Giáo-sư TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) phần
4
(Xin quý vị giữ lại bài viết này trong máy. Đề phòng
bản văn bị xoá.)
Bản điều trần của Giáo-sư
TRẦN ĐẠI-SỸ (IFA) Về việc đảng Cộng-sản Việt-Nam, Lãnh đạo nhà nước cắt
lãnh thổ, lãnh hải cho Trung-quốc Ngày 10-11-2001
Bí ẩn về
việc đảng Cộng-sản lãnh đạo nhà nước Việt-Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải cho
Trung-quốc.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
... (tiếp theo)
Bản đồ Hiệp-ước Pháp-Hoa 1887
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 17,
Tôi thấy bản đồ đính kèm bản tuyên bố 1958 của
Trung-quốc, chỉ ấn định vùng biển Nam-hải, mà không đề cập đến vịnh
Bắc-bộ. Như vậy có nghĩa rằng họ công nhận lãnh hải trong vịnh theo Hiệp-ước
Pháp-Thanh 1887?
Gs TĐS,
- Quả đúng như Ngài suy đoán. Nhưng
chỉ vì gần đây Trung-quốc biết được trong vịnh có trữ lượng dầu lửa lớn, nên
mới đòi VN, cắt vùng này cho họ.
Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 18,
- Cho chúng tôi chứng cớ.
Gs TĐS,
- Thưa có rất nhiều.
Trước hết là những hoạt động của Trung-quốc
trong vùng vịnh này.
·
Ngày 19 rồi 30-8-1992, Trung-quốc đưa hai tầu
tìm dầu lửa trong vịnh Bắc-bộ.
·
Ngày 30-9-1992 tầu Nam-hải 6 của Trung-quốc
xâm nhập vùng cách Đông-Nam cửa biển Ba-lạt của VN 112km.
·
Tầu Phấn-đấu 5 nghiên cứu tại cửa biển
Hải-phòng, cách bờ biển Thái-bình 70 dậm.
Phía VN phản đối, nhưng Trung-quốc chối rằng
họ đâu có nhập hải phận VN.
·
Trung-quốc tự định lãnh hải trong vịnh Bắc-bộ,
vượt ranh giới lãnh hải ấn định bởi Hiệp-ước Pháp-Thanh, họ tự đặt tên là
Tây-thủ (Main de l'Est, Hands off area), rồi cấm ngư phủ, Thủy-quân Việt đi
vào.
·
Về phía chúng ta, từ năm 1970, người Hoa-kỳ đã
thăm dò tìm dầu lửa trong biển Nam-hải, và vịnh Bắc-bộ. Tài liệu của
báo Petroleum News (USA, Feb. 1984), đăng bản đồ của Selig S. Harrison
chỉ rõ khu có dầu lửa.
Khu vực Trung-quốc
tự ấn định mới đây (1983) rồi cấm Hải-quân, Thương-thuyền, thuyền đánh cá
Việt-Nam đi vào mang tên Tây-thủ (Hands off area)
Kính thưa Quý-vị,
Chúng tôi xin chiếu bản đồ phân chia lãnh hải,
cũng như khu vực đánh cá mới theo Hiệp-định 25-12-2000.
Bản đồ hiệp định
mới về khu vực đánh cá dành cho Trung-quốc (25-12-2000)
Bản đồ lãnh hải theo hiệp định 25 tháng 12 năm 2000
Như vậy theo hiệp định Việt-Hoa 25-12-2000 thì
vùng vịnh Bắc-bộ được chia ra như sau:
·
Việt-Nam 53%
·
Trunguốc 47%.
So
với trước 1887 thì Việt-Nam chỉ mất có 38%, nay mất thêm 9% nữa, cộng chung là
47%!
4.5 - Ảnh hương vụ cắt lãnh hải.
4.5.1 - Mất lãnh hải, quốc sản.
Theo hiệp định này thì rõ ràng đảng Cộng-sản Việt-Nam đã nhường cho
Trung-quốc tới 9% lãnh hải vùng vịnh Bắc-Việt. Cái đau đớn là vùng nhượng là
vùng:
- Có nhiều
hải sản về cá thu, cá song, cá hồng, mực là những loại hải sản quý.
- Dưới đáy
biển có mỏ hơi đốt, và dầu lửa.
- Một số đảo
trong vùng nhượng, thuộc Trung-quốc.
4.5.2 - An ninh quốc gia bị đe dọa.
Nếu vụ nhượng đất nguy hại về phương diện tinh
thần, kinh tế, thì vụ nhượng lãnh hải lại nguy hại về an ninh. Vì Trung-quốc có
thể dùng các đảo này làm phi trường quân sự, căn cứ Hải-quân để uy hiếp Thủ-đô
Hà-nội và các tỉnh trung châu Bắc-Việt và miền Trung, miền Nam Việt-Nam. Nhất
là hai qyan đảo Hoàng-sa, Trường-sa.
Tin của ECL ghi lại, trong những cuộc hội đàm
Hoa-Việt về lãnh hải, Trung-quốc đòi cho được mấy đảo nhỏ trong vùng, nhất là
đảo Bạch-long vĩ. Hiện thì đảo này vẫn thuộc Việt-Nam. Nhưng trong các cuộc đàm
phán hiện còn đang tiếp diễn thì Trung-quốc cố đòi, phía Việt-Nam, trong nội bộ
cũng đã đồng ý. Cũng những tin của ECL về các cuộc hội của Bộ Chính-trị đảng
Cộng-sản Việt-Nam thì việc chủ trương nhượng các đảo do quyết định của toàn
thể, không do ba ông Cố-vấn Đỗ Mười, Lê Đức-Anh hay Võ Văn-Kiệt. Để tỏ ý
hoàn toàn quy phục Trung-quốc. Chính ông Lê Khả Phiêu, đã trao cho
Trung-quốc toàn bộ kế hoạch phòng thủ phía Bắc Việt-Nam. Theo ý kiến chúng tôi,
thì trong Bộ Chính-trị bấy giờ, nhóm quân đội rất mạnh, chủ chốt có ba vị tướng
là Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm Thanh-Nhàn. Trong tài liệu này, có phần ước
tính tình hình Trung-quốc, Việt-Nam, đại lược như sau:
·
"Trung-quốc không có khả năng dùng
Không-quân tấn công vào Thủ-đô Hà-nội và các tỉnh đồng bằng Bắc-bộ. Vì khoảng
cách từ các phi trường Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Hải-Nam quá xa.
