|
|
Vietsciences- Mai
Thái Lĩnh 16/02/2012
|
(Tiếp theo)
Kỳ 2 – TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM THÁC BẢN GIỐC NHƯ THẾ NÀO?
Dựa theo những tin tức do
Đảng cộng sản Việt Nam công bố qua nhiều thời kỳ, chúng ta có thể tóm tắt quá
trình xâm chiếm Thác Bản Giốc của phía Trung Quốc như sau:
Bước 1: Sửa bản đồ
“Năm 1955-1956, Việt Nam
đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng
tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía
Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký
hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm
một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong” [18].
Đó là một đoạn được trích
từ bản “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum) do Bộ
Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ là Trung Quốc
đã “sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm, tài liệu này
vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ
lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ không tốt chính là lý do khiến cho
phía Việt Nam lâu nay không dám công bố bản đồ của mình, hầu hết các bản đồ
được công bố đều là bản đồ của Trung Quốc. Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi
chưa được trả lời: phía Việt Nam đã biết được hành vi “sửa bản đồ” này vào thời
điểm nào và tại sao mãi đến năm 1979 mới công bố?
Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm
Năm 1976, Trung Quốc bắt
đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm mà họ đã chuẩn bị từ giữa thập niên 1950. Theo
lời tố cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, “phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000
người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh
toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc
xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới,
làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và
ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc”.
Việc Trung Quốc chiếm cồn
Pò Thoong 20 năm sau khi đã “sửa bản đồ” cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác Bản
Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là hành động ngẫu nhiên.
Bước 3: Dời cột mốc 53
Ảnh 25: Đường biên giới mới với các cột mốc mới
Để tăng cường thêm bằng
chứng cho “hồ sơ pháp lý” nhằm hợp pháp hóa việc lấn chiếm, nhà cầm quyền Trung
Quốc đã dời cột mốc số 53 từ vị trí như ta đã thấy trên bản đồ đến một vị trí
khác xa hơn về phía thượng lưu nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam
và cồn Pò Thoong”, đúng như kế hoạch đã hoạch định từ giữa thập niên 1950. “Cột
mốc biết đi” này chính là căn cứ để “hai bên đàm phán” xác định cột mốc mới 835
như chúng ta đã thấy ở phần trên, bởi vì hai cột mốc 53 cũ và 835 mới nằm sát
cạnh nhau.
Ảnh 26: So sánh hai đường biên giới mới và cũ
Thử so sánh bản đồ về
đường biên giới mới và các cột mốc mới tại vùng này (ảnh 25) với bản đồ “ Trùng
Khánh 6354-IV” năm 1979 do Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980 [19]. Mặc dù địa hình của cồn Pò Thoong và
khu vực lân cận cũng như vùng đất phía tả ngạn ở hạ lưu của Thác Bản Giốc đã bị
phía Trung Quốc làm biến đổi khá nhiều nhằm che giấu việc chiếm đất, chúng ta vẫn
có thể dễ dàng nhận ra sự khác biệt giữa hai đường biên giới mới và cũ. Cột
mốc số 53 đã bị dời về phía tây-nam để tạo ra cột mốc mới 835 đối diện
với cồn Pò Thoong. Vì thế, đường biên giới đáng lẽ chỉ trùng với trung tuyến
của dòng sông ở hạ lưu thác lại đi ngang cồn Pò Thoong ở phía thượng lưu và sau
đó chia cắt một nửa phần thác chính cho phía Trung Quốc.
Hơn thế nữa, về phía
tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm
vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng. Việc thay đổi cột mốc này
giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm 787 (Yao Tan Shan) trong khi đường
biên giới cũ chia đôi ngọn núi này, mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ
không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho
việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê Công Phụng
lại hết sức nhiệt tình che đậy sự vi phạm trắng trợn này của “nước bạn” bằng
cách khẳng định rằng “Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời nhà Thanh, xác
định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta”. Để củng cố cho
lập luận của mình, ông ta còn biện bạch: “Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa
thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà
dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả”. Không rõ
“người dân địa phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai
thay đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công
Phụng: “Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện
ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được”. Vì
không có một nhân vật cấp cao nào trong Đảng đính chính lại lời phát biểu này,
chúng ta có thể hiểu đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo
Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân
nào [20].
