Ngày Đông Đức chính thức sát nhập với Tây Đức; 3/10/1990
Ngày 03
tháng 10, 1990
·
1990 – Năm bang tái lập của Cộng hòa Dân chủ Đức chính thức sáp nhập vào Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hòa
Dân chủ Đức chấm dứt tồn tại.
Cộng hòa Dân chủ Đức
Cộng hòa Dân chủ Đức
Deutsche Demokratische Republik
1949–1990
Quốc kỳ
Quốc huy
Khẩu hiệu Tiếng
Đức:
"Proletarier aller Länder, vereinigt Euch!"
Tiếng Việt: Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!
Tiếng Việt: Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!
1973–1976 Willi Stoph
1989 Egon Krenz
1989–1990 Manfred Gerlach
1990 Sabine
Bergmann-Pohl
1949–1964 Otto Grotewohl
1964–1973 Willi Stoph
1973–1976 Horst Sindermann
1976–1989 Willi Stoph
1989–1990 Hans Modrow
1990 Lothar de
Maizière
Lập
pháp Volkskammer
Thành lập 7
tháng 10 1949
Nước
Đức thống nhất 3 tháng 10
1990
Mật
độ 148,7
/km² (385,2 /sq mi)
1Mặc dù .dd được bảo lưu
theo mã ISO dành cho Đông Đức, mã này chưa bao giờ được
hiện thực trước khi quốc gia này giải thể.
2Mã quốc gia 37 được hủy vào mùa xuân năm 1992. Dải số được chia nhỏ,
và phân lại cho các quốc gia Liên Xô cũ.
Cộng hòa Dân chủ Đức (tiếng Đức: Deutsche
Demokratische Republik, DDR;
thường được gọi là Đông Đức) là một quốc gia nay
không còn nữa, tồn tại từ 1949 đến 1990 theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tại phần phía đông nước Đức ngày
nay.
Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập tại
vùng quản lý của Quân đội Xô-viết tại Đức ngày 7 tháng 10 năm
1949, sau khi Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía tây trong khu vực
do Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản
lý.
Lãnh thổ của Cộng hòa Dân chủ Đức là các
bang Mecklenburg-Vorpommern, Brandenburg, Saxony-Anhalt, Thuringia, Saxony và Đông Berlin ngày
nay.
Thành lập từ năm 1949, tuy nhiên, đến năm
1955, Đông Đức mới tuyên bố đầy đủ quyền tự trị như một thể chế nhà nước.
Dầu vậy, quân đội Liên Xô vẫn đóng trên
lãnh thổ nước này theo Hiệp định Potsdam giữa bốn cường quốc chiến thắng trong Chiến
tranh thế giới thứ hai là
Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô.
Vì quân đội khối NATO còn
hiện diện tại Tây Đức và Tây Berlin, Đông Đức và Berlin trở thành tâm điểm
của Chiến tranh Lạnh. Đông Đức là thành viên Hiệp ước Warszawa, Hội đồng
Tương trợ Kinh tế và đồng thời là
đồng minh thân cận của Liên Xô.
Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi XHCN, khi sắp
sáp nhập vào Tây Đức, ở thời
điểm 1989, GDP của Đông Đức đạt 159,5 tỷ USD (thời giá 1989) so
với 945,7 tỷ USD của Tây Đức, trong khi dân số Đông Đức bằng khoảng 1/4 so với
Tây Đức (16 triệu so với 63 triệu), tức là tính theo thu nhập bình quân đầu
người thì Đông Đức bằng khoảng 64% so với Tây Đức (9.679 USD so với 15.300 USD,
thời giá 1989)[1].
Tiếp theo sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm 1989, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất đi đa số ủng hộ của người dân trong Quốc hội tại
cuộc bầu cử ngày 18 tháng 3 năm
1990.
Ngày 23 tháng 8 cùng năm, Quốc hội Đông Đức
quyết định rằng lãnh thổ quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của
Cộng hòa Liên bang Đức kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1990.
Kết quả của sự sáp nhập này, Cộng hòa Dân
chủ Đức chính thức chấm dứt sự tồn tại của nó.
Lịch
sử
Tại Hội nghị Potsdam Đồng minh trên thực tế sáp nhập các tỉnh và các vùng
của Đức phía đông giới tuyến Oder-Neisse.
Trước khi Thế chiến II kết thúc, vùng sau này sẽ được gọi là
Đông Đức trên thực tế nằm ở trung tâm nhà nước Đức và vì thế được gọi là
"Mitteldeutschland" (Trung hay Trung
Đức).
Ở phía đông của các con sông Oder và Neisse là các tỉnh Phổ rộng
lớn: Pomerania, Đông
Phổ, Tây Phổ, Thượng Silesia và Hạ Silesia, và
phía đông Neumarkcủa Brandenburg.
Trong Thế chiến II, các
lãnh đạo Đồng Minh quyết định tại Hội nghị Yalta rằng biên giới Ba Lan
thời hậu chiến sẽ được di chuyển về hướng tây đến giới tuyến Oder-Neisse, và "Trung Đức" cũ
khi đó trên thực tế là giới hạn phía đông của nước Đức.
Các phác
thảo vùng thời hậu chiến
Những cuộc thảo luận tại Yalta và Potsdam cũng
vạch ra kế hoạch chiếm đóng và quản lý nước Đức thời hậu chiến dưới một Hội
đồng Kiểm soát Đồng Minh, hay ACC, của bốn cường quốc gồm Hoa Kỳ,
Anh, Pháp và Liên bang Xô viết.
Tại Hội nghị Potsdam mùa hè năm 1945, sau khi chiến
sự tại châu Âu chấm dứt, Pháp, Anh Quốc, Hoa
Kỳ và Liên Xô quyết định chia Đức thành
bốn vùng chiếm đóng. Mỗi nước kiểm soát một phần của Đức cho
tới khi chủ quyền của Đức được khôi phục.
Länder (các bang) Mecklenburg-Vorpommern, Brandenburg, Saxony, Saxony-Anhalt, Thuringia, thuộc
Vùng Liên Xô tại Đức (trong tiếng Đức: Sowjetische Besatzungszone,
hay SBZ). Những phản đối của Liên Xô với những thay đổi về kinh tế chính trị
tại các vùng chiếm đóng phía tây (Hoa Kỳ, Anh và Pháp) dẫn tới việc nước này
rút khỏi ACC năm 1948 và sau đó SBZ phát triển thành Đông Đức, gồm cả khu vực
Berlin do Liên Xô chiếm đóng. Đồng thời các vùng chiếm đóng phía tây được củng
cố để hình thành nên Tây Đức (hay Cộng
hoà Liên bang Đức, FRG).
