Cách nay đúng 69 năm, xứ Tripura hợp nhất với Ấn Độ
Ngày 15
tháng 10, 1949
·
1949 – Hiệp định Hợp nhất Tripura có hiệu lực, Tripura (hình
cung Ujjayanta) gia nhập Liên bang Ấn Độ với địa vị một bang loại
"C".
Tripura
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tripura
ত্রিপুরা (tiếng
Bengal)
— Bang của Ân Độ —
Ấn chương
Vị
trí Tripura (đỏ) tại Ấn Độ
Chính quyền
Diện tích
Tổng
cộng 10.491,69 km2(405,086 mi2)
Thứ hạng diện tích 26
Dân số (2011)
Tổng
cộng 3.671.032
Thứ hạng 21
HDI 0.663 (trung bình)
Xếp
hạng HDI 18 (2006)
Tripura là một bang nằm tại Đông Bắc Ấn Độ. Đây là bang nhỏ thứ ba toàn quốc với diện tích
10.491 km2(4.051 sq mi) và có biên giới quốc tế
với Bangladesh ở phía bắc, phía nam, và phía tây, và có biên giới
quốc nội với hai bang Assam và Mizoram ở
phía đông.
Bangladesh (tiếng Bengal: বাংলাদেশ Bāṃlādēśa, phát âm: [ˈbaŋlad̪eʃ] (nghe), nghĩa là "Đất nước Bengal", phiên âm tiếng Việt: Băng-la-đét), tên chính thức: Cộng hoà
Nhân dân Bangladesh (tiếng Bengal: গণপ্রজাতন্ত্রী বাংলাদেশ), là một quốc gia ở
vùng Nam Á. Địa giới Bangladesh
giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và
đông nên gần như bị bao vây trừ một đoạn biên giới giáp với Myanma ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam.
Assam là một bang nằm ở
vùng Đông Bắc Ấn Độ. Tọa lạc ở phía nam của dãy Himalaya miền đông, Assam bao
gồm thung lũng Brahmaputra và thung lũng Barak cùng với các
huyện Karbi Anglong và Dima Hasao với tổng diện tích 30,285 sq mi
(78,44 km2).
Mizoram là một bang
miền Đông Bắc Ấn Độ. Thủ phủ đồng thời là thành phố lớn nhất
là Aizawl. Tên bang bắt nguồn
từ tiếng Mizo: Mi(người), Zo (nơi cao) và Ram (đất), do đó Mizoram có
nghĩa là "đất của người cao địa".
Theo điều tra năm 2011, bang có 3.671.032
cư dân, trong đó các cộng đồng bản địa chiếm khoảng 30%. Người Bengal chiếm đa
số trong dân cư, còn người Tripura nói tiếng Kokborok là nhóm chiếm đa số trong
các bộ lạc. Tripura cùng với quốc gia Bangladesh và bang Tây Bengal tạo
thành khu vực dân tộc-ngôn ngữ Bengal.
Trong nhiều thế kỷ, khu vực nay là Tripura
nằm dưới quyền cai trị của triều đại Tripura. Tripura trở thành một phiên vương
quốc trong thời gian người Anh đô hộ Ấn Độ, rồi gia nhập nước Ấn Độ độc lập vào năm 1949. Kể từ đó,
xung đột sắc tộc giữa người bản địa và người Bengal dẫn đến căng thẳng và bạo
động rải rác, song việc thành lập các đơn vị hành chính bộ lạc tự trị và áp
dụng các chiến lược khác đã giúp đem hòa bình đến bang.
Tripura có vị trí địa lý bất lợi bên trong
Ấn Độ, chỉ có một xa lộ lớn là Quốc lộ 44 kết nối bang với phần còn lại của
quốc gia. Năm dãy núi là Boromura, Atharamura, Longtharai, Shakhan và Jampui
chạy từ bắc đến nam Tripura, xen lẫn là các thung lũng. Thủ phủ Agartala nằm
trên một bình nguyên ở phía tây. Tripura có khí hậu xa van nhiệt đới, nhận được
lượng mưa lớn theo mùa từ gió mùa tây nam. Các khu rừng bao phủ trên một nửa
diện tích của bang. Tripura có số lượng loài linh trưởng cao nhất trong số các bang tại Ấn Độ.
Do bị cô lập về vị trí địa lý, Tripura gặp
trở ngại trong phát triển kinh tế, bị nghèo khổ và thất nghiệp đe dọa. Cơ sở hạ
tầng tại Tripura có hạn chế. Hầu hết cư dân trong bang tham gia vào lĩnh vực
nông nghiệp và các hoạt động có liên quan, song lĩnh vực dịch vụ đóng góp lớn
nhất vào tổng sản phẩm quốc nội của bang. Các yếu tố văn hóa Ấn Độ chủ đạo, đặc
biệt là từ văn hóa Bengal, cùng tồn tại với các tập tục truyền thống của các
dân tộc bản địa, như các vũ đạo khác nhau được trình diễn trong các lễ hội;
việc sử dụng các nhạc cụ và trang phục địa phương; và thờ phụng các thổ thần.
Tên
gọi
Trong tiếng Phạn, tên gọi Tripura có nghĩa
là "ba thành phố". Tên tiếng Phạn có liên hệ với Tripura Sundari, là
thần chủ trì của đền Tripura Sundari tại Udaipur, và
đền là một trong 51 Shakti Peetha (các trung tâm hành hương
của giáo phái Shakti); và
đến bạo quân truyền thuyết Tripur từng cai trị khu vực. Tripur là hậu duệ thứ
39 của Druhyu, Druhyu thuộc dòng dõi của Yayati- một quốc vương của triều đại
Lunar.
Tuy nhiên, có các ý kiến nghi ngờ về nguồn gốc tên gọi Tripura,
đề cao khả năng dạng tiếng Phạn chỉ là do một từ nguyên dân gian của một tên
tiếng Tạng-Miến (Kokborok). Các biến thể của tên gọi gồm có Twipra, Tuipura và Tippera.
Một từ nguyên tiếng Kokborok bắt nguồn từ tui (nước) và pra (gần)
được đề xuất; biên giới của Tripura mở rộng đến vịnh
Bengal khi các quốc vương của nó nắm quyền cai trị từ vùng đồi
Garo thuộc Meghalaya đến Arakan thuộc
Myanmar ngày nay; do đó tên gọi có thể phản ánh sự lân cận với biển.
Lịch
sử
Không có bằng chứng về các khu định cư hạ kỳ và trung kỳ đồ đá
cũ tại Tripura, song phát hiện được các công cụ thượng kỳ đồ đá mới làm từ gỗ nay đã hóa thạch tại các
thung lũng Haora và Khowai. Sử
thi Mahabharata; bản văn tôn giáo cổ Purana;
và các chiếu thư của Ashoka đều
đề cập đến Tripura.
Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata) là một tác phẩm sử thi bằng tiếng
Phạn vĩ
đại nhất của Ấn Độ cổ đại.
Một tên gọi cổ của Tripura là Kirat Desh ("vùng
đất của Kirat"), có lẽ ám chỉ đến các vương quốc Kirata hay thuật
ngữ Kirata tổng quát hơn.:155 Tuy
nhiên, không rõ liệu phạm vi Tripura hiện nay có ranh giới tương ứng với Kirat
Desh hay không. Khu
vực nằm dưới quyền cai trị của Vương quốc Twipra trong hàng thế kỷ, song không
có tư liệu về niên đại. Rajmala là một biên niên sử về các
quốc vương Tripura, nó được viết lần đầu vào thế kỷ XV, cung
cấp một danh sách gồm 179 quốc vương từ thời cổ cho đến Krishna Kishore Manikya
(1830–1850),:3 song
tính khả tín của Rajmala bị nghi ngờ.
Quốc vương Bir Chandra Manikya (trị vì
1862-1896) cùng Vương hậu Manamohini
Biên giới của vương quốc thay đổi theo thời gian, tại các thời
điểm khác nhau, biên giới mở rộng về phía nam đến các khu rừng Sundarban bên vịnh
Bengal; về phía đông đến Myanmar; và về
phía bắc đến biên giới của Vương quốc Kamarupa tại Assam. Từ
thế kỷ XIII trở đi, người Hồi giáo từng vài lần tiến hành
xâm chiếm khu vực, cực
điểm là Đế quốc Mogul thống trị các đồng bằng của
vương quốc vào năm 1733, song
quyền lực của họ chưa từng mở rộng đến các vùng đồi.
Đế quốc Mogul (Tiếng Ba Tư: شاهان مغول Shāhān-e Moġul; self-designation: گوركانى - Gūrkānī), thường được các sử liệu Anh ghi là đế quốc Mughal, Pháp ghi là đế quốc Moghol và Việt Nam gọi là đế
quốc Mô-gôn, là một đế quốc Hồi giáo (chịu ảnh
hưởng từ nền văn hoá Ba Tư) ở Tiểu lục địa Ấn Độ đã ra đời vào năm 1526, nắm quyền kiểm soát trên phần
lớn tiểu lục địa trong các thế kỷ XVII và XVIII, và cáo chung vào giữa thế kỷ
XIX.
Người Mogul có uy thế trong việc bổ nhiệm các quốc vương của
Tripura. Tripura
trở thành một phiên vương quốc trong giai đoạn Anh Quốc cai trị Ấn Độ. Các quốc vương của Tripura có
một bất động sản tại Ấn Độ thuộc Anh, được gọi là huyện Tippera hay Chakla
Roshnabad (nay là huyện
Comilla của Bangladesh), cùng với một khu vực độc lập gọi là Đồi
Tippera mà nay là Tripura. Udaipur
nằm tại nam bộ của Tripura và đóng vai trò là kinh đô của vương quốc cho đến
khi Quốc vương Krishna Manikya dời đô đến Agartala
Cổ trong thế kỷ XVIII. Kinh đô được dời đến thành phố mới
Agartala trong thế kỷ XIX. Quốc vương Bir Chandra Manikya (1862–1896) tái cấu
trúc chính quyền theo mô hình của Ấn Độ thuộc Anh, và ban hành các cải cách bao
gồm việc thành lập Hội đồng thành phố Agartala.
Sau khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947, huyện Tippera trở thành một
bộ phận của Đông Pakistan, còn Đồi Tippera vẫn nằm dưới
quyền của hội đồng nhiếp chính cho đến năm 1949. Nhiếp chính của Tripura là
Vương hậu Kanchanprabha Devi ký vào Hiệp định Hợp nhất Tripura vào ngày 9 tháng
9 năm 1949, theo đó Tripura trở thành một bộ phận của Ấn Độ.:3 Tripura
gia nhập Liên bang Ấn Độ vào ngày 15
tháng 10 năm 1949 với địa vị một bang loại "C", trở
thành một Lãnh thổ liên bang không có cơ quan lập pháp vào tháng 11 năm 1956 và
nội các tuyển cử nhậm chức vào tháng 7 năm 1963.:3 Việc
Ấn Độ bị phân chia sau khi độc lập gây nên các trở ngại lớn về kinh tế và cơ sở
hạ tầng đối với Tripura, giao thông đường bộ giữa Tripura và các thành thị lớn
của Ấn Độ phải đi theo đường vòng. Trước khi phân chia, khoảng cách đường bộ
giữa Kolkata và
Agartala là dưới 350 km (220 mi), song tăng lên 1.700 km
(1.100 mi) sau khi phân chia do phải tránh Đông Pakistan.[20] Cô
lập về địa chính trị của Tripura càng tăng thêm do không có giao thông đường
sắt.[21][22]:93
Một số nơi tại Tripura từng bị Quân đội Pakistan pháo kích
trong Chiến
tranh Ấn Độ-Pakistan 1971. Sau chiến tranh, chính phủ Ấn Độ tái tổ
chức khu vực Đông Bắc nhằm bảo đảm kiểm soát hiệu quả biên giới quốc tế; trong
đó ba bang mới được hình thành vào ngày 21
tháng 1 năm 1972:[23] Meghalaya, Manipur và
Tripura.[23] Kể
từ khi Ấn Độ bị phân chia, người Bengal theo Ấn Độ giáo di cư đến Tripura trong thân phận
người tị nạn từ Đông Pakistan;:3–4 số
người Bengal đến định cư tăng lên trong thời gian diễn ra Chiến tranh giải phóng
Bangladesh vào năm 1971. Trước khi Ấn Độ độc lập, hầu hết cư dân
trong bang là người bản địa;:9 song
họ hiện là thiểu số. Xung đột sắc tộc giữa các bộ lạc và cộng đồng người Bengal
nhập cư chiếm đa số dẫn đến các hành động bạo lực rải rác,[24] và một cuộc nổi dậy kéo
dài hàng thập niên. Tình trạng này dần hạ nhiệt sau khi thành lập một hội đồng
khu vực tự trị bộ lạc và tiến hành các chiến dịch bình loạn chiến lược,[25]
Địa lý và khí hậu
Lúa được trồng trên các đồng bằng phù sa tại
Tripura.
Tripura là một bang nội lục tại Đông Bắc Ấn Độ với diện tích
10.491,69 km2 (4.050,86 sq mi), là bang nhỏ thứ
ba tại Ấn Độ, đứng trên Goa và Sikkim.