Ảnh 27: Khu vực Thác Bản Giốc (ảnh chụp từ vệ tinh).
Vùng được đánh dấu là phần thác chính.
Có một điều mà các nhà
lãnh đạo Việt Nam cố tình tránh né: đó là ý nghĩa của cồn Pò Thoong và bờ bắc
của sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng. Không cần phải là chuyên gia về quân
sự, chúng ta có thể thấy rõ: với việc lấn chiếm 3 phần 4 cồn Pò Thoong và toàn
bộ phần đất ở tả ngạn - từ thượng lưu cho đến hạ lưu Thác Bản Giốc, phía Trung
Quốc chẳng những có được lợi thế từ trên cao mà còn có được một đầu cầu ngay
phía trên thác (cồn Pò Thoong) để khi cần, có thể làm bàn đạp đưa quân từ phía
hạ lưu nhằm tấn công vào bất cứ điểm nào trong vùng thung lũng dọc sông Quây
Sơn (xem ảnh 28). Đó là chưa kể đến việc lấn chiếm cao điểm Yao Tan Shan (cao
độ 787 m) giúp cho phía Trung Quốc có được một vị trí để có thể dùng pháo binh
khống chế vùng thung lũng này từ phía tây-bắc.
Ảnh 28: Toàn cảnh Thác Bản Giốc chụp từ phía Trung Quốc
Bước 4: Hợp pháp hóa hành
vi lấn chiếm
Như trên đã dẫn chứng,
trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì
vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục chiếm
đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay trả lại chút ít cho phía Việt Nam?
Tương tự như trường hợp ở
Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong,
họ trả lại cho Việt Nam 1 phần 4; thay vì lấy “phần lớn” thác chính thì lấy một
nửa thác chính. Các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có
phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường, nhân nhượng để có
tiếng là “ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện được mục đích “chiếm một phần thác Bản
Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Đường biên giới mới được
hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung Quốc đã được hiện đại hóa bằng một
loạt các cột mốc dày đặc, được định vị bằng các kỹ thuật hiện đại. Điều này sẽ
khiến cho các thế hệ người Việt Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều
trong việc đòi lại các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi “ván đã đóng
thuyền” bởi hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan,
trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong việc đàm phán về biên giới, phía
Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ hoàn toàn
các nguyên tắc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra trước đó trong bản bị vong
lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc
biến thành Thác Đức Thiên
Ảnh 29: Thác nước Bản Giốc riêng của Việt Nam nay đã trở thành
“Thác lớn xuyên - quốc gia Đức Thiên” (Đức Thiên khóa quốc đại bộc bố). Sự mất
mát này là do ai?
Không rõ khi vạch kế
hoạch chiếm một phần Thác Bản Giốc, các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Mao Trạch
Đông – Chu Ân Lai có nhắm đến mục tiêu kinh tế - du lịch hay không? Nhưng vào
đầu thế kỷ 21, vài thập niên sau khi tiến hành đường lối cải cách do Đặng Tiểu
Bình vạch ra, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đương nhiên phải nghĩ ngay đến việc
kinh doanh du lịch để góp phần phát triển kinh tế cho Tỉnh Quảng Tây, một vùng
đất kinh tế còn kém phát triển [21] nhưng lại là địa bàn chủ yếu của
dân tộc Choang – dân tộc thiểu số đông nhất ở Trung Quốc hiện nay [22].
Ngay sau khi ký hiệp định
1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào
khai thác du lịch chứ không chờ giải quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở vùng này.
Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu xây dựng các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng như khách
sạn, nhà nghỉ, thuỷ đình, nhà nổi… bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối
quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn
cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn những yếu tố “hữu nghị, anh em”, họ đặt cho
thác nước một cái tên mới: 德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng
Internet, dùng một công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có
thể thấy vô số bài viết của các du khách nước ngoài về “Detian Falls” hay
“Detian Waterfall” (Thác Đức Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư
trên thế giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria
(Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc gia
lớn thứ nhất ở châu Á [23].