Phi cơ chỉ có thể tới oanh tạc, nhưng trở về thì không đủ nhiên liệu.
·
Nếu Trung-quốc tiến công bằng đường bộ, thì ít
nhất phải có một triệu quân. Với một triệu quân mỗi ngày cần 10.000 lượt ô-tô
tiếp tế. Mà đường bộ thì các ngả Lai-châu, Lào-cai, Hà-giang không dùng được.
Chỉ có ba ngả chính tạm dùng. Một là Lạng-sơn, hai là Hạ-long (Quảng-yên cũ) ba
là Cao-bằng. Ba ngả đó đường xá gồ ghề, núi non hiểm trở. Với 10.000 lượt
xe, thì chỉ ba ngày là đường nát hết.
·
Địa thế hiểm trở, khúc khuỷu của ba con đường
này, chỉ cần ba người đóng một chốt, cũng đủ cản trở một ngày tiếp tế.
·
Trong bối cảnh chiến tranh Hoa-Việt xẩy ra,
thì Thủ-đô cũng như Bộ Chính-trị, Bộ Tổng Tư-lệnh có thể chuyển vào Thành-phố
Hồ Chí-Minh.
·
Trường hợp đó bắt buộc Trung-quốc phải dùng
đường biển tiếp tế, chuyển quân. Hai quân cảng lớn sử dụng sẽ là Bắc-hải,
Quảng-châu, Hải-Nam. Cả ba cùng xa, rất khó khăn".
Nếu bây giờ Trung-quốc được mấy đảo trong vịnh
Bắc-Việt, nhất là đảo chiến lược Bạch-long-vĩ, rất gần với thềm lục địa của
trung châu Bắc-bộ , miền Trung và miền Nam. Nếu như Trung-quốc được đảo này, rồi
thiết lập căn cứ Không-quân, Hải-quân, trạm tiếp vận tại đây, thì toàn bộ lãnh
thổ Việt-Nam bị uy hiếp nặng nề. Ông Lê Khả-Phiêu, Phạm Văn-Trà, Phạm
Thanh-Nhàn đều là tướng lãnh, từng cầm quân trên 40 năm, thì các ông phải
biết rõ điều đó. Biết, nhưng các ông vẫn làm, thì có nghĩa là các ông
muốn: "Việt-Nam vĩnh viễn nằm trong vòng kiềm tỏa của
Trung-quốc". Còn như các ông ấy làm việc đó để
Được
gì, cho ai, vì ai?
thì tôi chịu.
4.6. Về bộ
Chính-trị
Bộ Chính-tri hiện giờ (2001) gồm
có 15 vị, xếp theo thứ tự quyền hành là:
1.
Nông Đức Mạnh,
Tổng-bí thư.
2.
Trần Đức Lương,
Chủ-tịch nhà nước.
3.
Phan Văn Khải,
Thủ-tướng,
4.
Nguyễn Minh Triết, Bí
thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
5.
Nguyễn Tấn Dũng, Phó
Thủ tướng, Thường-trực chính phủ.
6.
Lê Minh Hương,
Thượng-tướng, Bộ trưởng bộ Công-an.
7.
Nguyễn Phú Trọng,
Bí thư thành ủy Hà-nội.
8.
Phan Diễn, Bí
thư Thành-ủy Đà-nẵng.
9.
Lê Hồng Anh, Phó
Chủ-nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương.
10.
Trương Tấn Sang,
Trưởng ban Kinh-tế trung ương.
11.
Phạm Văn Trà,
Thượng-tướng, Bộ-trưởng bộ Quốc-phòng.
12.
Nguyễn Văn An,
Trưởng ban Tổ-chức trung ương.
13.
Trương Quang Được,
Trưởng ban Dân-vận trung ương.
14.
Trần Đình Hoan,
Chánh văn phòng Trung-ương đảng.
15.
Nguyễn Khoa Điềm,
Bộ trưởng bộ Văn-hóa Thông-tin.
Không
như bộ Chính-trị thời 1954-1960, bộ Chính-trị hiện thời, mỗi vị là
một mảng. Nếu Hoa-kỳ có đảng Dân-chủ, Cộng-hòa thì bộ Chính-trị hiện
giờ có 15 ông, như 15 đảng khác nhau.
5. KẾT LUẬN.
Kính thưa Quý-vị,
Cảm ơn Quý-vị đã kiên nhẫn ngồi nghe chúng tôi điều trần. Trước khi
chấm dứt, chúng tôi xin có đôi giòng kết luận:
5.1 - Phần thứ nhất.
Theo những huyền thoại cổ thì vị hoàng đế lập quốc Việt-Nam và
Trung-quốc là anh em cùng cha khác mẹ, lãnh thổ Việt-Nam Bắc tới hồ Ðộng-đình,
tức bao gồm phần Hoa-Nam, kể từ sông Trường-giang đến vịnh Thái-lan. Thế nhưng
trải gần 5 nghìn năm, bị Trung-quốc chiếm dần, cuối cùng chỉ còn lại phần lãnh
thổ hiện naỵ Trong thời gian ấy, bất cứ triều đại nào, vị vua nào của
Trung-quốc cũng muốn chiếm Việt-Nam đặt làm quận huyện. Tính chung, Việt-Nam bị
Trung-quốc đô hộ gần nghìn năm. Cho nên bất cứ người Việt-Nam sinh ra cũng đều
biết rằng họ luôn luôn phải cảnh giác với cái họa Trung-quốc đe dọa. Hóa cho
nên trong giáo dục, trong văn học, trong tín ngưỡng, người Việt luôn đề cao các
anh hùng chống xâm lăng Trung-quốc. Thời nào cũng thế, người Việt có thể chia
rẽ, chém giết nhau, nhưng khi có họa xâm lăng của Trung-quốc, thì tất cả quên
hết, để cùng nhau giữ nước.
Nhưng không ngờ!
Chúng tôi không bao giờ tương tượng nổi!
Toàn thể người Việt trong nước cũng như ở ngoại quốc cũng không thể
tin được rằng:
Đảng Cộng-sản từ năm 1930 đến nay (2001), lúc
nào cũng nêu cao ngọn cờ yêu nước, mà họ lại cắt đất, cắt biển cho Trung-quốc.