Ba bang của Đức và Berlin bị chia cắt cuối
năm 1949. Cộng hoà Liên bang Đức(Tây Đức) gồm các vùng chiếm đóng của Hoa Kỳ, Anh, Pháp
(trừ Saarland). Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập từ Vùng
Liên Xô.
Chính thức, cả các Đồng minh phương Tây và những người cộng sản đều cam kết duy trì một
nước Đức thống nhất sau cuộc chiến tại Thoả thuận Potsdam năm 1945, ít nhất trên
giấy tờ.
Bản Ghi chú Stalin năm
1952 đề xuất thống nhất nước Đức và sự rút lui của siêu cường khỏi Trung
Âu, nhưng Hoa Kỳ và
đồng minh của mình từ chối.
Stalin chết đầu năm 1953.
Dù chính trị gia nhiều quyền lực của Liên Xô Lavrenty Beria trong
một thời gian ngắn có theo đuổi ý tưởng thống nhất nước Đức sau cái chết của
Stalin, ông đã bị bắt và tước bỏ quyền lực sau một vụ đảo chính hồi giữa năm 1953.
Lavrentiy
Pavlovich Beria (tiếng Gruzia: ლავრენტი პავლეს
ძე ბერია,
Lavrenti Pavles dze Beria; tiếng Nga: Лавре́нтий Па́влович Бе́рия; 29 tháng 3 năm 1899 – 23 tháng 12 năm 1953)
Người kế nhiệm ông, Nikita Khrushchev, bác
bỏ hoàn toàn ý tưởng bàn giao đông Đức để rồi bị sáp nhập, đánh dấu sự chấm dứt
của bất kỳ một sự xem xét nghiêm túc nào với ý tưởng thống nhất cho tới khi
Cộng hòa Dân chủ Đức tổ chức trưng cầu sáp nhập nước Đức vào cuối năm 1989.
Nikita
Sergeyevich Khrushchyov
Khi nước Đức bị
phân chia sau chiến tranh, Berlin, thủ
đô cũ của Đức, bị chia thành bốn khu vực. Đông Đức và phần còn lại của Khối
Đông Âu coi Đông
Berlin là thủ đô của Đông Đức, dù về mặt pháp lý điều này bị
tranh cãi bởi các Đồng Minh phương Tây bởi
toàn bộ thành phố về chính thức bị coi là một lãnh thổ chiếm đóng bị
quản lý bởi thiết quân luật thông qua Hội
đồng Kiểm soát Đồng Minh. Trên thực tế, Hội đồng Kiểm soát Đồng
Minh nhanh chóng trở nên bất hoà khi cuộc Chiến tranh Lạnh trở nên căng thẳng, và
chính phủ Đông Đức bỏ qua những giới hạn kỹ thuật của luật pháp về việc Đông
Berlin sẽ liên kết thế nào với Cộng hoà Dân chủ Đức.
Xung đột về vị thế của Tây
Berlin dẫn tới cuộc Phong toả Berlin, khi chính phủ Xô viết cấm quá
cảnh đường bộ giữa các vùng phía tây của Đức và Tây Berlin, dãn tới cuộc Không vận Berlin trên
quy mô lớn.
Phân chia
quốc gia
[color=red][b]Ở cuối cuộc chiến, chính quyền Xô viết dùng vũ lực
thống nhất các thành viên của Đảng Cộng sản Đức và Đảng Dân chủ Xã hội bên trong Đảng
Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (SED), đảng này giành chiến thắng
trong cuộc bầu cử năm 1946 với sự hỗ trợ của áp lực Xô viết và sự tuyên truyền
về tính tàn bạo của Phát xít. Toàn bộ tài sản và ngành công nghiệp được quốc
hữu hoá, và Cộng hoà Dân chủ Đức được tuyên bố thành lập ngày 7 tháng 10 năm
1949, với một hiến pháp mới đề cao chủ nghĩa xã hội và trao cho SED quyền lực
tuyệt đối bên trên Mặt
trận Quốc gia và những đảng chính trị khác, với "các danh sách
thống nhất" được SED đưa ra để đảm bảo sự kiểm soát của họ. [/color][/b]
Lãnh đạo đầu tiên của Đông Đức là Wilhelm
Pieck, Tổng thống đầu tiên (và duy nhất) của Cộng hoà Dân chủ Đức.
Friedrich Wilhelm Reinhold Pieck was a German politician and Communist
Tuy nhiên, sau năm 1950 quyền lực thực sự nằm trong tay Walter
Ulbricht, thư ký thứ nhất của SED cầm quyền.
Ulbricht năm
1970
Cho tới năm 1952, Cộng hoà Dân chủ Đức gồm các bang Mecklenburg-Vorpommern, Brandenburg, Saxony-Anhalt, Thuringia, Saxony và
thủ đô, Đông
Berlin. Các khu vực hành chính này gần như tương ứng với các bang
(Länder) và tỉnh (Provinzen) thời trước chiến tranh trong khu vực Đông Đức do
Liên bang Xô viết quản lý theo các điều khoản của Thoả thuận Potsdam hậu chiến.
Hai phần nhỏ còn sót lại của các bang đã bị Ba Lan sáp nhập sau
cuộc chiến (Pomerania và Hạ Silesia) vẫn
thuộc Cộng hoà Dân chủ Đức và được nhập vào cách lãnh thổ bên cạnh.
Trong cuộc cải
cách hành chính năm 1952, các bang bị xoá bỏ và được thay thế bởi
14 quận nhỏ hơn. Các quận được đặt tên theo thủ phủ của chúng: Rostock, Neubrandenburg, Schwerin, Potsdam, Frankfurt
(Oder), Magdeburg, Cottbus, Halle, Leipzig, Erfurt, Dresden, Karl-Marx-Stadt (đã
được đặt tên Chemnitz cho tới năm 1953 và lại là tên này từ năm 1990), Gera,
và Suhl. Đông
Berlin được công nhận là một quận năm 1961.
Sự bồi thường chiến tranh cho
Xô viết, được lấy toàn bộ từ vùng chiếm đóng phía đông, gây một hậu quả nghiêm
trọng trên nền kinh tế Đông Đức. Trong những giai đoạn chiếm đóng đầu tiên (đặc
biệt năm 1945 và 1946), Hồng
quân chiếm khoảng một phần ba trang thiết bị công nghiệp từ
Đông Đức và chuyển về Liên Xô, với
một khoản bồi thường $10 tỷ nữa đầu thập kỷ 1950 dưới hình thức các sản phẩm
nông nghiệp và công nghiệp.[2]
Sự phát triển ngày càng nhanh của kinh tế Tây Đức đã
khiến một số lớn người Đông Đức bỏ chạy
sang phía tây. Từ thập niên những năm 50, người Đông Đức đã rời vùng Xô viết
để di cư sang phía tây. Cuộc di cư diễn ra càng làm kinh tế Đông Đức trì trệ.