Tripura trải dài từ 22°56'B đến 24°32'B, và từ 91°09'Đ đến 92°20'Đ.:3 Khoảng
cách tối đa của bang là 184 km (114 mi) từ bắc đến nam, và
113 km (70 mi) từ đông sang tây. Tripura giáp với quốc gia Bangladesh
ở phía tây, bắc và nam; giáp với bang Assam ở phía đông bắc; và giáp với bang
Mizoram ở phía đông. Có
thể tiếp cận với Tripura thông qua các quốc lộ đi qua huyện Karimganj của Assam và huyện Mamit của
Mizoram.[26]
Địa văn học của Tripura mang đặc trưng với các dãy đồi, thung
lũng và đồng bằng. Bang có năm dãy nếp lồi gồm
các đồi chạy từ bắc xuống nam, từ Boromura ở phía tây, qua Atharamura,
Longtharai và Shakhan, đến vùng Đồi Jampui ở phía đông.[27]:4Các nếp lõm xen
giữa là các thung lũng Agartala–Udaipur, Khowai–Teliamura, Kamalpur–Ambasa,
Kailasahar–Manu và Dharmanagar–Kanchanpur.[27]:4 Trên
cao độ 939 m (3.081 ft), Betling Shib trên dãy Jampui là điểm cao
nhất trong bang.:4Các gò
nhỏ biệt lập nằm rải rác khắp bang được gọi là tillas, các thung lũng
phù sa màu mỡ song hẹp chủ yếu nằm ở phía tây và chúng được gọi là lungas.:4 Một
số sông khởi nguồn từ các đồi của Tripura và chảy sang Bangladesh.:4 Khowai,
Dhalai, Manu, Juri và Longai chảy hướng về phía bắc; Gumti chảy về phía tây; và
Muhuri cùng Feni chảy về phía tây nam.[27]:73
Dữ liệu thạch địa tầng do Cục Nghiên cứu địa
chất Ấn Độ phát hành xác định niên đại của các đá nằm
giữa thế Tiệm Tân (34-23 triệu năm trước), và thế
Toàn Tân (bắt đầu từ 12.000 năm trước) theo niên đại địa chất.[27]:73–4 Các
đồi có đất laterit đỏ có đặc tính xốp. Đất phù sa phủ trên các bãi bồi và
thung lũng hẹp, hầu hết đất nông nghiệp nằm trên các bãi bồi và thung lũng ở
phía tây và nam.:4 Theo
Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ, theo thang đo từ I đến V theo
thứ tự tăng dần về tính nhạy cảm với địa chấn, Tripura thuộc khu địa chấn V.[28]
Tripura có khí hậu xa van nhiệt đới, được xác định là Aw theo phân loại khí hậu Köppen. Địa
hình nhấp nhô dẫn đến những biến thiên địa phương, đặc biệt là trên các dãy
đồi.[29] Bốn mùa chính trong năm
là mùa đông từ tháng 12 đến tháng 2; mùa trước gió mùa hay mùa hè kéo dài từ
tháng 3 đến tháng 4, mùa gió mùa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9; và mùa sau gió
mùa kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11.[30] Trong
mùa gió mùa, gió mùa tây nam đưa đến các cơn mưa lớn, gây lũ lụt thường xuyên.:4[27]:73 Lượng
mưa trung bình năm từ năm 1995 đến năm 2006 dao động từ 1.979,6 đến
2.745,9 mm (77,94 đến 108,11 in).[31] Trong
mùa đông, nhiệt độ dao động từ 13 đến 27 °C (55 đến 81 °F), còn nhiệt
độ vào mùa hè dao động từ 24 và 36 °C (75 và 97 °F).[30] Theo
tường trình của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Tripura nằm trên
đới "có nguy cơ chịu thiệt hại rất cao" do gió lốc.[32]
Động
thực vật
Tripura nằm trong vùng sinh thái Indomalaya giống
như hầu hết những nơi khác trên tiểu lục địa Ấn Độ. Theo phân loại địa lý sinh học của Ấn Độ, bang thuộc về
vùng địa lý sinh học "Đông-Bắc".[36] Tính đến năm 2011, rừng
bao phủ 57,73% diện tích của bang.[37] Tripura
có ba loại hệ sinh thái khác biệt: núi, rừng và nước ngọt.[38] Các
loài thuộc chi dầu, mít, Amoora, côm, trâm và vối chiếm
ưu thế trong các khu rừng thường xanh trên các sườn đồi và bãi đất cát ven
sông.[39] Đa
số các loài thực vật xuất hiện trong hai loại rừng rụng lá ẩm: rừng hỗn tạp
rụng lá và loại rừng mà Sala (Shorea
robusta) chiếm ưu thế.[39] Các
rừng tre và mây nằm rải rác với các loài thực vật rụng lá và thường xanh là
điểm đặc biệt của hệ thực vật trong bang.[39] Tripura
cũng có các thảo nguyên và đầm lầy, đặc biệt là tại các đồng bằng. Các
loài thực vật thân thảo, cây bụi, và thực vật thuộc
chi bản xe, lộc vừng, tử vi và mã rạng mọc sum sê trong các đầm lầy của
Tripura. Các loài cây bụi và thân cỏ gồm có Schumannianthus dichotoma (shitalpati), Phragmites và Saccharum.[39]
Theo một nghiên cứu vào năm 1989–90, Tripura có 90 loài thú trên
cạn thuộc 65 chi và 10 bộ,[40] bao
gồm các loài như voi (Elephas
maximus), gấu (Melursus
ursinus), cầy mực (Arctictis
binturong), sói đỏ (Cuon
alpinus), đon (Artherurus assamensis), mang (Muntiacus muntjak), nai (Cervus
unicolor), lợn
rừng (Sus scrofa), bò tót (Bos
gaurus), báo hoa
mai (Panthera pardus), báo gấm (Neofelis
nebulosa), và nhiều loài nhỏ thuộc họ Mèo và loài thuộc bộ Linh trưởng.[40] Trong
số 15 loài linh trưởng sinh sống trong môi trường tự do tại Ấn Độ, có bảy loài
được phát hiện tại Tripura; đây là con số cao nhất trong các bang của Ấn Độ.[40] Trâu
rừng (Bubalus arnee) hiện đã tuyệt chủng tại bang.[41] Có
gần 300 loài chim tại bang.[42]
Tipura có các khu bảo tồn loài hoang dã Sipahijola, Gumti, Rowa
và Trishna.[43] có các vườn quốc gia Báo
gấm và Rajbari.[43] Tổng
cộng, các khu bao tồn này bao phủ một diện tích 566,93 km2 (218,89 sq mi).[43] Gumti
cũng là một vùng chim quan trọng.[44] Vào
mùa đông, có hàng nghìn cá thể chim nước tụ tập tại các hồ Gumti và Rudrasagar.[45]