Họ vỗ ngực tự tôn rằng họ với Trung-quốc bang giao trên thế bình đẳng. Việt-Nam
với Trung-quốc luôn luôn thân với nhau như môi với răng. Bây giờ họ lại chịu
nhục như thế. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt-Nam lại chịu lụy Trung-quốc như
vậy!
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 19,
- Chúng tôi có một thắc mắc hết sức quan
trọng là đối với Hoa-kỳ, Canada, Úc-đai-lợi, Liên-Âu thì VN dè đặt, nghi ngờ
trong vụ việc đầu tư. Sau khi đầu tư rồi, họ tìm đủ cách để làm cho tê liệt các
hoạt động. Đối với Hoa-kỳ, Pháp, đều có thời là kẻ thù của họ, thì hiểu
nổi. Còn Canada, Úc, Liên-Âu, họ cũng đối xử cùng một thái độ.Trong khi đối với
Trung-quốc thì họ hết sức dễ dàng, sau khi đầu tư, họ dành cho mọi ưu đãi?
Gs TĐS,
- Thưa Ngài Chủ-tịch. Vấn đề này rất dài. Xin
ngài cho tôi 2 giờ trong cuộc điều trần định kỳ vào tháng 3-2002 mới có thể nói
hết được.Tuy nhiên tôi xin tóm lược một câu: sách lược chung của chủ nghĩa
Cộng-sản Léninisme, Maoisme là coi tất cả các quốc gia không Cộng-sản là kẻ
thù.
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 20,
- Đối với Tây-phương, chính sách của VN
nghi ngờ có thể hiểu được. Ban điểm báo cũng như sưu tầm không ngớt trình cho
chúng tôi những tin tức, những lời kêu gọi Việt-kiều về nước đầu tư. Chúng tôi
điểm lại, không thấy Việt-kiều nào về nước đầu tư mà thành công. Hầu hết họ bị
cướp đoạt, thậm chí bị tù, mà không có tội gì cả. Không lẽ chính quyền Việt-Nam
lại lỡ làm những việc đạo tặc như vậy sao? Xin Giáo-sư vắn tắt cho các vị hiện
diện hôm nay biết vụ việc đó.
Gs TĐS,
- Người Việt ở ngoại quốc, đối với đảng
Cộng-sản, đều là Ngụy, là Việt-gian, là Phản-động. Đảng Cộng-sản Việt-Nam có
chính sách kỳ thị chủng tộc nhất thế giới, ngay cả vấn đề hôn nhân. Nếu về
phương diện y khoa, chúng ta khuyến khích các tộc, dòng nên kết hôn với những
tộc, dòng khác, để tạo cho lớp trẻ sau thông minh, xinh đẹp, thì hiện nay tại
VN vẫn coi một người Việt kết hôn với người ngoại quốc là một tội. Trong cuộc
điều trần trước Quốc-hội năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại-giao Nguyễn Đình Bin, chỉ
vì có con gái kết hôn với một ngườii Đan-mạch mà bị chụp mũ, bị làm nhục đến
không thể tưởng tượng nổi. Do tinh thần đó, nên bất cứ người Việt nào mang tiền
về đầu tư, thì họ muốn lấy, muốn bỏ tù, tùy thích. Tôi xin tường thuật một vụ
tiêu biểu nhất là vụ Trịnh Vĩnh-Bình ở Hòa-lan. (Tóm lược vụ việc trong 15
phút).
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 21,
- Có bao nhiêu vụ như vụ Trịnh Vĩnh-Bình?
Gs TĐS,
- Nhiều, rất nhiều, cực nhiều. Tổng kết chúng
tôi sưu tầm trong 10 năm từ 1990-2000 được 204 hồ sơ, mà số vốn đem
về từ 1,5 triệu USD trở lên rồi bị mất trắng. Hầu hết họ đem tiền về đầu
tư không qua chính quyền nơi họ cư ngụ, mà đem thẳng về. Nên các quốc gia nơi
họ cư ngụ không nắm được chi tiết.
Chủ tọa đoàn đặt câu hỏi, câu hỏi thứ 22,
- Xin cho biết một vụ tại Pháp, dễ kiểm chứng
nhất.
Gs. TĐS,
- Đó là một người trẻ 45 tuổi (sinh 1949), tên
là Hoareau Jules. Quốc tịch Pháp đã 2 đời. Bố, mẹ gốc là người Việt, nhập tịch
Pháp vào năm 1943. Bố nguyên là sĩ quan, trong quân đội Pháp. Mẹ là
thương gia. Anh em đều thành đạt, có người là dược sĩ, có người là thương gia,
có người là kỹ sư. Jules cũng có học, từng kinh doanh tại Pháp, thành công về
tài chánh. Trong một chuyến du lịch VN năm 1993, Jules được chào mời về đầu tư.
Trở lại Paris, Jules quyết định mang một số tiền lớn về đầu tư vào dịch vụ
Hotel-Restaurant. Năm 1994, Jules thành lập Hotel-Restaurant mang tên Quick tại
đường Nguyễn Đình-Chiểu, thuộc quận 3, TP Hồ Chí-Minh. Địa điểm này gần với tòa
Lãnh-sư Pháp. Vì rất kinh nghiệm trong nghề, nên chỉ một thời gian ngắn, cuối
năm 1994, cơ sở của Jules đã nổi tiếng, lợi nhuận lên cao. Nhưng tiền vào
bao nhiêu lại ra đi bấy nhiêu, vì:
·
Phải nộp thuế chính thức rất cao.
·
Công an di trú tới, trung bình mỗi tháng một
lần, điều tra, hỏi han lôi thôi. Mỗi lần như vậy phải lót tay 3 tờ (300 USD).
·
Công an khu vực nói thẳng, mỗi tháng phải nộp
5 tờ (500 USD).
·
Nhân viên kiểm soát khách sạn, nhà hàng đòi
lót tay mỗi tháng 5 tờ (500 USD).
·
Bọn xã hội đen (du đãng) thu tiền hàng ngày,
mỗi ngày 50 USD.
·
Mỗi ngày ít nhất hai, hoặc ba chức sắc dẫn
người tới ăn, mà không được phép thu tiền. Khi ăn những khách đặc biệt này toàn
uống Cognac Pháp, chứ không uống rượu thường.