Biên giới giữa hai nhà nước Đức đã gần như bị đóng cửa hoàn toàn hồi giữa thập
niên 1950 (xem Biên giới nội bộ Đức).
Vì viễn cảnh kiếm được
lương cao hơn ở phía tây, nhiều công nhân lành nghề (như bác sĩ) đã bỏ sang
phía tây, gây ra một cuộc 'chảy máu chất xám' ở phía đông. Tuy nhiên, buổi
tối ngày 13 tháng 8 năm 1961, quân đội Đông Đức đã ngăn biên giới giữa Đông và
Tây Berlin và bắt đầu xây dựng Bức tường Berlin, ngăn cách hoàn toàn Đông với
Tây Berlin.
Việc đi lại bị giới hạn chặt chẽ. Bộ an ninh nhà nước (hay Stasi),
một lực lượng an ninh có hiệu quả cao, giám sát cuộc sống của các công dân Đông
Đức thông qua mạng lưới chỉ điểm, nhân viên khắp nơi của mình.
Ngày 16 tháng 6 năm 1953, sau một quota sản xuất tăng
10% công nhân xây dựng đại lộ mới ở Đông Berlin, Stalinallee (ngày
nay được gọi là Karl-Marx-Allee),
những cuộc tuần hành của các công nhân bất bình nổ ra ở Đông
Berlin. Ngày hôm sau những cuộc biểu tình phản kháng lan khắp Đông Đức
với hơn một triệu người đình công và biểu tình trong 700 cộng đồng. Lo sợ một
cuộc bạo động, chính phủ yêu cầu quân đội chiếm đóng Xô viết trợ giúp và vào
buổi sáng ngày 18 xe tăng cùng binh sĩ được triển khai trấn áp những người biểu
tình.
Nhưng bạo động vẫn nổ ra, làm khoảng năm mươi người chết và một
làn sóng bắt giữ, bỏ tù lên tới hơn 10.000 người.[3] Sự quá cảnh giữa Tây và
Đông Berlin là khá tự do ở thời điểm ấy, có nghĩa rằng những người biểu tình và
những hành động trấn áp biểu tình của Liên Xô đã được nhiều nhà quan sát phương
Tây ghi nhận.
Năm 1971, Ulbricht bị buộc phải rời chức vụ lãnh đạo nhà nước
dưới áp lực của Liên Xô và được thay thế bằng Erich
Honecker. Ulbricht đã thử nghiệm một số cải cách, nhưng Honecker đã chặn
lại và áp đặt một hiến pháp mới sử
dụng từ "người Đức" một cách rất tiết kiệm và định nghĩa đất nước như
một nền "cộng hoà của công nhân và nông dân."
Dưới thời Honecker, Đông Đức dần được coi là thành viên có nền
kinh tế phát triển nhất của Khối hiệp ước Warszawa[cần dẫn nguồn].
Tới thập niên 1970, Tây Đức coi Đông Đức như một nhà nước trái
pháp luật, và theo Học thuyết Hallstein từ
chối các quan hệ ngoại giao với bất kỳ nước nào (ngoại trừ Liên bang Xô viết)
công nhận Đông Đức là một quốc gia riêng biệt.
Đầu thập niên 1970, Ostpolitik do Willy
Brandt chỉ đạo tiến hành một hình thức công nhận song phương giữa
Đông và Tây Đức.
Willy Brandt
năm 1980
Hiệp ước Moscow (tháng
8 năm 1970), Hiệp ước Warsaw (tháng
12 năm 1970), Thoả
thuận của Bốn Cường quốc về Berlin (tháng 9 năm 1971), Thoả
thuận Quá cảnh (tháng 5 năm 1972), và Hiệp ước Căn bản (tháng
12 năm 1972) giúp bình thường hoá quan hệ giữa Đông và Tây Đức và dẫn tới việc
cả hai nước Đức cùng gia nhập Liên hiệp quốc.
Cộng hoà Dân chủ Đức là một thành viên Liên hiệp quốc từ năm
1972 cho tới khi chấm dứt tồn tại vào năm 1989.
Ngoại
giao thể thao
Sự cạnh tranh với phía Tây cũng được tiến hành cả trong lĩnh vực
thể thao. Các vận động viên Đông Đức đã giành chiến thắng tại nhiều môn
thi Olympic. Đáng chú ý nhất là trận bóng đá duy
nhất giữa Đông và Tây Đức, tại vòng một 1974 World Cup.
Dù Tây Đức là nước chủ nhà và cuối cùng giành
chức vô địch, Đông Đức đã thắng Tây Đức với tỷ số 1-0.
"Wende"
Năm 1989, sau sự giận dữ của công chúng về các kết quả của cuộc
bầu cử chính quyền địa phương vào mùa xuân năm đó, mà bị cho là gian lận, nhiều
công dân xin visa đi ra nước ngoài, hay rời bỏ đất nước một cách bất hợp pháp.
Tháng 8 năm 1989 Hungary bãi bỏ các hạn chế biên giới của họ
và mở cửa biên giới và hơn 13.000 người đã rời bỏ Đông Đức bằng cách đi qua
biên giới "xanh" qua Tiệp
Khắc vào Hungary và sau đó vào Áovà Tây
Đức.[4] Nhiều
người khác biểu
tình chống lại đảng cầm quyền, đặc biệt tại thành phố
Leipzig. Kurt Masur, người
chỉ huy Leipzig
Gewandhaus Orchestra dẫn đầu đoàn đàm phán địa phương với chính phủ, và tổ chức
các cuộc gặp gỡ với dân chúng trong nhà hát.[5] Cuối
cùng cuộc biểu tình đã buộc Erich Honecker phải từ chức vào tháng 10, và ông bị
thay thế bởi một nhân vật Cộng sản ôn hoà hơn, Egon Krenz.
Ngày 9 tháng 11 năm 1989, vài đoạn của Bức tường Berlin bị phá
vỡ, lần đầu tiên hàng ngàn người Đông Đức vượt qua chạy vào Tây Berlin và Tây
Đức. Ngay sau đó, đảng cầm quyền tại Đông Đức rút lui. Dù có một số nỗ lực nhỏ
nhằm tạo lập một nhà nước dân chủ Đông Đức, chúng nhanh chóng bị vùi lấp bởi
những kêu gọi thống nhất với Tây Đức. Sau
một số cuộc đàm phán (những cuộc đàm phán 2+4 được
tổ chức liên quan tới hai nhà nước Đức và các cựu Cường
quốc Đồng Minh (Hoa Kỳ, Pháp, Anh, và
Liên bang Xô viết) dẫn tới thoả thuận về các điều kiện thống nhất nước Đức.