Hành chính
Các huyện của Tripura
Tripura trải qua thay đổi lớn về phân chia hành chính vào tháng
1 năm 2012. Trước đó, bang có bốn huyện là Dhalai (thủ phủ là Ambassa), Bắc
Tripura (thủ phủ là Kailashahar), Nam
Tripura (thủ phủ là Udaipur),
và Tây Tripura (thủ phủ là Agartala). Bốn huyện mới
được tách ra từ các huyện này vào tháng 1 năm 2012 là Khowai, Unakoti, Sipahijala và Gomati.[46] Huyện
trưởng là người quản lý mỗi huyện, họ thường được Cục Hành chính Ấn Độ bổ
nhiệm. Các đơn vị hành chính trực thuộc mỗi huyện do phó phân khu trưởng quản
lý, mỗi phó phân khu lại được chia tiếp thành các block. Các block gồm có
các Panchayat (hội
đồng làng) và chính quyền đô thị. Tính đến năm 2012, bang có tám huyện, 23 phó
phân khu và 45 block.[47] Agartala
là thủ phủ của Tripura, và cũng là thành phố đông dân nhất trong bang.[48] Các
đô thị khác có 10.000 cư dân hoặc nhiều hơn (điều tra năm 2001) là Badharghat, Dharmanagar, Jogendranagar,
Kailashahar, Pratapgarh,
Udaipur, Amarpur, Belonia, Gandhigram, Indranagar, Kumarghat, Ranirbazar, Sonamura,
và Teliamura.[48]
Chính
phủ và chính trị
Giống với các bang khác tại Ấn Độ, Tripura có một hệ thống nghị
viện theo hình thức dân chủ đại nghị. Các cư dân trong bang được
trao quyền tuyển cử phổ thông. Chính phủ Tripura gồm ba nhánh: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Hội
đồng lập pháp Tripura gồm có các thành viên được bầu và các cán sự đặc thù do
các thành viên bầu nên. Chủ tịch hội đồng là người chủ trì các cuộc họp của hội
đồng lập pháp, nếu chủ tịch vắng mặt thì phó chủ tịch là người thay thế. Hội
đồng lập pháp Tripura là đơn viện với 60 thành viên.[49] Các
thành viên được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm, trừ trường hợp Hội đồng bị giải tán
trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Hệ thống tư pháp gồm có Tòa cấp cao Tripura và một
hệ thống các tòa cấp thấp.[50][51] Quyền
hành pháp được trao cho Hội đồng bộ trưởng, với người đứng đầu là Thủ tịch bộ
trưởng (Chief Minister). Thống đốc là người đứng đầu bang trên danh nghĩa,
người này do Tổng thống Ấn Độ bổ nhiệm. Lãnh đạo của
đảng hoặc liên minh đảng phái chiếm đa số trong Hội đồng lập pháp sẽ được Toàn
quyền bổ nhiệm làm Thủ tịch bộ trưởng. Các thành viên trong Hội đồng bộ trưởng
do Toàn quyền bổ nhiệm theo cố vấn của Thủ tịch bộ trưởng. Hội đồng bộ trưởng
phải tường trình trước Hội đồng lập pháp.
Cung Ujjayanta từng là cung điện của vương
thất Tripura, tòa nhà là nơi Hội đồng lập pháp Tripura tiến hành hội họp cho
đến năm 2011.
Tripura gửi hai đại diện đến Lok
Sabha (hạ nghị viện Ấn Độ) và một đại diện đến Rajya
Sabha (thượng nghị viện Ấn Độ). Các Panchayat (chính
quyền tự trị địa phương) được bầu trong các cuộc tuyển cử hội đồng địa phương
và hiện diện tại nhiều làng tự trị. Tripura cũng có một hội đồng tự trị bộ lạc
độc nhất đó là Hội đồng khu vực tự trị các khu vực bộ lạc Tripura (TTAADC).[52] Hội đồng này chịu trách
nhiệm đối với một số khía cạnh trong quản trị địa phương tại hàng trăm làng có
tỷ lệ lớn "các bộ lạc được liệt kê".[52][53]
Các chính đảng lớn tại Tripura là Mặt trận Cánh Tả và Đảng Quốc Đại, Đảng Quốc Đại cầm quyền tại
Tripura cho đến năm 1977.[54]:255–66 Mặt
trận Cánh Tả giành được quyền lực từ năm 1978 đến năm 1988, và từ năm 1993 trở
đi.[55] Trong
giai đoạn 1988–1993, Đảng Quốc Đại và Hiệp hội Thanh niên bộ lạc Tripura tạo
thành một liên minh cầm quyền.[56] Trong
cuộc tuyển cử được tổ chức vào tháng 2 năm 2013, Mặt trận Cánh Tả giành được 50
trong số 60 ghế tại Hội đồng lập pháp, 49 ghế trong đó thuộc về Đảng
Cộng sản Ấn Độ (Marxist) (CPM).[57] Trong
năm 2013, Tripura là bang duy nhất tại Ấn Độ có một đảng cộng sản cầm quyền.
Trước đó, hai bang Tây Bengal và Kerala cũng
từng có các chính phủ cộng sản được bầu lên theo cách thức dân chủ.[58]
Chủ nghĩa cộng sản tại Tripura khởi đầu từ
thời kỳ tiền độc lập, lấy cảm hứng từ các hoạt động đấu tranh đòi tự do
tại Bengal, và
lên đến cực độ khi có các chính đảng địa phương mang khuynh hướng cộng sản.[59]:362 Phong
trào cộng sản lợi dụng sự bất mãn của các bộ lạc đối với người thống trị chủ
đạo.[59]:362 và
được biết đến vì các liên kết với việc tìm kiếm bản sắc địa phương hoặc sắc
tộc.[60] Kể
từ thập niên 1990, diễn ra một cuộc nổi dậy liên tục của người Tripura nhằm đòi
đất, với sự tham gia của các tổ chức quân sự như Mặt
trận Giải phóng Dân tộc Tripura và Lực
lượng Hổ Toàn Tripura (ATTF); các sự kiện khủng bố có liên quan đến ATTF được
ghi nhận là có 389 nạn nhân từ năm 1993 đến năm 2000.[61]
Tripura Tribal Areas Autonomous District Council, pictured, encompasses much of the state
Kinh
tế
Năm Tổng
sản phẩm nội địa bang
2004–05 8.904
2005–06 9.482
2006–07 10.202
2007–08 10.988
2008–09 11.596
2009–10 12.248
2010–11 12.947
Tổng sản phẩm nội địa bang của Tripura năm 2010–11 là 129,47 tỷ
rupee theo giá cố định (2004–05),[62] tăng
trưởng 5,71% so với năm trước.
