Ải Nam Quan 4 (hết)
MAI THÁI LĨNH – ẢI NAM QUAN TRONG HIỆN TẠI (4)
Chuyên mục: Chính trị - Xã hội, Quan hệ Việt – Trung
Thẻ: Ải Nam Quan > Hiệp định Biên giới 1999 > Hữu Nghị Quan
Thẻ: Ải Nam Quan > Hiệp định Biên giới 1999 > Hữu Nghị Quan
4. Lai
lịch bất minh của Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building)
Mãi cho
đến gần đây, hầu như tất cả các tấm ảnh chụp Hữu Nghị Quan đều giống như tấm
ảnh chúng ta thấy sau đây (ảnh
25), nghĩa là chỉ nhìn thấy cửa quan, không nhìn thấy toàn cảnh
như trong các tấm ảnh của thời Pháp thuộc.
Thấp
thoáng phía sau cổng Hữu Nghị là một công trình kiến trúc mà phía Trung Quốc
gọi tên tiếng Anh là Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building), nhưng trong
tiếng Việt lại có cái tên hết sức hấp dẫn là “Lầu thành kiếu Pháp”, hoặc có khi
còn gọi là “Lâu đài kiểu Pháp” hay “Pháp Quốc Lầu” (ảnh 26).
“Lầu
thành kiểu Pháp” từ đâu mà có? Tại sao một công trình kiến trúc xây trên đất
Trung Hoa lại có phong cách kiến trúc kiểu Tây phương với đường nét tương tự
như những tòa nhà được xây dưới thời thuộc địa mà chúng ta thường nhìn thấy
trong một số thành phố ở Việt Nam?
Ảnh 26: Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building)
Lời giới
thiệu Hữu Nghị Quan đăng trên một trang mạng “hợp tác” giữa Trung Quốc và
Việt Nam có tên là Trung-Việt (www.sinoviet.com) cho biết lai lịch
của công trình kiến trúc này như sau: “Năm Quang Tự đời Thanh, tri phủ Thái
Bình Cam Nhữ Lai tái dựng lại lầu ải bằng một kiến trúc lâu đài kiểu Pháp (Pháp
Quốc Lầu), dỡ bỏ Miếu Quan Đế và Đền Chiêu Trung. Sau này tuy có tiến hành
nhiều lần tu bổ, nhưng vẫn giữ nguyên mạo diện Pháp Quốc Lầu. Trong thời kỳ
chiến tranh chống Nhật, thành lầu lại bị phá hủy, nay chỉ còn lại tầng dưới tức
là cổng thành hình vòm.”[1]
Ảnh 27: Bảng quảng cáo “Lầu thành kiểu Pháp”
Căn cứ
vào nội dung của một tấm bảng quảng cáo được dựng tại khu vực Hữu Nghị Quan
(ảnh 27),
người ta được biết: Tòa nhà kiểu Pháp (hoặc Lâu đài Pháp Quốc) được xây dựng
vào năm Quang Tự thứ 22 (1896), dựa theo thiết kế của các kỹ sư người Pháp. Tòa
nhà này là trụ sở của “Sở quân sự và ngoại giao tại Trấn Nam Quan” (Zhennan
Pass Military anh Foreign Affairs Agency) do chính phủ nhà Thanh thành lập; cơ
quan này chịu trách nhiệm về các vấn đề ngoại giao và an ninh công cộng tại địa
phương[2]. Không
xa tòa nhà là Đền Quan Công và một ngôi miếu để tưởng nhớ những người đã ngã
xuống trong việc bảo vệ Trấn Nam Quan vào năm 1885. Cũng dựa theo tấm bảng
quảng cáo, cả hai công trình (tức ngôi đền và ngôi miếu) đều “đã bị cháy
trong cuộc chiến tranh kháng-Nhật”.
Ảnh 28: Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc
Sự thật
là như thế nào? Vua Quang Tự (1869 – 1908) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh
trong lịch sử Trung Hoa. Ông trị vì từ năm 1875 đến năm 1908 với niên hiệu là
Quang Tự. Ông mất vào năm 1908, trước Từ Hi Thái hậu một ngày. Cho dù Tòa
nhà kiểu Pháp được xây dựng vào năm 1896 hay muộn hơn (nghĩa là trước năm
1908) thì tòa nhà này phải hiện diện trên những tấm ảnh chụp vào thời điểm đó.
Nhưng nhìn vào tấm ảnh chụp ải Nam Quan từ phía Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 (ảnh 28), chúng ta
không hề thấy bóng dáng của “Lầu thành kiểu Pháp”. Để có thể thấy rõ hơn, chúng
ta có thể xem xét tấm bưu ảnh của P. Dieulefils chụp ải Nam Quan từ một vị trí
sát cửa ải (ảnh 29).