Năm bang cũ
của Đông Đức từng bị xoá bỏ năm 1952 được khôi phục. Ngày 3 tháng 10 năm 1990,
năm bang chính thức gia nhập Cộng hoà Liên bang Đức, trong khi Đông và Tây
Berlin thống nhất như một thành bang thứ ba (theo cùng kiểu như Bremen và Hamburg).
Tới ngày nay, vẫn còn có những khác biệt lớn giữa cựu Đông
và Tây Đức (ví dụ, cách sống, sự giàu có, niềm
tin chính trị và các yếu tố khác) và vì thế mọi người vẫn thường nói tới sự
khác biệt giữa đông và tây. Nền kinh tế đông Đức đã nỗ lực lớn từ khi thống
nhất, và những khoản trợ cấp lớn vẫn đang chảy từ tây sang đông.
Chính
trị
Biểu tượng SED thể hiện cái bắt tay giữa
người cộng sản Wilhelm
Pieck và Otto Grotewohlcủa Đảng Dân
chủ Xã hội khi đảng của họ sáp nhập năm 1946
Tổ chức
chính trị
Đảng chính trị cầm quyền ở Đông Đức là Sozialistische
Einheitspartei Deutschlands (Đảng Xã
hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED). Nó được thành lập năm
1946 sau chỉ thị của Liên Xô sáp nhập Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) tại vùng do Liên Xô
kiểm soát.
Thoả thuận Potsdam cho phép người Xô viết
ủng hộ một hình thức chính phủ dân chủ tại Đức, và, không giống như một số quốc
gia thuộc Khối
Hiệp ước Warsaw khác, các đảng chính trị khác được phép tồn tại.
Tất cả các đảng hoạt động ở Đông Đức đều bị bắt buộc gia
nhập Mặt
trận Quốc gia Dân chủ Đức, bề ngoài là một liên minh thống nhất của
các đảng chống phát xít. Nó bị SED kiểm soát hoàn toàn. Các thành
viên gồm:
·
Christlich-Demokratische Union Deutschlands (Liên
đoàn Dân chủ Thiên chúa giáo Đức, CDU), đã hợp nhất với CDU sau
khi thống nhất
·
Demokratische Bauernpartei Deutschlands (Đảng
Dân chủ Nông dân Đức, DBD). Đảng này đặc biệt quan trọng bởi vai trò của nông dân
trong nền kinh tế. Đảng đã sáp nhập với CDU của
Tây Đức sau thống nhất.
·
Liberal-Demokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Tự do Đức,
LDPD), sáp nhập với FDP sau thống nhất
·
Nationaldemokratische Partei Deutschlands (Đảng
Dân chủ Quốc gia Đức, NDPD), sáp nhập với FDP sau thống nhất.
Các cuộc bầu cử diễn ra với Volkskammer, nhưng hoàn
toàn bị SED/định chế nhà nước kiểm soát, như Hans Modrow đã
lưu ý. Các cuộc bầu cử được tổ chức trong các điều kiện ít hơn bí mật, với các
cử tri đưa ra lựa chọn hay bác bỏ "các danh sách thống nhất" do Mặt
trận Quốc gia đưa ra. Như trường hợp của hầu hết quốc gia Cộng sản, tỷ lệ ủng
hộ 90% hay hơn nữa là thường thấy.
Volkskammer cũng gồm các đại biểu từ các tổ chức quần chúng như Thanh niên Tự do Đức (Freie
Deutsche Jugend hay FDJ), hay Liên
đoàn Thương mại Tự do Đức. Trong một nỗ lực đưa phụ nữ tham gia vào
đời sống chính trị Đông Đức, có một Liên
đoàn Phụ nữ Dân chủ Đức, với ghế đại biểu bên trong Volkskammer.
Các tổ chức quần chúng phi nghị viện trong xã hội Đông Đức
gồm Hiệp
hội Thể dục Thể thao Đức(Deutscher Turn- und Sportbund hay DTSB),
và Đoàn kết Nhân dân (Volkssolidarität,
một tổ chức cho người già). Một tổ chức đáng chú ý khác là Hội hữu nghị Xô-Đức.
Stasi sàng lọc và thông báo hầu hết hoạt động cá nhân ở Đông
Đức, giới hạn cơ hội với những tổ chức chính trị không được phê chuẩn. Mọi tổ
chức chính thức ngoại trừ nhà thờ bị
chính phủ Đông Đức kiểm soát trực tiếp. Nhà thờ được phép hoạt động ít nhiều tự
do hơn khỏi sự quản lý chính phủ, khi họ tránh hoạt động chính trị.
Sau sự thống nhất nước Đức, SED được đổi tên thành "Đảng
Dân chủ Xã hội chủ nghĩa" (PDS) sau này sáp nhập cùng WASG của
Tây Đức để hình thành nên Đảng cánh Tả (Die
Linke). Đảng cánh Tả tiếp tục là một lực lượng chính trị ở nhiều vùng của
Đức, mặc dù đã mất nhiều quyền lực so với SED.