Năm 2009-2010, thu nhập bình quân đầu người hàng năm theo giá
hiện tại của Tripura là 38.493 rupee, trong khi thu nhập bình quân đầu người
toàn quốc là 44.345 rupee.[63]
Năm 2009, khu vực thứ ba của nền kinh tế (dịch vụ) có đóng góp
lớn nhất vào tổng sản phẩm nội địa của bang, với 53,98% so với đóng góp 23,07%
của khu vực sơ khai (nông
lâm nghiệp, khai mỏ) và đóng góp 22,95% của khu vực thứ hai (công
nghiệp và chế tạo).[63]Theo
Điều tra Kinh tế năm 2005, sau nông nghiệp, số lao động lớn nhất là trong lĩnh
vực bán lẻ (28,21% tổng số lao động phi nông nghiệp), tiếp đến là ngành chế tạo
(18,60%), hành chính công (14,54%), và giáo dục (14,40%).[64]
Tripura là một bang nông nghiệp, với trên một nửa dân số phụ
thuộc vào nông nghiệp và các hoạt động có liên quan.[65] Tuy
nhiên, do địa hình nhiều đồi và có độ che phủ rừng lớn, chỉ có 27% đất có thể
canh tác.[65] Lúa
là cây trồng chính trong bang, chiếm khoảng 91% diện tích gieo trồng.[65] Theo
cục Kinh tế và Thống kê của Chính phủ Tripura, trong năm 2009–10, khoai
tây, mía, bụt giấm, các loại đậu và đay là những cây trồng chính
khác tại bang.[66] Mít và dứa đứng
đầu trong số các sản phẩm từ vườn.[66]Theo
truyền thống, hầu hết cư dân bản địa sử dụng phương pháp trồng trọt jhum (một
kiểu chặt và đốt). Số người dựa vào jhumsuy giảm theo thời gian.[67]:37–9
Ngư nghiệp Tripura đạt được những tiến bộ đáng kể. Đến cuối năm
2009-2010, bang sản xuất thặng dư 104,3 triệu cá giống.[68] Cao
su và trà là các cây trồng kinh tế quan trọng tại bang, Tripura xếp thứ nhì sau
Kerala về sản lượng cao su tự nhiên tại Ấn Độ.[69] Thủ
công nghiệp Tripura được biết đến, đặc biệt là vải bông dệt thủ công, đồ khắc
gỗ, và các sản phẩm từ tre. Cây gỗ chất lượng cao gồm sala, dầu, tếch và lõi thọ, chúng
có nhiều trong các khu rừng tại Tripura.
Khu vực công nghiệp của Tripura vẫn hết sức kém phát triển; hai
ngành được tổ chức duy nhất là gạch và trà.[64] Tripura có trữ lượng đáng
kể về khí đốt tự nhiên, song nghèo các loại khoáng sản khác như khoáng vật sét, cát
thủy tinh, than
nâu, và đá vôi.[27]:78–81 Theo
ước tính của Tổng công ty Dầu và Khí thiên
nhiên (ONGC) của Ấn Độ, Tripura có trữ lượng 400 tỷ m³ khí
đốt thiên nhiên, trong đó có thể khai thác 16 tỷ m³.[69] ONGC
sản xuất 480 triệu m³ khí đốt thiên nhiên tại Tripura vào năm 2006–07.[69] Ngành
công nghiệp du lịch Tripura đang phát triển, thu nhập từ lĩnh vực du lịch vượt
10 triệu rupee lần đầu tiên vào năm 2009–10, và vượt 15 triệu rupee vào năm
2010–11.[70] Mặc
dù Bangladesh nằm trong tình trạng thâm hụt mậu dịch với Ấn Độ, song xuất khẩu
của nước này sang Tripura nhiều hơn đáng kể so với nhập khẩu từ bang; một tường
thuật trên báo The Hindu ước tính Bangladesh xuất khẩu hàng
hóa trị giá 3,5 tỷ rupee sang Tripura vào năm 2012, song nhập khẩu "số
lượng rất ít".[71] Bên
cạnh mậu dịch quốc tế hợp pháp, hoạt động biên mậu phi chính thức và phi pháp
diễn ra tràn lan.[72]
Cơ
sở hạ tầng
Giao thông
Quốc lộ 44 kết nối Tripura với phần còn lại
của Ấn Độ
Quốc lộ 44 (NH-44) là tuyến đường bộ lớn duy nhất kết nối
Tripura với phần còn lại của Ấn Độ.[73] Quốc lộ bắt đầu từ Sabroom tại
nam bộ Tripura, chạy hướng về phía bắc đến thủ phủ Agartala, rồi chuyển sang
hướng đông rồi đông bắc và đi sang bang Assam. Quốc lộ 44 được người địa phương
gọi là "đường Assam", và thường được gọi là đường sinh mệnh của Tripura.[73] Tuy
nhiên, tuyến đường này chỉ có một làn và có chất lượng kém, thường xảy ra lở
đất, mưa và các sự cố khác trên đường khiến Tripura bị cô lập với các bang
khác.[27]:73[67]:44 Quốc
lộ 44A (NH 44A) nối đô thị Manu tại
huyện Nam Tripura với Aizawl thuộc Mizoram.[26] Tổng
công ty giao thông đường bộ Tripura là cơ quan chính phủ làm nhiệm vụ giám sát
giao thông công cộng bằng đường bộ. Tripura là một bang nội lục nhiều đồi, dựa
chủ yếu vào loại hình giao thông đường bộ.[73]Tổng
chiều dài các tuyến đường bộ trong bang là 16.931 km (10.520 mi),
trong đó theo số liệu năm 2009–10 thì các quốc lộ dài tổng cộng 448 km
(278 mi) và các bang lộ dài tổng cộng 689 km (428 mi).[73] Dân
cư tại các khu vực nông thôn thường xuyên sử dụng phương thức vận chuyển bằng
đường thủy.[74]:140
Sân bay Agartala nằm cách thủ phủ Agartala
12,5 km về phía tây bắc, và là sân bay bận rộn thứ nhì tại Đông Bắc Ấn Độ,
sau Guwahati.