Tuy vậy, sau hơn một năm cơ sở càng phát đạt
hơn. Rồi bọn xã hội đen đòi một số tiền 10.000 USD, và hăm dọa: "Nếu
không trao, sẽ bị Công-an tới bắt giam, Hotel-Restaurant sẽ bị đóng cửa".
Biết rằng không trao số tiền này sẽ gặp nguy hiểm. Nhưng bất thình lình thì
không thể kiếm đâu ra số tiền đó. Jules khất, để xin gia đình gửi từ Pháp sang.
Khổ một điều, khi Jules về VN đầu tư, gia đình phản đối. Nay Jules xin tiền,
gia đình không trả lời. Thế là hai tháng sau thình lình Công-an đến khách sạn,
tông cửa vào một phòng cho khách thuê. Trong phòng có một thiếu nữ. Công-an lập
biên bản là khách sạn chứa gái mại dâm. Jules cãi rằng cô gái đó là do khách dẫn
vào, thì không phải lỗi ở Jules. Thế nhưng Jules cứ bị bắt giam ở khám Chí-hòa.
Khi gia đình biết tin, thì cha, mẹ vội bay sang thăm con. Người ta đòi: Phải nộp
10.000 USD thì Jules sẽ được tha. Bố mẹ đành nộp tiền. Jules được thả ra. Nghĩa
là Jules bị bắt không do Tòa-án, lúc thả cũng không, và tiền phạt cũng không do
tòa. Khu Jules trở lại cơ sở Quick thì hỡi ôi, chỉ còn cái nhà trống, máy lạnh,
dường, bàn, ghế đều biến mất.
Bà mẹ Jules có quen thân với một số giới chức
cao cấp VN. Khi sang VN, thấy con mình bị tống tiền, bà làm lớn truyện. Thình
lình bà lâm bệnh, phải trở về Paris điều trị. Nhà thương khám phá ra bà bị
đầu độc, cùng một loại thuốc với những loại mà tôi đã trình bày trên. Hiện
(10-2001) bà vẫn nói năng được, nhưng mắt bị mù, chân tay bất toại.
Quý vị có thể tham khảo hồ sơ này tại tòa
Lãnh-sự Pháp ở TP Hồ Chí Minh, và tại IFA/Direction du Sud-Est.
5.1.1
Họ
kết tội Pháp là Thực-dân, những người thân Pháp là Việt-gian. Họ nhục mạ triều
Nguyễn (1802-1945) vì triều đình này từng ký hòa ước vào năm 1862 và 1884,
nhượng 6 tỉnh miền Nam cho Pháp. Trong những phần trên, tôi không kể việc triều
Nguyễn ký hiệp ước nhường đất cho Pháp. Bấy giờ nước Pháp trên đường đi tìm
thuộc địa, đã khai chiến với triều Nguyễn. Vì gươm đao, ghe thuyền không thể
chống lại với liên thanh, đại bác, chiến hạm. Triều Nguyễn bị bại trận mà phải
nhường đất, chứ không vị vua nào muốn như thế. Năm 1955, Pháp trả lại tất cả
đất cho Việt-Nam. Hiện người Pháp không làm chủ một thước đất nào trên lãnh thổ
Việt-Nam, mà chỉ có mấy chục vạn người Việt đang làm chủ nhiều khu đất trên
nước Pháp.
5.1.2
Họ
kết tội Hoa-kỳ là đế quốc, tất cả những người Việt thân Hoa-kỳ là Ngụy. Trong
khi Hoa-kỳ không hề ép bất cứ chính quyền Việt nào, người Việt nào nhượng cho
Hoa-kỳ một thước đất. Hiện không có một người Hoa-kỳ nào được làm chủ một thước
đất trên lãnh thổ Việt-Nam, mà chỉ có gần hai triệu người Việt-Nam làm chủ
không biết bao nhiêu đất trên khắp các tiểu bang Hoa-kỳ.
5.2 - Phần thứ nhì.
5.2.1
Năm 1540, họ Mạc dâng đất cho Minh-triều, vì
bị triều Lê trung hưng ép phía Nam, bị 22 vạn quân Minh ép phía Bắc. Năm 1862, 1884
tiều Nguyễn nhường 6 tỉnh miền Nam cho Pháp vì bại trận. Tại sao:
·
Năm 1958, vào thịnh thời của Chủ-tịch Hồ
Chí-Minh, của Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản. Miền Bắc không bị miền Nam ép, không
có chiến tranh với Trung-quốc, mà Chủ-tích Hồ Chí-Minh và Bộ Chính-trị lại chấp
nhận nhượng vùng biển rộng lớn, trong đó có hai quần đảo Hoàng-sa (Tây-sa) và
Trường-sa (Nam-sa) cho Trung-quốc?
·
Năm 1999, 2000, trong nội địa Việt-Nam không
có chiến tranh, cũng chẳng có đối lập. Hoa-kỳ, Liên-Âu đang theo đuổi chính
sách ngoại giao mềm dẻo với Việt-Nam. Việt-Hoa không có chiến tranh. Thế mà Bộ
Chính-trị lại cắt đất cắt biển dâng cho
Trung-quốc? Dâng vì lý do gì? Để được gì? Họ có thể nhượng bất cứ phần đất nào!
Cớ sao họ lại nhượng vùng Nam Nam-quan, là vùng đất thiêng, mang tự hào của
người Việt?
5.2.2
Theo
Hiến-pháp của Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa, của Cộng-hòa Chủ-nghĩa Việt-Nam, bên
cạnh Chính-phủ lúc nào cũng có Quốc-hội. Thỏa ước ký với Hoa-kỳ họ đưa ra
Quốc-hội phê chuẩn. Thế nhưng ba lần cắt đất, Quốc-hội không được
quyết định, không được bàn, và cũng không được biết. Liệu bây giờ, vụ
việc nổ tung, họ có đem hai hiệp định 1999-2000 ra cho Quốc-hội phê chuẩn
không? (Giáo-sư Tiến-sĩ Nguyễn Văn Canh công bố hiệp ước lãnh thổ
ký 31-12-1999, Quốc-hội VN đã thông qua vào tháng 6-2000. Chúng tôi đã
hỏi 14 dân biểu, họ đều nói không biết gì, có lẽ nhà nước đã loan báo
không thực trên báo chí để lừa thế giới chăng?). Nếu như nay họ đem ra cho
Quốc-hội biểu quyết hai hiệp định trên, thì tôi tin rằng không có vị đại biểu
nào dám bỏ phiếu thuận. Giả như Quốc-hội bác bỏ, thì liệu Trung-quốc có chịu
trả đất ở biên giới phía Bắc không? Họ có chịu rút người, rút bộ máy hành
chánh, quân sự đã đặt gần sáu chục năm qua về không? Nếu như họ không rút, thì
Quốc-hội Việt-Nam sẽ làm gì? Liệu VN có dám đem quân chiếm lại không? Tôi tin
là không, vì mấy ông tướng trong quân đội đã chịu lụy Trung-quốc thì liệu các
ông có dám đem quân tái chiếm chăng?