Cá nhân
chính trị
Erich
Honecker
Những nhà
lãnh đạo quan trọng
·
Wilhelm
Pieck - Chủ tịch KPD ở Đông Đức (1945–1946), Đồng Chủ tịch SED
(1946–1954), Chủ tịch nước Đông Đức (1949–1960)
·
Otto Grotewohl -
Chủ tịch SPD ở Đông Đức (1945–1946), Đồng Chủ tịch SED (1946–1954), Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Đông Đức (1949 - 1964)
·
Walter
Ulbricht - Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương SED (1950–1971), Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Đông Đức (1960–1973)
·
Erich
Honecker - Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương SED (1971–1989), Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Đông Đức (1976–1989)
Một số cá
nhân chính trị khác
·
Hermann Axen -
Tổng biên tập tờ Neues Deutschland của SED (1956–1978), Bí thư
Quan hệ Quốc tế của SED (1966-1989)
·
Johannes R. Becher -
Bộ trưởng Bộ Văn hóa đầu tiên (1954–1958), tác giả phần lời của bài quốc ca
Đông Đức
·
Hilde Benjamin -
Phó Chủ tịch Tòa án Tối cao Đông Đức (1949–1953), Bộ trưởng Bộ Tư pháp
(1953–1967), được đặt biệt hiệu Máy chém đỏ vì đàn áp không
thương tiếc các phần tử chính trị đối lập
·
Hans Modrow -
Bí thư Quận Dresden của SED (1973–1989), Thủ tướng Đông Đức cuối cùng của SED
(11/1989-3/1990)
·
Günter Schabowski -
Bí thư Quận Berlin của SED (1985–1989), Người phát ngôn của SED và gây ra sự sụp
đổ của Bức tường Berlin
·
Horst Sindermann -
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đông Đức (1973–1976), Chủ tịch Đại hội Nhân dân
Đông Đức (1976–1989)
·
Karl-Eduard
von Schnitzler - Phóng viên truyền hình, mang tiếng vì chương trình tuyên
truyền Der schwarze Kanal của ông
·
Willi Stoph -
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đông Đức (1964–1973 và 1976-1989), Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Đông Đức (1973–1976)
Các
thành phố lớn ở Đông Đức
(Với thống kê dân số vào năm 1988)
* "Bezirksstadt" (trung tâm quân)
Quân
đội
Giống như mọi quốc gia trong khối Xô viết, Đông Đức có các lực
lượng vũ trang riêng của mình, được gọi là Quân
đội Nhân dân Quốc gia (Nationale Volksarmee -
NVA) với bốn nhánh. Bởi Đông Đức là tiền tuyến của cuộc Chiến tranh Lạnh, quân đội Đông Đức được coi là
hiện đại nhất trong cả Khối
hiệp ước Warszawa, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong mọi thời điểm đội quân này
luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng được tập trung cho một cuộc chiến tương lai
với NATO. NVA
được chia thành bốn nhánh sau:
Ngoài ra, Cộng hoà Dân chủ Đức sở hữu nhiều lực lượng bán quân
sự dự trữ trong trường hợp nổ ra chiến tranh, như "Các
nhóm Chiến đấu của Tầng lớp Lao động" (Kampfgruppen
der Arbeiterklasse) và trong một số trường hợp, cả Stasi.
Tất cả thanh niên Đông Đức đều phải gia nhập NVA. Thời hạn phục
vụ bắt buộc là 18 tháng, ngoại trừ vì các lý do y tế đặc biệt. Với những
người từ chối
nhập ngũ vì lý do đạo lý, có một loại nghĩa vụ quân sự được gọi
là Baueinheiten (các đơn vị xây dựng) được thành lập năm 1964
dưới áp lực của nhà thờ Tin lành quốc gia. Tuy nhiên, phục vụ trong Baueinheiten không
được khuyến khích, và có một số hậu quả sau khi hết hạn phục vụ tại đây - ví
dụ, từ chối hay gặp khó khăn khi theo học cao học, vân vân.[cần dẫn nguồn] Riêng
Đông Đức là nước có hoạt động khác cho những người từ chối nhập ngũ trong số
các nước thuộc khối Đông Âu.[cần dẫn nguồn]
Phân
chia hành chính
Phân chia hành chính của Cộng hoà Dân chủ Đức
từ năm 1952
Năm 1952, như một phần của các cuộc cải
cách để tập trung quyền lực trong tay Bộ chính trị của
SED, năm Länder của
Đông Đức bị xoá bỏ, và Đông Đức được chia thành mười lăm Bezirke (tỉnh),
mỗi quận được đặt theo tên thành phố lớn nhất của nó: vùng Đất phía
bắc Mecklenburg-Vorpommern được chia giữa Bezirke Rostock, Schwerin và Neubrandenburg; Brandenburg (bao
quanh Berlin) được
tái tổ chức thành BezirkePotsdam, Frankfurt và Cottbus; Saxony-Anhalt được
chia thành Bezirke Halle và Magdeburg; vùng Đất tây nam Thuringia thành Bezirke Erfurt, Gera và Suhl; cuối
cùng, vùng Đất đông nam Sachsen được
chia giữa Leipzig, Dresden và Karl-Marx-Stadt(trước kia và sau khi Cộng hoà
Dân chủ Đức sụp đổ lại được gọi là Chemnitz). Thủ
đô Cộng hoà Dân chủ Đức, Đông
Berlin trở thành Bezirk thứ 15, dù nó vẫn giữ vị
thế luật pháp đặc biệt trong Cộng hoà Dân chủ Đức cho tới năm 1968, khi những
người dân Đông Berlin cùng toàn bộ người dân Cộng hoà Dân chủ Đức thông qua dự
thảo hiến pháp mới. Từ thời điểm này trở về sau, bất chấp Vị thế Bốn Cường quốc
và những sự phản đối của đồng minh phương Tây rằng Đông Berlin chỉ đơn giản là
khu vực chiếm đóng của Xô viết tại thủ đô Đức, Đông Berlin được coi như
một Bezirk như các tỉnh khác.
Nhân
khẩu
Dân số Đông Đức giảm đều đặn trong suốt thời kỳ tồn tại của nó,
từ 19 triệu người năm 1948 xuống còn 16 triệu năm 1990. Khoảng 4 triệu người
trong dân số năm 1948 là những người Đức bị trục xuất từ
các khu vực phía đông giới tuyến Oder-Neisse.[6]Chủ yếu
đây là hậu quả của sự di cư – khoảng một phần tư người Đông Đức đã rời bò đất
nước trước khi Bức tường Berlin được hoàn thành năm 1961, và sau thời điểm đó,
Đông Đức có tỷ lệ sinh rất thấp.[7] Điều
này trái ngược với Ba Lan, có dân số trong giai đoạn đó tăng từ 24 triệu năm
1950 (hơi lớn hơn Đông Đức) lên 38 triệu (gấp đôi dân số Đông Đức).
Kinh
tế
Hoạt động kinh tế tại Cộng hoà Dân chủ Đức.
Nền kinh tế Đông Đức có sự khởi đầu thấp kém từ sau Thế chiến II. Trong
năm 1945 và 1946 Quân đội Xô viết đã lấy đi các tuyến đường sắt và các nhà máy.
Tới đầu thập niên 1950 Liên bang Xô viết nhận bồi thường chiến tranh dưới hình
thức các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp và yêu cầu các khoản bồi thường
nặng nề khác.[2] Hạ Silesia, nơi
có các mỏ than, và Stettin, cảng tự nhiên thuận lợi, đã được trao
cho Ba Lan.
Giống như các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác,
Đông Đức có một nền kinh tế
tập trung kế hoạch hoá, tương tự như nền kinh tế Liên Xô, trái
ngược với các nền kinh tế thị trường hay kinh tế hỗn hợp của hầu hết các quốc gia
Tây Âu. Cộng hoà Dân chủ Đức gia nhập khối thương mại COMECON năm 1950. Các mục
tiêu sản xuất, giá cả và việc bố trí cung cấp vật tư đều do nhà nước đề ra,
chuyển các quyết định đó thành kế hoạch hay các kế hoạch cụ thể. Các phương
tiện sản xuất hầu như đều thuộc sở hữu nhà nước. Ví dụ, năm 1985, các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hay các hợp tác xã chiếm 96.7 phần trăm tổng thu nhập
thực của quốc gia.