Trên tấm bưu ảnh có dán tem và đóng dấu bưu điện này, phía trên bên trái có ghi
hàng chữ bằng tiếng Pháp “reçue 9 août 1910” (nhận ngày 9.8.1910). Có thể nói
cho đến năm 1910, quang cảnh của ải Nam Quan giống hệt như trong tấm ảnh.
Ảnh 29: Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc
Tấm ảnh
này chụp trên lãnh thổ của Trung Quốc, vì bức trường thành chạy về phía bên
phải tấm ảnh dẫn đến dãy núi đá vôi nằm ở phía tây của ải Nam Quan. Ở phía đông
(bên trái tấm ảnh) gần sát cửa ải là Miếu Quan đế và đình Chiêu Trung. Tấm ảnh
này cho thấy phía sau ải Nam Quan chỉ là một ngôi nhà rất bình thường, không hề
có bóng dáng của “Lầu thành kiểu Pháp” mà chúng ta nhìn thấy ở phía sau Hữu
Nghị Quan ngày nay.
Ảnh 30: Quân Pháp đầu hàng quân Nhật Bản
Bây giờ
chúng ta tiếp tục xem xét hai tấm ảnh do Chân Mây sưu tầm. Tác giả chú
thích ảnh 30 như
sau: “Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng). Những người bảo vệ Ải Nam
Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)”. Tòa nhà này rõ ràng là của quân
đội Pháp. Ảnh chụp cho thấy tù binh người Pháp người nằm kẻ ngồi trong tư thế
bại trận. Những người lính đứng gác là người Nhật. Điều rất dễ nhận ra là hình
dáng của tòa nhà này rất giống với Tòa nhà Pháp Quốc nằm ở phía sau Hữu Nghị
Quan ngày nay (ảnh 31).
Ảnh 31: Tòa nhà kiểu Pháp (2007)
So sánh
hai bức ảnh nói trên, chúng ta có thể tìm ra một cách giải thích tương đối hợp
lý hơn về nguồn gốc của Tòa nhà kiểu Pháp: Tòa nhà kiểu Pháp là của người Pháp,
do người Pháp xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam trong khoảng thời gian từ đầu thế
kỷ 20 cho đến trước năm 1940. Sau này, khi xây lại Hữu Nghị Quan, phía Trung
Quốc đã dời cửa quan đến một vị trí khác trên lãnh thổ Việt Nam, vì thế tòa nhà
kiểu Pháp lọt vào lãnh thổ Trung Quốc. Và để hợp lý hóa việc một ngôi nhà có
kiến trúc kiểu Pháp lại nằm trên lãnh thổ Trung Quốc, các quan chức của Đảng
cộng sản Trung Quốc đã bịa đặt ra câu chuyện “Lâu đài Pháp Quốc được xây dựng
dưới thời vua Quang Tự”.
5. Ảnh
toàn cảnh của Hữu Nghị Quan
Cuối
cùng, dấu hiệu quan trọng nhất khiến chúng ta hoài nghi “Hữu Nghị Quan không
phải là ải Nam Quan” chính là việc chưa bao giờ có một tấm ảnh chụp toàn cảnh
Hữu Nghị Quan tương tự như tấm ảnh chụp toàn cảnh ải Nam Quan sau đây (ảnh 32).
Lý do duy
nhất có thể giải thích sự kiện này một cách hợp lý là: do phía Trung Quốc đã
dời cửa ải đến một vị trí khác cho nên phía Việt Nam không thể nào chụp được
những tấm ảnh tương tự. Còn về phía Trung Quốc thì lẽ đương nhiên là họ tìm
cách giấu kín, bởi vì chỉ có họ mới biết được vị trí của ải Nam
Quan ngày xưa hiện nay đang ở đâu.
Đến đây
thì chúng ta có quyền đặt câu hỏi: Đảng
Cộng sản Việt Nam có biết được sự thật này hay không? Nếu biết thì tại sao
từ đó cho đến nay, kể cả trong bản bị vong lục năm 1979, sự thật đó vẫn
không được phơi bày?*
Ảnh 32: Ải Nam Quan vào đầu thế kỷ 20
Tóm lại,
mất “Ải Nam Quan” trước hết là mất đi một biểu tượng của lòng yêu nước, một
bằng chứng về ý chí kiên cường của một dân tộc đã đứng vững được ở phương Nam
trước một quốc gia hùng mạnh ở phương Bắc – một quốc gia suốt hàng ngàn năm nay
chưa hề từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ. Ngoài ý nghĩa tinh thần đó, việc
mất đất tại ải Nam Quan còn có những hậu quả hết sức nặng nề. Trước hết là diện
tích bị mất. Không chỉ là vài trăm thước đất trước Hữu Nghị Quan hay dọc theo
tuyến đường sắt mà mất đi những “vị trí hiểm trở” trên tuyến phòng thủ có tầm
quan trọng hàng đầu về mặt quân sự. Người ta có quyền đặt câu hỏi: trên toàn bộ tuyến phòng thủ Lạng
Sơn, trong số 12 cửa ải của thời nhà Nguyễn, ngày nay phía Việt Nam còn giữ
được bao nhiêu “vị trí hiểm trở” và điều đó có ảnh hưởng gì đến công tác bảo vệ
biên giới trong trường hợp xảy ra chiến tranh?