5.2.3
Trong mấy năm qua, chúng tôi không đồng ý với
Quý-vị, vì trong việc bang giao tại Á-châu, Quý-vị có khuynh hướng coi Việt-Nam
như một thuộc quốc, đôi khi tệ hơn, coi như một tỉnh của Trung-quốc. Tôi từng
phản đối.
Hôm nay đây tôi xin lỗi Qúy-vị! Quý-vị đã có
cái nhìn đúng. Chúng tôi nhìn sai! Sai hoàn toàn, vì hiện chính phủ CHXHCNVN,
dường như chấp nhận để Trung-quốc đô hộ không chính thức.
Khi
Việt-Nam sắp ký thương ước với Hoa-kỳ, thì Trung-quốc bắt phải ngừng, chờ
Trung-quốc ký trước. Hơn năm sau VN mới lạch ạch ký, mà cho đến lúc này Quốc-hội
VN vẫn chưa biểu quyết thông qua. Quý vị đều biết, trừ gạo và cá, còn những sản
phẩm xuất cảng khác của VN, Trung-quốc đều giống nhau. Trung-quốc bắt VN ký sau
một năm, chậm thông qua một năm nữa. Với 2 năm, Trung-quốc đã chiếm lĩnh xong
thị trường. Rồi không chừng Trung-quốc tìm cách để làm chậm trễ thi hành ít năm
nữa.
5.2.4
Suốt 5 năm qua, Việt-Nam trở thành thuộc
địa Trung-quốc về phương diện văn hóa. Nhất là từ khi Trung-quốc tiếp thu
Hương-cảng.
·
Phim ảnh, âm nhạc Trung-quốc chiếm lĩnh hoàn
toàn trên hệ thống truyền thanh, truyền hình và báo chí. Phim ảnh, âm nhạc
Việt-Nam gần như bị đào thải. Mở bất cứ tờ báo chuyên về kịch ảnh, truyền hình,
cũng chỉ thấy giới thiệâu phim Hương-cảng, Trung-quốc. Đi đâu cũng thấy giới
trẻ luận bàn về những phim Trung-quốc, những diễn viên, ca sĩ, người mẫu
Hương-cảng, Trung-quốc, mà không biết gì về những diễn viên, ca sĩ , người mẫu
Việt. Diễn viên, ca sĩ , người mẫu Việt đói khổ quá, đến độ phải đi làm gái
điếm. Báo chí Việt-Nam trong thời gian từ 30 tháng 10 đến nay 9
tháng 11 năm 2001, không ngớt tường thuật một dây gái điếm trên 200 người
tại thành phố Hồ Chí-Minh, toàn diễn viên, ca sĩ, người mẫu danh tiếng; do tú
bà Huỳnh-thị Ngọc-Quỳnh làm chủ. Mỗi lần đi khách như vậy, họ chỉ được 50 USD
đến 150 USD, mà lại phải chia cho Tú-bà 30%. Rút cuộc họ chỉ được hưởng rất ít.
(7)
Ghi chú dành cho người Việt (7)
Phát hiện đường dây gái gọi
cao cấp Bắc - Nam
Rạng sáng 31/10,
6 người mẫu tên tuổi trong làng người mẫu Việt Nam, đều đến từ Hà Nội, đã bị
Công an TP. Hồ Chí Minh bắt quả tang bán dâm cho khách tại 3 khách sạn TP. Hồ
Chí Minh và một khách sạn Vũng Tàu.
Theo lời khai của nhóm gái bán dâm hạng sang này, các cô vào TP. Hồ Chí Minh kiếm tiền nhờ ''mối'' của ''tú bà'' Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh. Sau mỗi lần ''đi khách'' với giá từ 400.000 đến 15 triệu đồng (tùy ''tên tuổi'', đẳng cấp của người mẫu), bên bán chia cho Quỳnh 30% lợi nhuận để trả công dẫn dắt.
Theo lời khai của nhóm gái bán dâm hạng sang này, các cô vào TP. Hồ Chí Minh kiếm tiền nhờ ''mối'' của ''tú bà'' Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh. Sau mỗi lần ''đi khách'' với giá từ 400.000 đến 15 triệu đồng (tùy ''tên tuổi'', đẳng cấp của người mẫu), bên bán chia cho Quỳnh 30% lợi nhuận để trả công dẫn dắt.
Khám nhà Huỳnh
Thị Ngọc Quỳnh, cơ quan chức năng thu được một số tài liệu quan trọng chứng
minh vai trò điều khiển đường dây ''gái gọi'' cao cấp này. Trong đó, có name
card của nhiều nhân vật ''tiếng tăm'' trong một số lĩnh vực, 100 số điện thoại
của các cô gái (đa phần hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh và trình diễn thời
trang) trong bộ nhớ của điện thoại di động. Đặc biệt, e-mail của nhiều khách,
được Quỳnh chào ''hàng'' bằng chiếc vi tính nối mạng Internet tại nhà.
Theo tài liệu
trinh sát của Đội phòng chống tệ nạn xã hội, Phòng cảnh sát Hình sự, Quỳnh có
khả năng cùng lúc đáp ứng 40 ''yêu cầu'', bởi trong tay ả có khoảng bằng ấy cô
gái sẵn sàng ''đi khách'' tại bất cứ đâu, chỉ cần hẹn trước qua điện thoại. Khi
cần, giới ăn chơi hàng ''đại gia'' chỉ mất công nhấc điện thoại, hô tên người
đẹp. Việc đặt trước chỉ được áp dụng trong trường hợp những nhân vật này đòi ''hàng
độc''. Việc mua - bán lâu, mau tùy thích, bởi người mẫu đến ở khách sạn thường
không phải trình giấy tờ và vào sổ như người thường.