Để đảm bảo giá cả ổn định cho người dân, nhà nước bao cấp 80%
chi phí cho các sản phẩm thiết yếu, từ bánh mì cho tới nhà cửa. Thu nhập trên
đầu người năm 1984 được ước tính khoảng $9,800 (xấp xỉ $21.000 dollar năm
2008), dù tỷ lệ chuyển đổi ngoại tệ được sử dụng để tính toán có thể không phản
ánh đúng sức mua. Năm 1976 tăng trưởng GDP bình quân khoảng 5.9%.[8]
Các sản phẩm xuất khẩu gồm máy ảnh với
nhãn hiệu Praktica, ô tô với
các nhãn hiệu Trabant, Wartburg và IFA, súng săn, kính lục phân và đồng hồ.
Với những người tiêu dùng Đông Đức, hàng hoá luôn thiếu hụt. Tới
tận thập niên 1960 các loại hàng hoá căn bản như đường và cà phê vẫn thiếu
thốn, dù có một số khác biệt; trong khi giá cà phê đắt (xấp xỉ 1US$ cho 200g),
bánh mì giá chưa tới 1 cent. Năm 1989, thời gian một người phải chờ đợi để mua
được một chiếc xe Wartburg mới
khoảng 13 năm.[cần dẫn nguồn] Những
người Đông Đức có bạn bè hoặc họ hàng ở Tây Đức (hay những người có thể tiếp
cận ngoại tệ mạnh), và
có tài khoản ngoại
tệStaatsbank có
thể mua cả các sản phẩm phương Tây và sản phẩm chỉ dành cho xuất khẩu của Đông
Đức tại Intershop. Cách
khác để mua được các mặt hàng hiếm là qua công ty Jauerfood của
Đan Mạch, hay qua công ty quá tặng qua thư Genex.
Lực đẩy duy nhất của nền kinh tế Đức, cũng như của tất cả các
khía cạnh khác của xã hội, là Đảng
Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức (Sozialistische
Einheitspartei Deutschlands (SED), đặc biệt là giới lãnh đạo cấp cao
của nó. Đảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình duy nhất và chính thức trong các
đại hội đảng, khi nó thông qua báo cáo của tổng thư ký, và
khi thông qua kế hoạch dự thảo cho giai đoạn năm năm tiếp theo.
Lĩnh vực tư nhân nhỏ bé nhưng không tồn tại. Năm 1985 khoảng 2.8
phần trăm sản phẩm quốc nội thuộc các doanh nghiệp tư nhân. Lĩnh vực tư nhân
gồm những người nông dân và làm vườn; các ngư dân tự do, người bán buôn, và
người bán lẻ; và những người được sử dụng trong cái gọi là các hoạt động tự do
(nghệ sĩ, tác gia và những người khác). Dù là tự kinh doanh, họ vẫn bị quản lý
chặt chẽ, thuế đánh vào họ trong một số trường hợp có thể cao hơn 90%. Số lượng
người hoạt động trong lĩnh vực tư nhân tăng chậm. Theo các thống kê của Đông
Đức, năm 1985 có khoảng 176.800 người làm tư, tăng thêm 500 so với năm 1984.
Một số lĩnh vực tư nhân khá quan trọng với hệ thống bởi những người thợ thủ
công cung cấp các phụ tùng hiếm, việc sản xuất ra chúng thường rất chậm chạp
trong nền kinh tế kế hoạch của Cộng hoà Dân chủ Đức.
Văn
hoá
Âm nhạc
Ban đầu các nghệ sĩ được chờ đợi chỉ biểu diễn bằng tiếng Đức,
nhưng cuối thập kỷ sáu mươi điều này đã thay đổi. Điều này có vẻ là một sự bắt
ép lôgic từ phía các nhà lãnh đạo đảng nhưng nó thực sự không nổi tiếng trong
giới trẻ. Có những quy định ngặt nghèo rằng mọi hoạt động nghệ thuật phải bị
kiểm duyệt với mọi khán giả mở hay bị cho là chống chủ nghĩa xã hội[cần dẫn nguồn].
Ví dụ, ban nhạc Renft, có cách hành xử chính
trị không đúng đắn, và cuối cùng đã tan rã.
Puhdys và Karat là
một trong những ban nhạc nổi tiếng nhất, đã tìm cách đưa các tư tưởng chỉ trích
vào giai điệu của mình một cách gián tiếp, họ xuất hiện trong các tạp chí nổi
tiếng của thanh niên như Neues Leben và Magazin.
Các ban nhạc rock nổi bật khác gồm Wir, Dean Reed, City, Sillyvà Pankow. Đa số
các nghệ sĩ đều thu âm theo nhãn hiệuAMIGA thuộc
sở hữu nhà nước.
Những ảnh hưởng từ phương Tây xuất hiện ở mọi nơi bởi các tín
hiệu TV và radio từ Klassenfeind (tầng lớp thù địch, có nghĩa
"kẻ thù của giai cấp công nhân") có thể được thu ở nhiều phần thuộc
phía đông, (một ngoại trừ đáng chú ý là Dresden, vì vị
trí địa lý không thích hợp của nó trong thung lũng Elbe, khiến
nó được đặt danh hiệu "Thung lũng không tín hiệu" -dù việc tiếp nhận
hạn chế radio phía tây vẫn có thể thực hiện ở đó). Ảnh hưởng phương Tây dẫn tới
sự thành lập nhiều nhóm "bí mật" với tư tưởng hoàn toàn theo phương
Tây. Một số băng nhóm trong số đó là Die Skeptiker, Die Art và Feeling B. Ngoài
ra, văn hoá hip hop cũng đã được thanh niên Đông Đức biết đến. Với các băng
video như Beat Street và Wild Style, thanh
niên Đông Đức có thể phát triển một văn hoá hip hop của riêng họ.[9] Người
Đông Đức chấp nhận hip hop với vị thể hơn là chỉ một hình thức âm nhạc. Toàn bộ
văn hoá rap đường phố xung quanh đã tràn vào trong vùng và trở thành một lối
thoát cho những thanh niên cảm thấy ngột ngạt.[10]
Âm nhạc cổ điển được khuyến khích, vì thế có hơn 50 dàn nhạc
giao hưởng cổ điển trong một đất nước có dân số chỉ 16 triệu người. Xem thêm:
Johann Sebastian Bach sinh tại lãnh thổ Đông
Đức và nơi sinh của ông ở Eisenach đã
được chuyển thành bảo tàng về cuộc đời ông, ngoài ra còn hơn 300 hiện vật từ
cuộc đời Bach. Năm 1980 bảo tàng này tiếp nhận hơn 70.000 du khách.