Cho nên
cho dù sự thật là rất đau lòng, chúng ta buộc lòng phải thừa nhận: người Việt
Nam đã thật sự mất “ải Nam Quan”, và đã mất từ lâu, ít nhất là từ khi phía Trung
Quốc xây dựng lại Hữu Nghị Quan. Có thể nói kịch bản lấn chiếm ở khu
vực ải Nam Quan bao gồm 3 bước: (1) đặt điểm nối ray vào sâu trong lãnh
thổ Việt Nam (2) dời cửa ải sang một vị trí khác (3) phá hủy cột mốc số
18 và dời cột Km số 0. Như vậy, Hiệp ước Biên giới năm 1999 chỉ là
giai đoạn cuối nhằm hợp pháp hóa một quá trình lấn chiếm lâu dài. Phía
Trung Quốc đã thành công trong việc xóa bỏ ải Nam Quan bằng cách chiếm
đóng những cao điểm có giá trị về mặt quân sự, vô hiệu hóa hoàn
toàn “vị trí hiểm yếu” nổi tiếng này.
Điều mỉa
mai của lịch sử là: khi cửa ải còn có tên là ải Nam Quan, Việt Nam vẫn còn giữ gìn được
biên cương của Tố Quốc ở khu vực này. Ngay cả dưới thời Pháp thuộc, mặc dù người
Pháp có nhượng một dải đất 100 m thì ải
Nam Quan vẫn còn đó. Nhưng khi ải Nam Quan được đổi
tên thành Mục Nam
Quan thì sự hòa thuận (mục có
nghĩa là hòa thuận) chỉ là màn kịch che đậy một âm mưu chiếm đoạt sắp diễn ra.
Còn khi cửa ải được đổi tên thành Hữu
Nghị Quan thì chính cái “tình hữu nghị” bên ngoài đó lại là
một thứ màn khói để ngụy trang cho một quá trình chiếm đoạt thật sự – vô cùng
tinh vi và thâm hiểm.
Vào
khoảng thập niên 30 hoặc 40 của thế kỷ 15, biên cương phía bắc của nước ta được
xác định một cách rõ ràng tại “vị trí hiểm yếu” của ải Nam Quan. Người Trung
Hoa gọi đó là Trấn Nam
Quan[3] có
nghĩa là “cửa quan trấn giữ ở phía nam” của đất nước họ, hoặc gọi bằng một
cái tên có ý nghĩa xấu hơn nữa là Trấn
Di quan (cửa quan để trấn áp bọn người man di, mọi rợ). Người
Việt Nam không bác bỏ hoàn toàn cái tên đó, mà bỏ đi chữ trấn, chỉ gọi là ải Nam Quan hay cửa quan Nam Giao. Chữ
Nam mà người Việt dùng có nghĩa là nước
Nam (nước ở phía Nam của Trung Hoa), tương tự như chữ Nam
trong Đại Nam hay Việt Nam. Đó là một cách gọi nhún nhường, khiêm tốn nhưng thể
hiện ý chí kiêu hùng, không khuất phục. Trong thực tế, suốt từ đó cho đến khi
mất nước vào tay người Pháp, người Việt qua nhiều bước thăng trầm vẫn không
đánh mất ải Nam Quan. Thế mà ngày nay, khi ải Nam Quan bị cướp đoạt, người ta
vẫn có thể thản nhiên ca ngợi “tình hữu nghị” với 16 chữ vàng. Không hiểu xét
về mặt ngôn ngữ, “tình hữu nghị” phải được định nghĩa như thế nào đây? Và thứ
ngôn ngữ vừa ngụy biện, vừa mang ý nghĩa tráo trở đó có tác dụng gì trong việc
giáo dục lòng yêu nước cho các thể hệ trẻ Việt Nam thông qua các nhà trường
được mệnh danh là xã
hội chủ nghĩa?
Phát biểu
tại “Lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền
Việt Nam - Trung Quốc” diễn ra vào chiều ngày 23.2.2009 tại Hữu Nghị quan,
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định:
“Việc
hoàn thành công tác phân giới cắm mốc là một thông điệp quan trọng khẳng định
với thế giới mối quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước.”