6 người mẫu vừa
bị bắt chỉ là một mảng nhỏ trong đường dây gái gọi do Ngọc Quỳnh điều khiển bị
phát hiện. Là một thư ký văn phòng gốc Huế giỏi tiếng Anh, vi tính và có những
mối quan hệ rộng rãi với giới kinh doanh và trí thức sang trọng trong và ngoài
nước, Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh rất có thể là một bà trùm trí thức chuyên ‘‘chăn
dắt’’, điều phối đường dây gái gọi lớn xuyên Việt.
(Theo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Tiền Phong)
===================================================
TP HCM: Phá một đường dây mại dâm lớn
Tối qua (30/10), 6 gái bán dâm
"cao cấp" đã bị cơ quan công an bắt quả tang khi đang cùng khách mua
dâm. Trong số này có vài cô từng là người mẫu thời trang, chỉ phục vụ giới
thượng lưu.
Theo đánh giá ban
đầu, đường dây do tú bà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh (35 tuổi, trú tại phường 15, quận
Phú Nhuận) điều hành, đã hoạt động từ lâu.
Tại cơ quan điều
tra, bà Quỳnh khai, giá cho mỗi lần "đi khách" với loại gái cao cấp
này là 100 USD/người, còn bao trọn gói đi chơi xa là 500 USD/chuyến. Khi có nhu
cầu, khách chỉ cần gọi vào máy điện thoại di động của tú bà Quỳnh. Vụ án đang
được tiếp tục mở rộng.
Nhiều người mẫu, diễn viên có tên
trong danh sách gái “cao cấp”
Đường dây gái gọi cao cấp do Huỳnh Thị
Ngọc Quỳnh tổ chức, bị phát hiện
hôm 30/10, gồm hơn 100 cô, đa số là người mẫu, diễn viên điện ảnh, có thể
tiếp nhận cùng lúc 40 đơn đặt hàng. Cơ quan công an đã phát hiện cuốn sổ ghi
danh hàng trăm khách hàng là quan chức, doanh nhân, Việt kiều...
Ba người mẫu ngồi
trong phòng hỏi cung với con mắt thất thần. Cứng tuổi hơn cả là (AAA), sinh
1970, được giới trình diễn thời trang biết đến dưới cái tên VA. Vẫn gương mặt
khả ái với bộ váy áo kiêu kỳ, cô trả lời câu hỏi của cán bộ điều tra bằng giọng
nói nhỏ như hơi thở, nước mắt rưng rưng. Hai người khác là (BBB). (1980), và
(CCC). (1972). Họ cùng VA, bị Đội Phòng chống tệ nạn xã hội, Công an TP HCM bắt
quả tang bán dâm tại 3 khách sạn lớn trong thành phố, ngày 30/10.
Đến 19h30' cùng
ngày, ba gái cao cấp khác, bị bắt quả tang đang “hoạt động” tại một khách sạn ở
Vũng Tàu, cũng được di lý về Công an thành phố. Một trinh sát, người còn lấm
bụi đường chỉ cô gái trẻ, trông dáng rụt rè, nói: “Đó là người mẫu (DDD), sinh
1981, từng đóng quảng cáo cho một mặt hàng khá phổ biến trên tivi”. Hai cô còn
lại là (EEEE) (1983), (FFF) (1977).
Chân dung
mụ tú bà
“Huỳnh Thị Ngọc
Quỳnh là một trí thức và tất cả 6 cô gái bị bắt quả tang trong đường dây này
đều là người mẫu ở Hà Nội”, thiếu tá Trần Văn Ngọc, Đội phó Đội 8, Phòng Cảnh
sát hình sự TP HCM khẳng định.
Quỳnh, sinh 1966,
cử nhân Anh văn, giáo viên tin học, độc thân, quê ở Huế, vào TP HCM khi còn
nhỏ. Quỳnh khai, các cô đào phục vụ ở nhà hàng, khách sạn thường than thở là
thu nhập chỉ được... 200.000 đồng/ngày, lại còn bị khách hành hạ đủ kiểu, nên
nhờ thị tìm người sang trọng, trí thức để “lao động nhẹ nhàng hơn”. Vậy là
Quỳnh môi giới cho họ gặp những cán bộ nhà nước, “đại gia” mà mình biết, và
đứng giữa ăn hoa hồng.
Công việc tiến
triển, tú bà chuyển sang quan hệ với giới người mẫu, diễn viên điện ảnh. Trong
bộ nhớ máy điện thoại di động của Ngọc Quỳnh, có hơn 100 số điện thoại của rất
nhiều cô gái có tên tuổi. Quỳnh thú nhận, nếu cùng lúc có 40 yêu cầu thì cũng
có thể điều phối, bố trí được. Riêng hàng độc thì phải đặt trước để xếp lịch.
Quỳnh có nhiều kênh để tiếp thị hàng, trong đó có cả Internet để quảng cáo tới
khách ngoại quốc.
Khám xét nơi ở
của Quỳnh, công an thu được nhiều giấy tờ quan trọng và một “ổ” namecard, cùng
cuốn sổ ghi danh hàng loạt nhân vật quan trọng, từ cán bộ, đến doanh nhân và
giới Việt kiều... Để được đáp ứng yêu cầu, những người này phải bỏ ra ít nhất
400.000 đồng/lần, phổ biến là 100 USD/lần. Những bông hoa có tiếng giá lên tới
500-1.000 USD/đêm. Tỷ lệ ăn chia giữa gái và tú bà là 7-3.
Con đường
biến người mẫu thành “gái gọi”
Theo lời khai của
6 cô gái, họ hầu hết có văn hóa 12/12, có người đang theo học đại học... Một
điểm chung nữa là họ mới "đi khách” được hơn một tháng, và đều “vô tình”
qua sự giới thiệu lẫn nhau.
Kể về con đường
dẫn mình tới hoạt động phi pháp này, (DDD), 20 tuổi, khai: “Năm 1997, tôi tham
gia lớp người mẫu tại báo T.T.T., được nửa năm thì đi diễn thời trang. Tôi
không làm chính thức cho công ty nào, thường biểu diễn ở Cung Văn hóa Hà Nội...
