khác. Các quyết định mà ISA đưa ra do đó chắc chắn vẫn dựa vào số đông, đậm đặc bản chất chính trị.
Tuy nhiên, cũng nhiều học giả cho rằng, nếu không có sự tồn tại của
ISA, các vùng đáy biển
sâu không thuộc thẩm quyền của bất kỳ quốc gia
nào có thể dễ dàng bị các
quốc gia giàu có (mà điển
hình là Hoa Kỳ) độc
quyền khai thác. Điều này khiến cho
khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia
ngày
càng tăng cao.
Dù bạn chọn phe nào đi chăng nữa, lý do khiến Hoa Kỳ quyết định đứng ngoài UNCLOS chỉ giới hạn trong các khúc mắc về Cơ quan Quản lý Đáy biển Quốc tế. Xét theo lịch sử trao đổi và đóng góp của quốc gia này, chính phủ Hoa Kỳ không phàn nàn gì về các quy định và nguyên tắc xây dựng vùng biển quốc gia, các vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển.
Phân
chia ranh giới
chủ
quyền
quốc
gia trên biển
theo UNCLOS. Ảnh:
oceanexplorer.noaa.gov.
Hoa Kỳ có
trách nhiệm
tuân thủ các
nguyên tắc của UNCLOS hay không?
Đây là một câu hỏi khó.
Về cơ bản, Hoa Kỳ không phải là thành viên của UNCLOS, nên theo hình thức mà nói, họ không có trách nhiệm tuân thủ các điều khoản của UNCLOS.
Tuy nhiên, vào năm 1982, không lâu sau khi nhậm chức, chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan đã tạm hoãn mọi quá trình đàm phán liên quan đến UNCLOS để thực hiện một cuộc rà soát chính sách (policy review) liên quan đến dự thảo của Công ước này.
Kéo
dài hơn
một năm và
tiêu tốn
rất
nhiều
công sức
của
các chuyên gia Hoa Kỳ,
họ đi đến
kết
luận
rằng
hầu
hết
các điều
khoản “phi đáy
biển”
về
tự
do hàng hải,
hàng không trên biển,
các vấn đề
về
vùng biển,
thềm
lục địa,
chủ
quyền
và quyền
chủ
quyền
biển… đều
phản
ánh đúng thực
tiễn
trước
nay của
các tập
quán công pháp quốc
tế.
Không
chỉ
vậy,
với
sự
tham gia nhiệt
tình của
Tòa án Công lý Quốc
tế
(ICJ: International Court of Justice) trong các vụ việc
liên quan đến
phân định
ranh giới
biển
và tranh chấp
lãnh thổ
biển
từ
trước đến
nay, rất
nhiều
các quy định
của
UNCLOS tiếp
tục được
khẳng định
là tập
quán công pháp quốc
tế.
Để liệt kê, các vấn đề như:
1/ Chủ quyền của quốc gia
ven biển tại lãnh hải
(territorial sea);
2/ Việc xác định đường
cơ sở thẳng theo mức thủy triều thấp;
3/
Quyền qua lại vô
hại (innocent passage);
4/ Vấn đề về vịnh và vũng tàu;
5/ Vấn đề phân định
ranh giới biển giữa hai
quốc gia lãnh hải tiếp
giáp.v.v.
đều đã được xác định là tập quán pháp quốc tế, và vì vậy điều chỉnh tất cả các quốc gia của cộng đồng quốc tế.
Trên cơ sở lập luận của chính quyền Hoa
Kỳ, và trên cơ sở nguyên tắc
pháp luật quốc tế, Hoa
Kỳ đã tự cam
kết trách nhiệm
tuân thủ hầu hết các
điều khoản của UNCLOS từ rất lâu. Chỉ là
chúng nằm dưới dạng tập quán pháp mà thôi.
Xét về thực tiễn, Hoa Kỳ cũng cho thấy là
một quốc gia
có trách nhiệm khi
thực thi các nguyên tắc UNCLOS. Trong một bài viết trước đây của Luật Khoa, có thể thấy việc tuyên bố vùng
lãnh hải,
xác định
các vùng quyền chủ quyền của Hoa Kỳ và
việc giải quyết các khác biệt ranh giới biển cùng các quốc gia hàng xóm đều
dựa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, đôi bên cùng có lợi.
Tranh chấp phân định
ranh giới biển ồn ào
nhất mà Hoa Kỳ từng tham gia là việc xác định
ranh giới thềm lục địa
tại Vịnh Maine đầu
thập niên 1980 với Canada. Tuy nhiên, thay vì dùng vũ lực quân sự chiếm đảo, thay vì quần thảo
vùng biển nước bạn đến
tận gần
lãnh hải bằng tàu đánh cá trang bị
vũ trang hay các tàu hải trình như
Trung Quốc làm
với Việt
Nam, Hoa Kỳ chấp thuận yêu
cầu của
Canada, mang tranh chấp ra
xét xử tại Tòa án Công lý Quốc tế.
***
Sẽ là không thực tế nếu cho rằng
Hoa Kỳ đã làm
trọn vẹn nghĩa vụ của một cường quốc
hàng hải khi
họ nhất quyết không phê chuẩn, để từ đó trở thành thành viên của UNCLOS. Tuy nhiên, các thông tin trên cho thấy chính quyền Hoa
Kỳ nhận thức rất rõ
nghĩa vụ tuân
thủ của
mình đối với hầu hết các
nghĩa vụ nằm trong UNCLOS, dưới dạng
các nguyên tắc
pháp lý phổ
quát. Nếu nói
về trách nhiệm của một quốc gia lớn đối
với các vấn đề
trên biển,
Hoa Kỳ vẫn là một đối
tác đáng tin cậy hơn Trung Quốc rất nhiều.
No comments:
Post a Comment