Ảnh 30: Blogger Điếu Cày tại Thác Bản Giốc
Khi đặt tên mới cho Thác
Bản Giốc, vẽ lại đường biên giới mới tại vùng này, các nhà lãnh đạo của Trung
Hoa cộng sản hy vọng sẽ xóa sạch các vết tích đường biên giới cũ, để vài mươi
năm nữa, các thế hệ trẻ người Việt cũng như người Hoa không còn nhớ gì đến quá
trình xâm lược của một cường quốc chuyên thi hành chính sách đạo tặc đối với
các quốc gia lân bang – nhất là các quốc gia nhỏ bé mà ngày xưa các hoàng đế
Trung Hoa vẫn thường coi là “phiên thuộc”.
Thay lời kết:
Mặc dù sự thật đã dần dần
được bộc lộ theo thời gian, nhưng câu chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn đã đến
hồi kết thúc. Vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi cần được giải đáp:
1) Trước hết, về căn cứ
pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại
giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc
Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một
phần Thác Bản Giốc; [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò
Thoong vào thập niên 1960; [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò
Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân
đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu
hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại
giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm
cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng không
phải là chủ trương của một cá nhân hay một phe phái nào trong Đảng cộng sản
Trung Quốc. Kế hoạch này đã được chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là
vào lúc quan hệ Việt-Trung được coi là “hữu hảo”, và được thực hiện từng bước
qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần trên. Điều này cho thấy đây là chủ
trương chung của Đảng cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh
đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không
phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục
(giác thư) năm 1979, chúng ta được biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan chỉ là 2
trong số 12 trường hợp lấn chiếm điển hình. Nếu tính tất cả các vi phạm lớn
nhỏ, tính từ 1949 đến 1979 phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn
chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung [24]. Như vậy không thể nói là quan hệ
Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn 1979-1989. Ngay từ giữa thập niên 1950,
nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng sản Việt-Trung còn nồng thắm, đã bắt đầu hình
thành những mầm mống xấu, những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề
lãnh hải, ngay khi công bố “hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản
Trung Quốc đã nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên
bố, họ đã ghi rõ “Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và “Nam Sa” (tức Trường Sa) thuộc lãnh
thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc chiếm toàn
bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma (Johnson South
Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước
một chính sách xâm lược nhất quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
thừa nhận quan hệ “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai) và tinh thần “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như những nguyên tắc căn bản chi phối
toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận
một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của
Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã hy sinh quyền lợi của quốc gia – dân tộc
để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao
nhân dân có thể tiếp tục tin tưởng vào “sự lãnh đạo của Đảng” trong sự nghiệp
bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông – nơi mà hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc
chủ nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm
lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn
đường biên giới Việt-Trung đã diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày 15.3.1979,
nghĩa là gần một tháng sau khi Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới
phía Bắc, người dân mới biết được phần nào sự thật thông qua bản “bị vong lục”
do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho đến nay, ngoài những chi tiết
được công bố trong cuốn sách, nhân dân không được biết thêm điều gì khác. Không
có công trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân có thể có thể so
sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công
trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm hiểu vấn đề, nhưng những công trình
này thường bị xếp vào ngăn kéo, không được công bố rộng rãi. Vào năm 1996, khi
cộng tác với nhà xuất bản Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam
qua các đời của học giả Đào Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời
dẫn như sau: “Năm 1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ
nhất, với ý định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói
về biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…) Trong
lần tái bản này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả lưu lại sau khi
qua đời” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về biên giới ấy là ý muốn
thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối chiếu với “sự quên lãng” được
dành cho những trận chiến đẫm máu trong suốt thập niên 1980 như trận chiến tại
dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở
Trường Sa năm 1988, v.v. chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự nguyện của
việc lược bỏ này.
Ảnh 31: Bản đồ xã Đàm Thủy do Ủy ban Biên giới Quốc gia công bố
Mãi cho đến ngày nay, hơn
một thập niên sau ngày “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam
và CHND Trung Hoa” được ký kết (30-12-1999), thông tin về đường biên giới
Việt-Trung vẫn là cái gì rất mờ mịt. Mặc dù người dân có thể truy cập vào
Internet để xem hình ảnh vệ tinh của khu vực giáp giới giữa hai quốc gia, nhưng
vẫn không thể nào xác định được đường biên giới mới một cách chính xác. Ngay cả
khi truy cập vào Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ hay trang mạng của Ủy ban
Biên giới Quốc gia, người ta cũng chỉ có thể tìm ra một thứ “bản đồ” mù mờ và
kém chính xác như tấm “sơ đồ” xã Đàm Thủy đăng kèm theo đây (ảnh 31) [25].