Để đáp
lễ, ông Đới Bỉnh Quốc – Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, trưởng đoàn đại biểu
Trung Quốc tham dự buổi lễ, đã khẳng định một cách có ý nghĩa:
“Công tác
phân giới cắm mốc liên quan đến chủ quyền quốc gia, liên quan đến lợi ích thiết
thực của nhân dân hai nước. Chúng tôi vui mừng nhận thấy, dưới sự quan tâm và
chỉ đạo chung của lãnh đạo hai nước, căn cứ vào Hiệp ước Biên giới Đất liền hai
nước Trung Quốc – Việt Nam, thông qua hữu nghị hiệp thương, cuối cùng chúng ta
đã đạt được kết quả cùng thắng, hai bên cùng có lợi, hoàn thành tâm nguyện
chung của nhân dân hai nước”[4]
“Chúng ta
đã đạt được kết quả cùng thắng, hai bên cùng có lợi”. “Chúng ta” đây là ai?
Có thể
hiểu “chúng ta” và “hai bên” là hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, hay
chính xác hơn là Bộ Chính trị của hai Đảng. Cả hai bên này có thể “cùng thắng”
và “cùng có lợi”. Thế nhưng, kết quả này không thể phản ánh “tâm nguyện chung
của nhân dân hai nước”. Bởi vì, không rõ nhân dân Trung Quốc hưởng được lợi lộc
gì trong chuyện này, nhưng điều chắc chắn là “nhân dân Việt Nam” hoàn toàn là
kẻ chịu thiệt thòi, dân tộc Việt Nam là người thua cuộc.
Làm sao
có thể coi nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam là người thắng cuộc khi đường
biên giới đã từng bị đẩy lùi một lần vào cuối thế kỷ 19 – vì đất nước bị mất
chủ quyền, nay lại tiếp tục bị đẩy lùi một lần thứ hai – giữa lúc chủ quyền
quốc gia được coi là “trọn vẹn”?
Làm sao
có thể coi là thắng lợi khi Ải
Nam Quan – đã từng là hình ảnh của biên cương phía Bắc, đã
từng kết tinh máu xương của biết bao thế hệ người Việt trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, đã từng là biểu tượng tinh thần của một dân tộc bất khuất, ngày nay
lại lọt mất tăm vào cõi u minh nào đó trên lãnh thổ của Trung Quốc?
Đà Lạt,
những ngày cuối năm Kỷ Sửu – đầu năm Canh Dần 2010,
MAI THÁI
LĨNH
Tài liệu
tham khảo
1) Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979
Trước
đây, trang mạng Bauxite Vietnam có đăng một bản điện tử của cuốn sách này,
nhưng từ khi trang mạng này bị tin tặc phá hoại, không thể tìm thấy bản này
nữa. Có thể xem bản sao chụp toàn bộ cuốn sách bằng scanner tại địa chỉ:
http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=6686
2) Một số
hình ảnh sử dụng trong bài này được trích từ bài viết:
Chân Mây,
“Tài liệu hình ảnh hiếm quý chứng minh Ải Nam Quan là của Việt Nam”,
Diễn đàn Một góc
phố, 18.6.2009:
http://motgocpho.com/forums/showthread.php?t=11258&goto=nextoldest
3) Ngoài
những hình ảnh lấy từ các tài liệu được trích dẫn, các hình ảnh còn lại là do
tác giả tự tìm kiếm trên Internet, qua các trang web chuyên về hình ảnh như
Panoramio, Google – Images, v.v…
4) Một số
tin tức được lấy từ trang mạng VietNamNet. Vì là một trang mạng chính thức, bị
ràng buộc bởi chính sách “tự kiểm duyệt” hiện hành, các bản tin thường xuyên bị
bóc gỡ hay sửa chữa. Do đó nếu có sự sai lệch về nội dung trong các bản tin
trích dẫn, điều đó hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của tác giả.
© 2010
Mai Thái Lĩnh
© 2010
talawas
[1]“Cửa
khẩu Hữu Nghị Quan”, Sinoviet.com:
http://www.vn.sinoviet.com/bordertrade/cvport/youyi-gate/youyigate-1.asp
Lời
giới thiệu này viết sai chính tả ở vài chỗ, đã được sửa lại cho đúng
với ngữ pháp tiếng Việt.
[2]Trong
bản tiếng Hoa, cơ quan này được gọi là Sở Thông tin.
[4]Biên giới
Việt – Trung và thông điệp mới, VietNamNet, Thứ Hai, 23/02/2009:
http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/831522/
No comments:
Post a Comment