Trong thời gian vào TP HCM học tiếp viên hàng không, tôi gặp cô V.A., và vì muốn
có tiền để học, tôi đã nhờ V.A. giúp. Cô này quen và cho bà Quỳnh số điện thoại
của tôi. Bà Quỳnh hẹn gặp mặt, cho biết khi có khách sẽ gọi. Tôi vào đường dây
này được tháng rưỡi nay, bán dâm được 8 lần, giá mỗi lần 100-150 USD”.
Còn V.A., 31
tuổi, khai: “Cách nay 2 tháng, tôi vào Sài Gòn chơi và đến khách sạn Mặt Trời,
trên đường Nguyễn Hữu Cầu, quận 1, hát karaoke. Trong số bạn bè của tôi có
người quen biết chị Quỳnh, nên chị ấy đã đến làm quen, và xin số điện thoại của
tôi để môi giới bán dâm. Tôi gia nhập đường dây này được tháng nay...”.
(FFF), 24 tuổi,
tốt nghiệp Đại học Mở Hà Nội (khoa Ngoại ngữ), thì khai chi tiết hơn: “Tôi đi
khách được tháng nay, do bà Quỳnh làm chủ. Giá 100-500 USD. Nếu đi một giờ thì
100 USD, nếu qua đêm với khách tại TP HCM thì 200 USD. Còn đi Vũng Tàu một ngày
là 500 USD. Tỷ lệ ăn chia: tôi 70%, bà Quỳnh 30%. Tôi làm gái là do cô L. giới
thiệu, bởi bạn trai của L. là bạn thân với bạn trai tôi. Từ khi làm với bà
Quỳnh, tôi được kêu đi khách 4 lần. Ngoài ra, tôi còn đi với khách quen 2
lần... Tôi từng làm người mẫu để quảng cáo cho mỹ phẩm của công ty mỹ phẩm K.M.
của nước ngoài. Ngoài ra, tôi còn cùng L. làm người mẫu ở Hà Nội, thuộc nhóm
Ngôi Sao Xanh”.
Ai đứng
sau thị Quỳnh?
Tú bà Huỳnh Thị
Ngọc Quỳnh khai, còn một người tên H. cũng làm môi giới, và thị phải chia cho
nhân vật này 50% lợi nhuận thu được từ những phi vụ “hoạt động” của gái.
Lời khai của các
cô gái bị bắt đề cập khách sạn H.N. trên đường Nguyễn Văn Thủ, Đ.H.H. đường
Nguyễn Thị Minh Khai, L.B. đường Bùi Thị Xuân..., và cả một nhà nghỉ của cơ
quan nhà nước. Đây được coi là “bãi đáp” an toàn, bởi gái của Quỳnh chỉ cần nói
số phòng mình cần lên, là được vào thẳng, không cần gửi lại giấy chứng minh
nhân dân, và sự hiện diện của họ cũng không được thể hiện trên sổ sách. Điều
này dẫn tới nghi vấn về sự mẫn cán của các lực lượng chuyên làm công tác kiểm
tra.
Đường dây
Ngọc Quỳnh tồn tại nhờ khách nội
Khi bắt khẩn cấp
tú bà Huỳnh Thị Ngọc Quỳnh ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, phường 15, quận Phú
Nhuận, TP HCM, lực lượng phòng chống tệ nạn Công an thành phố thu giữ được danh
sách của hàng trăm khách mua dâm, ghi đầy đủ cả chức vụ, điện thoại. Ngọc Quỳnh
khai, trong số đó, dân làng chơi nước ngoài chỉ chiếm 20%.
Cùng với danh
sách này, cơ quan công an còn phát hiện những cuốn album dán ảnh cả trăm người
mẫu với trang phục áo tắm hai mảnh để quảng cáo, chào hàng và thỏa thuận giá cả
với khách. Để quảng cáo cho gái, Quỳnh đặt ở nhà hai dàn máy tính nối Internet,
mà theo lời giải thích của một người mẫu bán dâm, là để chào khách du lịch nước
ngoài.
Tuy nhiên một số
cô gái bị bắt cho biết, họ không thích “đi” với khách ngoại quốc, vì họ quá
sòng phẳng. Đã ngã giá bao nhiêu thì chi bấy nhiêu. Còn khách “nội”, nhiều khi
còn được “boa” gấp 2-3 lần giá thỏa thuận ban đầu, nếu biết làm vừa lòng “các
sếp”. Đó là chưa kể được dẫn đi mua sắm đồ hiệu, nữ trang cao cấp... Bên cạnh
đó, nếu gặp được các ông chủ doanh nghiệp có máu mặt, sau lần gặp gỡ còn hé mở
nhiều cơ hội để các cô "tiến bước". Họ có thể được tham gia các hợp
đồng làm người mẫu quảng cáo, chụp hình làm catalogue giới thiệu sản phẩm...
hoặc những “sô” diễn nhẹ nhàng trong các dịp khai trương, động thổ, vừa thu
nhập cao vừa có điều kiện mở rộng mối quan hệ.
Trong 6 người bị
bắt quả tang đang mua dâm với người mẫu thì có tới 3 khách làng chơi ở tỉnh. Họ
là chủ các doanh nghiệp, nhà hàng, người buôn bán giàu có... Số còn lại là
người ở TP HCM. Họ bị phạt hành chính 500.000 đến 1 triệu đồng, và được cho về.
Cơ quan công an sẽ có một thông báo tới đơn vị, địa phương, gia đình những
người này theo đúng quy định hiện hành.
Một sĩ quan công
an công tác nhiều năm ở Đội Phòng chống tệ nạn xã hội lo ngại: “Xem ra hình
phạt như vậy chưa đủ ép phê để răn đe những đấng mày râu ham của lạ”. Chính
những kẻ ăn chơi sa đọa này đã sản sinh ra những nhóm thanh nữ không chịu học
hành, rèn luyện mà chỉ muốn thành đạt nhanh nhờ “vốn tự có”.