Trong khi nhiều vị trí
hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở thành “chợ trời biên giới” (ví dụ:
cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời của các
“khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” thì bản đồ chi tiết về vùng biên giới
Việt-Trung vẫn còn là “bí mật quốc gia”, thông tin về vùng này vẫn là thông tin
một chiều, mù mờ và không có giá trị khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có
thẩm quyền vẫn tìm cách che giấu, không muốn cho ngýời dân hiểu biết rõ ràng,
cụ thể về tình hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc cũ để
đưa vào “viện bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong
tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như thế, giới trí thức – nhất là các
nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền
quốc gia? Trông chờ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam thành tâm thiện ý “nhìn
thẳng vào sự thật” để thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha thiết “cầu xin”
nhà cầm quyền gia ân ban phát một “không gian tự do có giới hạn” để trí thức có
thể góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ Phan Châu Trinh và các
sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỷ trước bằng cách tự mình
vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công
cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá
vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta
từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng
ta có thể rút ra từ lịch sử: tự do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là
một thứ tự do bị kiểm soát, chân lý có được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý
nửa vời hay một nửa của sự thật. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do
bị khống chế hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả
hiệu, một thứ khoa học hào nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm
hàm tuy bề ngoài rất “hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể trường tồn qua
thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện lợi ích của toàn dân
tộc. Bài học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng ngự trị trong ngành
sinh học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận năm 1964 trước khi bị vứt
vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực kỳ sinh động của thứ khoa học thừa
nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị trong một chế độ độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm
Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bản Giốc chờ ngày cất cánh, Thanh Niên 23/10/2011:
[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và
kỹ thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.
[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang
mạng VietNamNet hiện nay
[4] “Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của
VASC Orient chiều 28/1/2002”. Mặc dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được
lưu truyền trên mạng Internet trong suốt một thập niên qua.
[5] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc
biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản,
27/2/2009:
[6] Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý,
công bằng, hữu nghị”, Vietnam Net 02/01/2009: http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/
Ông Phó giáo sư Tiến sĩ
này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại
giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.
[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le
Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des
Frontières Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie
Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong “Thư ngỏ
của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban
Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam,
07/01/2011: http://www.boxitvn.net/bai/15750
[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu
quân sự (territoires militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang
và (4) Lai Châu. Về sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào
Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem Đào Duy
Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học VN - NXB Thuận Hóa,
1996, tr. 219).
[9] Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh
Quảng Tây”, phần I, 29-08-2009: http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1
[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí,
tập 4, NXB Thuận Hóa 1997, tr. 403.
[11] Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng
trên Mạng Ý kiến (ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang
mạng này không còn tồn tại vì bị tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng
lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, NXB Sự
thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn của bản «bị vong
lục» (giác thư, memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.
[13] Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011:
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S.
Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn
văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản
văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không
phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu
quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19
chứ không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
[18] Vấn đề biên giới..., sđd, tr. 14.
[19] Tấm bản đồ về đường biên giới mới đã được công bố trong bài
viết của nhà văn Trần Nhương nhan đề “Bên cột mốc biên giới Bản Giốc”, Blog
Trần Nhương 1-11-2011:
[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã
được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP)
của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng
thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây
Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số
đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với
người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên
gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi
Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao
của thác nước được ghi là 60 m, thậm chí 70 m, trong khi những người Pháp đầu
tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50 m, và các sách địa lý của
nước ta xác định con số 34 m.
[24] Vấn đề biên giới...., sđd, tr.8.
Tác giả gửi trực tiếp
cho BVN
Được đăng
bởi bauxitevn
Chủ tịch VN thăm
thác Bản Giốc
Ông
Sang là quan chức cao cấp nhất từng thăm thác Bản Giốc sau khi quá
trình cắm mốc biên giới hoàn tất
Truyền
thông trong nước cho hay Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang vừa có
chuyến thăm tỉnh Cao Bằng giáp ranh với Trung Quốc.
Hôm
thứ Năm 8/12 ông Sang đã tới thăm thác Bản Giốc ở huyện Trùng Khánh.