Agartala airport
Cảng hàng không này có các chuyến bay thẳng kết nối đến Kolkata, Imphal, Delhi, Silchar, Aizwal, Guwahati, Bangalore, Chennai, Ahmedabad và Mumbai. Các
hãng hàng không hoạt động tại cảng hàng không là Air
India, Jet Airways, Indigo Airlines và Spicejet. Dịch
vụ trực thăng hành khách khả dụng giữa thủ phủ và các đô thị lớn (Kailashahar,
Dharmanagar) cũng như đến các khu vực hẻo lánh hơn như Kanchanpur và
Gandacherra.[73]
Tripura không có loại hình giao thông đường sắt cho đến năm
2008–09, khi đó một tuyến đường sắt giữa thủ phủ Agartala và ga đầu mối Lumding tại
Assam được hoàn thành.[73] Đây
là tuyến đường sắt có đường ray khổ mét, nối với đường ray khổ Ấn Độ tại
Lumding. Các ga chính trên tuyến đường sắt này là tại Agartala, Dharmanagar,
và Kumarghat. Tính đến năm 2009–10, tổng chiều dài
đường ray đường sắt trong bang là 153 km (95 mi). Việc kéo dài tuyến
đường sắt từ Agartala về đô thị Sabroom ở cực nam cũng được tiến hành.[73]
Tripura có tuyến biên giới quốc tế dài 856 km (532 mi)
với Bangladesh, chiếm 84% chu vi của bang.[75] Một
số địa điểm dọc theo biên giới đóng vai trò là các trạm mậu dịch song phương
giữa Ấn Độ và Bangladesh, như Akhaura gần Agartala, Raghna, Srimantpur,
Belonia, Khowai và Kailasahar.[71] Có
dịch vụ xe khách giữa Agartala và thủ đô Dhaka của
Bangladesh.[76][77] Năm
2013, hai quốc gia ký kết một hiệp định về việc thiết lập một tuyến đường sắt
dài 15 km (9,3 mi) kết nối giữa Agartala và ga đầu mối Akhaura của
Bangladesh.[78] Công
dân hai quốc gia cần phải có thị thực để nhập cảnh quốc gia khác một cách hợp
pháp; song di chuyển và buôn lậu phi pháp qua biên giới diễn ra phổ biến.[79]:314[80]
Truyền
thông và thông tin
Tính đến năm 2012, có 56 nhật báo và tuần báo phát hành tại
Tripura.[81] Hầu hết các báo phát hành
bằng tiếng Bengal, ngoại trừ một nhật báo viết bằng tiếng Kokborok (Hachukni
Kok), một tuần báo viết bằng tiếng Manipur (Marup), hai nhật báo
tiếng Anh và ba tuần báo song ngữ.[81] Các
nhật báo trứ danh là Daily Desher Katha, Ajkal Tripura, Dainik
Sambad, và Syandan Patrika.[81] Một
nghiên cứu của Viện Ấn Độ về truyền thông đại chúng (IIMC) vào năm 2009 cho
thấy có 93% số phiếu lấy mẫu tại Tripura đánh giá truyền hình là rất hữu hiệu
đối với thông tin và giáo dục đại chúng.[82] Theo
nghiên cứu, 67% số phiếu lấy mẫu trả lời có nghe phát thanh và 80–90% trả lời
có đọc báo.[82] Hầu
hết các công ty truyền thông lớn của Ấn Độ hiện diện tại Tripura, chẳng hạn
như Airtel, Aircel, Vodafone, Reliance, Tata Indicom, Idea và BSNL. Kết nối di động vượt trội so
với kết nối cố định, tính đến năm 2011, công ty quốc doanh BSNL có 57.897 thuê
bao cố định và 325.279 thuê bao di động GSM.[73] Tính
đến năm 2011, có 84 tổng đài điện thoại (dành cho điện thoại cố định) và 716
bưu cục tại Tripura.[73]
Điện năng
và thủy lợi
Tính đến năm 2013, Tripura có ba nhà máy phát điện thuộc sở hữu
của Tập đoàn điện năng bang Tripura, đó là các nhà máy nhiệt điện sử dụng khí
thiên nhiên tại Rokhia và Baramura, và nhà máy thủy điện trên sông Gumti. Tổng
công suất của ba nhà máy điện này là 100–105 MW.[83] Công ty Điện lực Đông Bắc
Bộ (NEEPCO) điều hành nhà máy điện tuốc bin khí Agartala có công suất
84 MW nằm gần Agartala. Trong những thời điểm nhu cầu điện năng đạt cực
độ, bang phải vay 50–60 MW điện năng từ lưới điện Đông Bắc của mạng lưới
truyền tải quốc gia.[83] Một nhà máy nhiệt điện do
Tập đoàn dầu và khí thiên nhiên điều hành được khánh thành vào tháng 6 năm 2013
tại Palatala, có công suất dự kiến đạt trên 700 MW.[84] Tính
đến tháng 3 năm 2014, một nhà máy nhiệt điện khác đang chờ được vận hành tại
Monarchak.[85]
Tính đến năm 2011, 255.241 hécta (985 sq mi)
đất tại Tripura có thể canh tác, trong đó các dự án tưới tiêu có khả năng bao
phủ 108.646 hécta (419 sq mi). Tuy nhiên, chỉ có 74.796 hécta
(289 sq mi) là được tưới.[86] Tripura thiếu các dự án
tưới tiêu lớn; phải dựa và các dự án quy mô trung bình lấy nước từ các sông
Gumti, Khowai và Manu, và các dự án quy mô nhỏ do hội đồng cấp làng quản lý,
các dự án này sử dụng các giếng ống, bơm tay, bể và nâng thủy lợi.[86]
Giáo dục
Phòng học được dựng bằng tre trong một trường
học. Trong năm 2010–11, Tripura có 4.455 trường công lập hoặc tư thục.[87] Ngôn
ngữ giảng dạy chính là tiếng Anh hoặc tiếng Bengal.
Các trường học tại Tripura do chính phủ bang và các tổ chức tư
nhân điều hành, trong đó có các tổ chức tôn giáo. Ngôn ngữ giảng dạy chính
trong các trường học là tiếng Anh hoặc tiếng Bengal, song tiếng Kokborok và các
ngôn ngữ địa phương khác cũng được sử dụng. Các trường học là thành viên của
Hội đồng Khảo thí chứng chỉ trường học Ấn Độ (CISCE), Ủy ban Trung ương về giáo
dục trung học (CBSE), Viện quốc gia về giáo dục mở (NIOS) hay Ủy ban Tripura về
giáo dục trung học.[88] Theo
kế hoạch 10+2+3, sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh thường theo học hai năm
cao đẳng hoặc trong một trường trung học cao cấp là thành viên của Ủy ban
Tripura về giáo dục trung học hoặc các ủy ban trung ương khác. Học sinh lựa
chọn một trong ba ban: khai phóng,
thương mại hay khoa học.[88] Giống
như phần còn lại của Ấn Độ,[89] sau khi vượt qua kỳ khảo
thí trung học cao cấp (kỳ thi lớp 12), học sinh có thể ghi danh vào các chương
trình đào tạo tổng quát hoặc chuyên nghiệp.