Tại Leipzig, một thư khố lớn với những bản ghi mọi tác phẩm âm
nhạc của Bach đã được hoàn thành, cùng với nhiều tài liệu lịch sử và những bức
thư của ông.
Hàng năm, học sinh từ khắp Đông Đức tụ tập trong cuộc thi mang
tên ông tại Đông Berlin. Bốn năm một lần, một cuộc thi âm nhạc Bach quốc tế cho
đàn piano và đàn dây được tổ chức.
Jazz
Nhà hát
Nhà hát Đông Đức ban đầu thuộc quyền quản lý của Bertolt
Brecht, ông đã đưa về nước nhiều nghệ sĩ đang bị trục xuất và tái mở
cửa Theater
am Schiffbauerdamm với Berliner Ensemble của
ông. Thay vào đó, những nguồn ảnh hưởng khác tìm cách thiết lập một "Nhà
hát của Tầng lớp Lao động", biểu diễn bởi tầng lớp lao động và phục vụ
tầng lớp lao động.
Sau khi Brecht chết, các xung đột bắt đầu xuất hiện giữa gia
đình ông (quanh Helene Weigel) và
các nghệ sĩ khác về di sản của Brecht. Heinz Kahlau, Slatan Dudow, Erwin Geschonneck, Erwin Strittmatter, Peter Hacks, Benno Besson, Peter Palitzsch và Ekkehard Schall được
coi là các học giả học trò của Bertolt Brecht.
Trong thập niên 1950 vị giám đốc người Thuỵ Sĩ Benno Besson với Deutsches Theater đã
thu được thành công trong chuyến biểu diễn tại châu Âu và châu Á gồm cả Nhật
Bản với "The Dragon" của Jewgenij Schwarz. Trong
thập niên 1960, ông trở thành Intendant của Volksbühne thường
làm việc cùng Heiner Müller.
Sau năm 1975 nhiều nghệ sĩ rời bỏ Cộng hoà Dân chủ Đức vì sự
kiểm duyệt ngày càng gắt gao. Một kiểu nhà hát song song xuất hiện, tạo nên nhà
hát "bên ngoài Berlin" trong đó các nghệ sĩ trình diễn tại các nhà
hát địa phương. Ví dụ Peter Sodann lập
ra neues theater tại Halle/Saale và Frank Castorf tại
nhà hát Anklam.
Nhà hát và Cabaret có vị thế cao tại Cộng hoà Dân chủ Đức, cho
phép nó hoạt động mạnh. Điều này thường khiến nó rơi vào tình trạng xung đột
với nhà nước. Benno Besson từng nói: "In contrast to artists in
the west, they took us seriously, we had a bearing."
Các nhà hát quan trọng:
Điện ảnh
Tại Cộng hoà Dân chủ Đức, ngành công nghiệp điện ảnh khá phát
triển. Cơ quan phụ trách việc làm phim là DEFA[15], Deutsche
Film AG, cơ quan này được chia nhỏ tiếp thành nhiều nhóm tại các địa
phương, ví dụ, Gruppe Berlin, Gruppe Babelsberg hay Gruppe Johannisthal, nơi
các đội địa phương quay và sản xuất phim. Bên cạnh các bộ phim cho đại chúng,
ngành công nghiệp điện ảnh cũng trở nên nổi tiếng thế giới về các tác phẩm của
mình, đặc biệt là những bộ phim dành cho trẻ em ("Das kalte Herz",
các phiên bản phim của cuốn truyện cổ Grimm và các bộ phim hiện đại như "Das Schulgespenst").
Bộ phim của Frank Beyer "Jakob der Lügner"
(Jacob kẻ nói dối; về sự hành quyết người Do thái trong Đế chế thứ Ba) và,
"Fünf Patronenhülsen"(Five
Bullet Shells) về sự kháng chiến chống chủ nghĩa phát xít, đã trở nên nổi tiếng
thế giới.
Các bộ phim về các vấn đề đời sống hàng ngày như "Die
Legende von Paul und Paula" (đạo diễn Heiner Carow) và
"Solo Sunny"
(đạo diễn Konrad Wolf và Wolfgang Kohlhaase) cũng
rất nổi tiếng.
Ngành công nghiệp điện ảnh đáng chú ý vì nó sản xuất ra Ostern, hay
những bộ phim kiểu phương Tây. Thổ dân
da đỏ trong những bộ phim này thường đóng vai trò những người bị
đuổi khỏi đất đai và chiến đấu cho các quyền lợi của mình, trái ngược với các
phim về người Mỹ miền Tây, nơi
người da đỏ thường không hề được đề cập tới hoặc được thể hiện như những kẻ man
rợ, hung ác. Người Nam Tư thường
đóng vai người da đỏ, vì một số lượng nhỏ người da đỏ châu Mỹ sống ở Đông
Âu. Gojko Mitić rất nổi tiếng trong những kiểu vai
này, thường đóng vai thủ lĩnh ngay
thẳng, tốt bụng và quyến rũ ("Die
Söhne der großen Bärin" đạo diễn bởi Josef Mach). Ông
đã trở thành một vị thủ lĩnh Sioux huyền thoại khi
tới thăm Hoa Kỳhồi thập niên 90 và một đoàn làm phim đã tháp tùng ông thể hiện
bộ lạc trong những bộ phim của ông. Diễn viên và ca sĩ Mỹ Dean Reed, một
người di cư sống ở Đông Đức, cũng đóng vai trong nhiều bộ phim. Những bộ phim
này là một phần của hiện tượng sản xuất những bộ phim ở châu Âu về quá trình
thực dân hoá châu Mỹ. Xem thêm Spaghetti
Western và các bộ phim Tây Đức Winnetou (chuyển
thể từ các tiểu thuyết của Karl May).
Vì sự kiểm duyệt một số bộ phim đáng chú ý đã bị cấm ở thời điểm
đó và chỉ tái xuất hiện sau Wende năm 1990. Các ví
dụ là "Spur der Steine"
(đạo diễn bởi Frank Beyer) và
"Der geteilte Himmel"
(đạo diễn Konrad Wolf).
Điện ảnh tại Cộng hoà Dân chủ Đức cũng chiếu các bộ phim nước
ngoài. Các bộ phim Tiệp Khắc và Ba Lan là thường thấy nhất, nhưng cũng có một
số bộ phim phương Tây, nhưng số lượng của chúng bị hạn chế bởi phải mất ngoại
tệ để mua giấy phép trình chiếu. Hơn nữa, những bộ phim thể hiện sự ưu việt của
tư tưởng tư bản không được mua về. Các bộ phim hài được dân chúng ưa chuộng
rộng rãi. như "Olsen Gang"
của Đan Mạch hay các bộ phim hài của diễn viên Pháp Louis
de Funès.