Các bài liên quan
- Báo Lao Động bị kiểm điểm vì bài viết
- Thác Bản Giốc là cảnh quan thiên nhiên TQ?
- Thăm thác Bản Giốc
Ông
Trương Tấn Sang là nhân vật cao cấp nhất của Nhà nước Việt Nam thăm
viếng địa danh nổi tiếng này sau khi Việt Nam và Trung Quốc hoàn tất
quá trình phân giới cắm mốc gây nhiều tranh cãi vào cuối năm 2008.
Đài
Tiếng nói Việt Nam đưa tin chiều 8/12 ông chủ tịch "đã đi thăm khu
du lịch thác Bản Giốc và thăm Đồn Biên phòng Đàm Thủy ở huyện Trùng
Khánh".
Ông
Sang được dẫn lời nói "việc duy trì và phát huy Hiệp định Phân mốc
biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng cường sự hợp tác hữu
nghị, ổn định an ninh biên giới".
Việt
Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định về Biên giới trên đất liền từ
năm 1999, nhưng phải mất 10 năm quá trình phân giới cắm mốc mới được
hoàn tất vì có nhiều "khu vực nhạy cảm'.
Thác
Bản Giốc là một trong những khu vực nhạy cảm đó.
Chuyến
thăm lần này của ông Trương Tấn Sang mang tính biểu tượng quan trọng,
nhất là trong bối cảnh dư luận trong nước đang hết sức quan tâm tới
các vấn đề liên quan tới chủ quyền lãnh thổ.
'Nhượng bộ Trung Quốc'
Đài
Tiếng nói Việt Nam dẫn lời ông chủ tịch dặn dò các chiến sỹ biên
phòng Đàm Thủy, đơn vị chịu trách nhiệm canh giữ khu vực thác Bản
Giốc, phải "giữ vững an ninh biên giới".
Thác
Bản Giốc là một trong những thác đẹp nhất Việt Nam, được tạo thành từ một
phần của sông Quây Sơn, chia làm hai phần, thác chính và thác phụ.
Thác
Bản Giốc nằm giữa Việt Nam và Trung Quốc
Theo
thỏa thuận biên giới đất liền giữa hai nước, thác phụ nằm hoàn toàn trên
lãnh thổ Việt Nam còn thác chính được hai nước Việt Nam và Trung Quốc cùng khai
thác.
Việt
Nam cũng nhận 1/4 cồn Pò Thoong diện tích chưa đầy 3 ha nằm giữa
thác.
Thỏa
thuận nói trên khi công bố đã bị một số người phản đối, cho rằng
Việt Nam 'nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều'.
Tranh
chấp với Trung Quốc về thác Bản Giốc bắt đầu từ những năm 1974-1975 nhưng
lên cao vào năm xảy ra cuộc chiến biên giới 1979.
Cơ
sở để chia đôi phần thác chính là việc tính mốc bắt đầu từ cột mốc 53 cũ được
dựng lên từ cuối thế kỷ 19 sau khi người Pháp và Nhà Thanh ký kết hiệp định
phân chia biên giới.
Sự
chia sẻ thác Bản Giốc được thống nhất như một phần của "gói
thương lượng" gồm thác này và bãi Tục Lãm trên tinh thần mà
chính phủ Việt Nam nói là "hiệp thương hữu nghị thẳng thắn".
1/4
bãi Tục Lãm ở cửa sông Bắc Luân nay thuộc về Trung Quốc.
Việt
Nam và Trung Quốc đã thống nhất cùng khai thác du lịch thác Bản Giốc
nhưng cho tới nay hai bên vẫn chưa ký được Hiệp định hợp tác khai thác và
bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác này.
Dù
vậy, tin cho hay phía Trung Quốc đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng,
khách sạn và đường xá bên phần đất của họ.
Báo
chí Trung Quốc gọi thác này, tên tiếng Trung là Đức Thiên, là một
trong những "cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời nhất đất nước Trung
Hoa", nằm ở "thị trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc".
Đầu
năm nay báo Lao động của Việt Nam khi đăng lại tin của Trung Quốc ca
ngợi thác Đức Thiên đã bị khiển trách vì không nói tới chủ quyền
của Việt Nam đối với thác.
No comments:
Post a Comment