Theo Bình luận kinh tế Tripura 2010–11, Tripura có tổng cộng
4.455 trường học, trong đó có 2.298 trường tiểu học.[87] Tổng
số học sinh ghi danh trong các trường học tại bang là 767.672.[87] Tripura
có một Đại học trung tâm (Đại học Tripura) và một đại học tư thục (một phân
hiệu của Học viện phân tích viên tài chính đặc hứa Ấn Độ). Bang có 15 trường
tổng quát, hai trường kỹ thuật (trường kỹ thuật Tripura và trường quốc gia về
kỹ thuật, Agartala), hai trường y (trường y chính phủ Agartala và trường y
Tripura), ba trường bách khoa, một trường luật, một trường nhạc, và một trường
nghệ thuật.[87]
Y tế
Chỉ
số y tế năm 2010[90]
Chỉ
số Tripura Ấn Độ
Tỷ suất xuất sinh 14,9‰ 22,1‰
Tỷ suất tử vong 5,0‰ 7,2‰
Tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh 27‰ 47‰
Tổng tỷ suất sinh 22‰ 27‰
Tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên 9,9‰ 14,9‰
Tripura có một hệ thống y tế phổ thông do Bộ Y tế và Phúc lợi
gia đình của Chính phủ Tripura vận hành.[91] Cơ
sở hạ tầng chăm sóc y tế được chia thành ba bậc: mạng lưới chăm sóc y tế sơ
cấp, một hệ thống chăm sóc trung cấp gồm các bệnh viện huyện và phó phân khu,
và các bệnh viện cấp ba cung cấp dịch vụ chăm sóc chuyên khoa và siêu chuyên
khoa.
Tính đến năm 2010–11, Tripura có 17 bệnh viện, 11 bệnh viện nông
thôn và trung tâm y tế cộng đồng, 79 trung tâm y tế sơ cấp, 635 phân trung
tâm/trạm phát thuốc, 7 ngân hàng máu và 7 trung tâm kho máu.[92]
Các phương pháp y khoa vi lượng đồng căn và Ayurveda cũng
phổ biến tại bang.[92] Điều
tra y tế gia đình quốc gia – 3 tiến hành vào năm 2005–06 cho thấy rằng 20%
cư dân tại Tripura không thường xuyên sử dụng các phương tiện y tế của chính
phủ, và ưa thích khu vực y tế tư nhân hơn.[93] Tỷ
lệ này thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc, theo đó 65,6% dân số Ấn Độ
không dựa vào các phương tiện y tế của chính phủ.[93]
Giống như phần còn lại của Ấn Độ, cư dân Tripura cũng cho rằng
chất lượng chăm sóc yếu kém là nguyên nhân phổ biến nhất khiến họ không dựa vào
dịch vụ y tế công. Các lý do khác bao gồm khoảng cách xa xôi với dịch vụ y tế
công, thời gian chờ đợi lâu, và thời gian hoạt động bất tiện[93] Tính đến năm 2010, thành tích
của Tripura trên các chỉ số lớn về chăm sóc y tế công cộng, như tỷ suất tử
vong, tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh và tổng tỷ suất sinh là tốt hơn so với trung
bình toàn quốc.[90]
Nhân
khẩu
Tăng trưởng dân số[94]
Điều tra Dân
số %±
1951 639.000 ---
1961 1.142.000 78,7%
1971 1.556.000 36,3%
1981 2.053.000 31,9%
1991 2.757.000 34,3%
2001 3.199.203 16%
2011 3.671.032 14,7%
Tripura là bang đông dân thứ nhì tại Đông Bắc Ấn Độ, đứng sau
Assam. Theo kết quả tạm thời của cuộc điều tra nhân khẩu năm 2011 tại Ấn Độ,
Tripura có dân số 3.671.032, với 1.871.867 nam và 1.799.165 nữ.[95] Tỷ
suất giới tính trong bang là 961 nữ trên một nghìn nam,[95] cao hơn mức trung bình
toàn quốc là 940. Mật độ dân số là 350 người/km².[96] Tỷ lệ biết chữ tại
Tripura vào năm 2011 là 87,75%,[95] cao
hơn mức trung bình toàn quốc là 74,04%. Đến năm 2013, chính quyền bang tuyên bố
tỷ lệ biết chữ đã lên đến 94,65%, chiếm vị trí hàng đầu toàn quốc.
Năm 1875, thành viên các bộ lạc chiếm 63,77% dân số trong khu
vực, điều này cho thấy dân số phi bản địa khi đó có sự hiện diện đáng kể, chủ
yếu là người Bengal.[59]:359 Các
quốc vương của phiên vương quốc Tripura khuyến khích người Bengal di cư đến, và
người Bengal tham gia vào các công việc hành chính và tiến hành canh tác hiện
đại năng suất cao hơn, trong khi người bản địa canh tác theo kiểu jhum (đốt
nương rẫy).[59]:359 Số
người Bengal di cư tăng lên đáng kể sau khi Ấn Độ phân chia, khiến các bộ lạc
trở thành thiểu số.
https://s20.postimg.cc/mf6b1vczh/Tripuri_02.jpg
Trẻ em người Tripura chuẩn bị biểu diễn vũ
đạo. Người Tripura thuộc nhóm Tạng-Miến có nguồn gốc gần thượng du của Trường Giang và Hoàng Hà tại Trung Quốc, họ
chiếm 17% dân số toàn bang.[24][97]
Trong điều tra nhân khẩu năm 2001 tại Ấn Độ, người Bengal chiếm
69% dân số Tripura, trong khi người bản địa chiếm 31%.[97] "Các
bộ lạc được liệt kê" gồm các nhóm dân tộc chịu thiệt thòi trong lịch sử
được công nhận theo hiến pháp Ấn Độ, trong đó Tripura có 19 dân tộc và nhiều
phân nhóm,[98] với sự đa dạng về ngôn
ngữ và văn hóa. Năm 2001, nhóm "bộ lạc được liệt kê" lớn nhất là
người Tripura nói tiếng Kokborok, họ có
dân số là 543.848 và chiếm 17,0% dân số toàn bang, chiếm 54,7% dân số "các
bộ lạc được liệt kê".[97] Các
nhóm lớn khác theo thứ tự dân số giảm dần là Reang, Jamatia, Chakma, Halam,
Mog, Munda, Kuki và Garo.[97] Tiếng
Bengal là ngôn ngữ được nói phổ biến nhất trong bang do người
Bengal có số lượng lớn. Kokborok là một ngôn ngữ chiếm ưu thế trong các bộ lạc.