Thể thao
Đối với một nước nhỏ, người dân Đông Đức đã đạt được một số
thành tựu đáng khâm phục trong nhiều môn thể thao gồm đua xe đạp, cử tạ, bơi,
điền kinh, đấm bốc, trượt băng và các môn thể thao mùa đông khác. Một lý do của
những thành công là sự lãnh đạo của Dr. Manfred Hoeppner bắt
đầu từ cuối thập niên 1960.
Một lý do hỗ trợ khác là việc sử dụng Anabolic steroid, từng
là loại chất doping bị phát hiện nhiều nhất tại các phòng thí nghiệm của IOC trong nhiều năm[16][17] và
hiện bị mọi hiệp hội thể thao lớn cấm sử dụng. Nó cho phép Đông Đức, với một
dân số khiêm tốn, trở thành nước hàng đầu thế giới về thể thao trong hai thập
niên sau đó, giành một lượng lớn huy chương vàng Olympic và
thế giới cùng nhiều kỷ lục.[18]
Một yếu tố khác mang lại thành công là hệ thống trợ giúp cho
thanh niên tại Cộng hoà Dân chủ Đức. Khi một số trẻ em trong khoảng 6 tới 10
tuổi (hay lớn hơn) các giáo viên thể dục tại trường đã được khuyến khích tìm
kiếm các tài năng từ lúc còn rất nhỏ. Với các học sinh lớn hơn có thể vừa theo
học tại trường và tham gia tập luyện chuyên sâu một môn thể thao (ví dụ đua
thuyền, bóng đá và bơi lội). Chính sách này cũng đã được sử dụng cho các học sinh
có tài năng về âm nhạc hay toán học.
Các câu lạc bộ thể thao được trợ cấp nhiều, đặc biệt với các môn
thể thao có thể mang lại uy tín quốc tế. Ví dụ, các giải đấu hockey trên băng
và bóng rổ mỗi giải chỉ gồm hai đội (ngoại trừ thể thao trường học và đại
học). Bóng đá là môn thể thao được ưa chuộng nhất.
Các câu lạc bộ bóng đá như Dynamo Dresden, 1. FC Magdeburg, FC Carl Zeiss Jena, 1. FC Lokomotive Leipzig và BFC Dynamo đã
đạt một số thành công trên đấu trường châu lục. Nhiều cầu thủ bóng đá Đông Đức
đã trở thành nhân tố không thể thiếu trong đội bóng quốc gia sau thống nhất,
như Matthias Sammer và Ulf Kirsten. Các
môn thể thao khác cũng được nhiều người ưa chuộng như trượt băng, đặc biệt bởi
nhân vật như Katharina Witt.
Người Đông Đức nhiệt thành ủng hộ các vận động viên của mình
giành thắng lợi trong các cuộc thi đấu quốc tế vì các tình cảm yêu nước như tại
các quốc gia khác, và không nghi ngờ rằng điều này góp một phần vào thành công
mà đất nước có được. Tuy nhiên, như với nhiều quốc gia cộng sản khác, một nhận
thức rộng rãi cho rằng sự thành công thể thao trên trường quốc tế sẽ quảng bá
cho hệ thống kinh tế và chính trị của họ ra khắp thế giới. Trong trường hợp đặc
biệt của Đông Đức, là nửa nhỏ của nước Đức bị
chia rẽ bởi cuộc Chiến tranh Lạnh, thành công đặc biệt của Đông
Đức được coi là nguồn khích lệ cho Cộng hoà Dân chủ Đức trên trường quốc tế như
một nhà nước riêng biệt.
Tem và
sưu tầm tem
Các nước Cộng sản đặt nặng tầm quan trọng cho việc sưu tầm tem
và Cộng hoà Dân chủ Đức là một trong số các quốc gia in ra nhiều con tem đẹp.
Tuy nhiên, giá trị sưu tầm của chúng thỉnh thoảng bị đặt nghi vấn ở phương Tây
bởi hầu hết các con tem Cộng hoà Dân chủ Đức thường là một phần của một loạt 3
tới bốn con tem và một trong số chúng rất khó để được tìm thấy và vì thế có giá
trị rất cao trên thị trường sưu tầm.
Vô tuyến
truyền hình và radio
Vô tuyến và radio tại Đông Đức thuộc sự quản lý nhà nước. Rundfunk der DDR là
cơ quan truyền tin radio chính thức từ năm 1952 tới năm thống nhất nước Đức. Tổ chức này có trụ sở
tại Funkhaus Nalepastraße ở Đông Đức. Deutscher
Fernsehfunk (DFF), từ 1972–1990 được gọi là Fernsehen der DDR hay
DDR-FS, từng là cơ quan truyền hình nhà nước từ năm 1952.
Viễn
thông
Tới giữa thập niên 1980, Đông Đức sở hữu một hệ thống viễn thông
phát triển. Có xấp xỉ 3.6 triệu điện thoại được sử dụng (21.8 trên mỗi 100
dân), và 16.476 trạm telex. Cả hai mạng này đều do Deutsche Post der DDR (Bưu
điện Đông Đức) điều hành. Đông Đức có mã điện thoại quốc gia là 37; năm 1991,
nhiều tháng sau khi thống nhất, dịch vụ điện thoại Đông Đức được sáp nhập vào
mã quốc gia 49.
Như một đặc điểm thường thấy của mạng điện thoại trong hầu hết
các trường hợp, quay số trực tiếp để
gọi đường dài không
thể thực hiện. Dù mã vùng được
cấp cho mọi thành phố và thị trấn lớn, họ chỉ sử dụng các tổng đài viễn thông
quốc tế tự động. Thay vào đó, mỗi địa điểm có danh sách mã gọi riêng của mình -
với các mã ngắn hơn cho các cuộc gọi nội địa, và mã
dài hơn cho gọi đường dài. Điều
này bởi các cuộc gọi được chuyển theo mạng nhánh. Sau sự thống nhất nước Đức, mạng sẵn có hầu như bị thay
thế, và các mã vùng và
cách quay được tiêu chuẩn hoá.
Năm 1976 Đông Đức khai trương trạn radio mặt đất tại Fürstenwalde để
chuyển tiếp và nhận tín hiệu từ các vệ tinh Liên Xô, và hoạt động như một thành
phần của tổ chức viễn thông quốc tế do chính phủ Liên Xô lập ra, Intersputnik.
No comments:
Post a Comment