Một số ngôn ngữ khác như tiếng
Hindi, Mog, Oriya,
Bishnupriya Manipur, Manipur, Halam,
Garo và Chakma thuộc các ngữ hệ Ấn-Âu và Hán-Tạng được nói tại bang.[99]
Tôn giáo
|
Tỷ lệ
|
|||
85.60%
|
||||
7.90%
|
||||
Cơ Đốc giáo
|
3.20%
|
|||
3.10%
|
||||
Khác
|
0.15%
|
Tripura xếp thứ 18 về chỉ số phát triển con người (HDI)
trong số các bang và lãnh thổ liên bang tại Ấn Độ, theo ước tính năm 2006 của
Bộ Phát triển Phụ nữ và Thiếu nhi; HDI của Tripura là 0,663, trong khi mức
trung bình toàn quốc là 0,605.[101] Theo
điều tra nhân khẩu năm 2001, Ấn Độ giáo là tôn giáo đa số trong bang, được
85,8% dân số trong bang tin theo.[102] Người
Hồi giáo chiếm 7,9% dân số, người Cơ Đốc giáo chiếm 3,2%, và người Phật giáo
chiếm 3,1%.[102] Tỷ
lệ người Hồi giáo tại Tripura dần suy giảm kể từ năm 1971 do những tín đồ Ấn Độ
giáo nhập cư từ Bangladesh, trong khi tín đồ Hồi giáo trong bang di cư đến quốc
gia này với quy mô lớn. Đa số các bộ lạc trong bang theo Ấn Độ giáo và tiến
hành các nghi thức tôn giáo Ấn Độ giáo. Họ tin tưởng và sự tồn tại của Thượng
đế trong toàn bộ các yếu tố tự nhiên do họ tin theo thuyết vật linh.[103]:110 Người
Mog và người Chakma là các cộng đồng theo Phật giáo tại Tripura. Những tín đồ
Cơ Đốc giáo trong bang chủ yếu là thành viên của các bộ lạc Lushai, Kuki và
Garo.[74]:135–6
Văn
hóa
Các nhóm dân tộc-ngôn ngữ đa dạng tại Tripura tạo ra một văn hóa
hỗn hợp.[104][105] Người
Bengal là cộng đồng dân tộc-ngôn ngữ lớn nhất trong bang, văn hóa Bengal do vậy
là văn hóa phi bản địa chính tại Tripura. Trên thực tế, có nhiều gia đình sinh sống
trong đô thị thuộc tầng lớp tinh hoa trong các bộ lạc đã và đang tích cực tiếp
nhận văn hóa và ngôn ngữ Bengal.[106] Các quốc vương Tripura
xưa kia là những nhà bảo trợ lớn đối với văn hóa Bengal, đặc biệt là văn học;[106] Tiếng
Bengal khi đó là ngôn ngữ của triều đình.[107] Các
yếu tố của văn hóa Bengal như văn học, âm nhạc, ẩm thực trở nên phổ biến, đặc
biệt là tại các khu vực đô thị của bang.[103]:110[106][108]
https://s20.postimg.cc/3mufyaw0t/Unakoti_group_of_bas-relief_sculptures.jpg
Unakoti là một di chỉ hành hương của giáo
phái Ấn Độ giáo Shaiva trong lịch sử, có niên đại từ thế kỷ VII–IX. Các khối
đá được chạm khắc mô tả các thần Shiva và Ganesha.
Tripura nổi tiếng với các đồ thủ công làm bằng tre và mây.[105] Tre, gỗ và mây được sử
dụng để tạo ra một loạt gia cụ, dụng cụ, quạt cầm tay, chế phẩm mô phỏng,
chiếu, rổ, tượng thần và vật liệu trang trí nội thất.[22]:39–41[109] Âm
nhạc và vũ đạo là các loại hình không thể thiếu trong văn hóa Tripura. Một số
nhạc cụ địa phương là sarinda, chongpreng (các
loại đàn), và sumui (một loại sáo).:344–5 Mỗi
cộng đồng bản địa lại sở hữu riêng vốn tiết mục ca khúc và vũ đạo biểu diễn
trong các hôn lễ, các công việc tôn giáo, và các lễ hội khác. Người Tripura và
người Jamatia biểu diễn vũ điệu Goria trong dịp Goria Puja. Các vũ điệu khác
của người Tripura là Jhum, Lebang, Mamita, hay Mosak sulmani.[110] Cộng
đồng Reang được chú ý với vũ điệu Hojagiri, vũ điệu này do các thiếu nữ biểu
diễn với các động tác giữ thăng bằng đồ vật.[110] Vũ
điệu Bizhu được người Chakma biểu diễn vào lễ hội Bizhu (ngày cuối của
tháng Chaitra theo lịch Hindu). Các
vũ điệu khác bao gồm Wangala của người Garo, Hai-hak của nhánh Halam của người
Kuki, và Sangrai và Owa của người Mog.[110] Bên cạnh đó, âm nhạc và
vũ đạo cổ điển Ấn Độ, Rabindra Sangeet của Rabindranath Tagore cũng được biểu diễn.[111] Sachin Dev Burman là một
thành viên vương thất Tripura, ông là một nhà soạn nhạc bậc thầy trong thể loại
âm nhạc đại chúng filmi.[112]
Các tín đồ Ấn Độ giáo tin rằng Tripureshwari là
nữ thần bảo hộ của Tripura và một diện mạo của Shakti.:30 Các
lễ hội quan trọng trong bang là Durga Puja, Kali Puja, Ashokastami và thờ phụng
các thần Chaturdasha. Một số lễ hội tiêu biểu cho việc dung hợp các
truyền thống địa phương các nhau, như Ganga Puja, Garia Puja, Kharchi Puja và
Ker Puja.[113][114] Unakoti,
Pilak và Devtamura là các di chỉ lịch sử, nổi tiếng với các bộ sưu tập lớn về
tác phẩm khắc đá.[105][115] Những
tác phẩm điêu khắc này là bằng chứng cho sự hiện diện của tín đồ Phật giáo và
giai cấp Bà-la-môntrong nhiều thế kỷ, và đại diện cho một sự
dung hợp nghệ thuật hiếm hoi của các tôn giáo có tổ chức truyền thống và ảnh
hưởng bộ lạc.[116][117][118]
Bóng đá và cricket là
hai môn thể thao phổ biến nhất tại Tripura. Thủ phủ Agartala có giải vô địch
các câu lạc bộ bóng đá riêng, được tổ chức thường niên với thể thức loại trực
tiếp. Tripura tham gia giải cricket quốc nội của Ấn Độ là Ranji Trophy với
tư cách đội của một bang miền Đông. Tripura tham gia đều đặn Đại hội thể thao
quốc gia Ấn Độ và Đại hội thể thao Đông Bắc Bộ (Ấn Độ).[119][120]
No comments:
Post a Comment