(Theo NLĐ)
- Các sách Trung-quốc được dịch, bán tự do: Từ tiểu
thuyết tới sách tham khảo, dĩ chí cả bói toán, phong thủy. Nhà xuất bản
Văn-học vừa cho dịch, xuất bản hai bộ tiểu thuyết của Kim-Dung, mà từ trước
đến nay bị coi là quốc cấm. Trong khi nhà nước Việt-Nam hô hào giao lưu
văn hóa với người Việt ở nước ngoài, nhưng họ chỉ muốn đem sách trong nước
ra ngoài bán, mà họ không cho đem sách của người Việt ở ngoại quốc vào
trong nước, dù là sách khoa học, kỹ thuật, y học, tin học. Trước sau họ
cho xuất bản không quá 10 quyển sách của người Việt hải ngoại, mà đa số
sách đó nói xấu về VNCH, hoặc bôi nhọ xã hội người Việt ở ngoại quốc. Đi
đâu cũng thấy người lớn, trẻ con luận bàn những nhân vật trong các bộ
sách:
1/ Mười đại hoàng đế Trung-quốc.
2/ Mười đại thừa tướng Trung-quốc.
...
3/ Mười đại gian thần Trung-quốc.
2/ Mười đại thừa tướng Trung-quốc.
...
3/ Mười đại gian thần Trung-quốc.
Không ai nói tới những anh hùng Trưng Trắc, Lê
Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ từng thắng Trung-quốc
bảo vệ đất nước quốc.
Ghi chú của IFA (bổ túc ngày 13-2-2002):
Trước khi vụ
nhượng đất cho Trung-quốc bị lộ (2001), Liên-Âu, nhất là Pháp, rất cảm tình với
Việt-Nam. Trong nghi lễ, đối với các cơ sở Ngoại-giao VN, Liên-Âu thường không
dấu diếm tình cảm đặc biệt này. Tỷ như một cơ quan vận tải, mỗi tháng dành cho
tòa Đại-sứ VN tại Pháp một container, muốn gửi gì về VN thì gửi, miễn phí. Gia
đình nhân viên sứ quán được nhập cảnh vào Pháp học thoải mái, miễn phí.
Nay thì Liên-Âu coi VN như một thuộc địa của Trung-quốc. Bằng chứng, hồi Tết
Nhâm-ngọ vừa qua, Liên-Âu quay một vòng 180 độ, trong nghi lễ Ngoại-giaop đối
với VN. Ngày 13 tháng 2 năm 2002 tức mùng hai Tết, Tổng-thống Jacques Chirac đã
mời ông Đại-sứ Trung-quốc, nhân viên sứ quán, phái đoàn Hoa-kiều đến điện
Élysée ăn Tết, và chúc Tết. Tổng-thống cũng mời một phái đoàn Việt-kiều
cùng vào điện Élysée ăn Tết. Tổng-thống chúc Tết, nhận lời chúc Tết của các đại
diện Việt-Nam, nhưng không mời Đại-sứ VN. Hầu hết các Quốc-trưởng những nước
Liên-Âu đều gửi thư, chúc tết Đại-sứ các nước Á-châu. Duy Đại-sứ VN thì không,
vì họ coi VN là một thuộc quốc của Trung-quốc, thì…chúc Tết Trung-quốc cũng đủ
rồi, không cần chúc tết một tỉnh (VN) của Trung-quốc nữa.
Sau lần viếng
thăm mới đây của Chủ-tịch Trung-quốc Giang Trạch Dân (17-2-2002), bộ Giáo-dục
và Đào-tạo của CHXH CH Việt-Nam đang bắt tay vào việc sửa đổi sách giáo khoa.
Cũng nên nhắc lại, sách giáo khoa Việt-Nam (CS) từ 1947, luôn đề cao "Trung-quốc
hôm này là Việt-Nam ngày mai", bóp méo những lần Trung-hoa xâm lăng
VN. Đến năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình xua quân tràn qua biên giới, tàn phá 6
tỉnh Bắc-biên, thì tất cả những cái xấu xa của nghìn năm đô hộ lại được đem vào
sách giáo khoa, kể cả những xấu xa mới từ 1947 đến 1979. Trong dịp này Giang
Chủ-tịch cũng nhắc nhở Tổng-bí thư đảng Cộng-sản Việt-Nam là Nông Đức Mạnh
rằng:
"Trong lần
Nông thăm Trung-quốc, Giang đề nghị Nông có 16 chữ vàng, làm mẫu mực cho việc
bang giao Hoa-Việt
Láng giềng hữu nghị,
Hợp tác toàn diện.
Ổn định lâu dài,
Hướng tới tương lai"
Hợp tác toàn diện.
Ổn định lâu dài,
Hướng tới tương lai"
Nay nên thêm vào
4 chữ nữa là 20: Hoàn toàn tin cậy".
Cho đến hôm nay,
chúng tôi cũng chưa biết ông Nông Đức Mạnh có nghe theo không?
5.2.5
Chúng tôi muốn biết các vị có nhận thấy sự bất
thường trong thông tin tại Việt-Nam hiện giờ không? Hiệp định ký nhượng đất ký
ngày 30-12-1999, sau đó diễn ra:
- Cuộc
trao đất,
- Cuộc
trao dân,
- Các cơ sở
hành chính, quân sự Việt-Nam phải rút khỏi khu nhượng địa, rất ồn ào.
- Các
chính quyền vùng bị nhượng từ cấp xã, huyện, tỉnh được thông báo, được chỉ
thị rộng rãi.
·
Suốt gần 2 năm qua, có hàng triệu người Việt
băng qua các cửa khẩu đã nhượng cho Trung-quốc, thì họ phải biết rất rõ khu đất
thiêng bị mất.
Như vậy thì cuộc nhượng đất này đâu có thể
bưng bít? Báo chí trong nước cấm không được đăng tải là lẽ thường. Thế sao
không ai thông báo cho người Việt hải ngoại? Mãi tới những ngày gần đây (tháng
9 năm 2001) mới thấy trên Internet từ trong nước gửi ra ba bài của Đỗ Việt Sơn,
Lê Chí Quang và Quang-Chính, nói lờ mờ về vụ này. Chúng tôi biết cái
bí ẩn đó là lớp người mới bất mãn với lớp người cũ trong Bộ Chính-trị.
Họ muốn quy trách cho cá nhân, trong khi bộ Chính-trị đảng Cộng-sản mới
là những người chủ động.
Ghi chú của IFA,
Chúng tôi nhận
được lệnh phải điều trần về vấn đề này do văn thư số 3778-7 ngày 11-2-2001.
Chúng tôi ủy cho Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ, vì thuộc phần hành cua ông. Mãi tới ngày
10-11-2001 ông mới hoàn tất và điều trần. Theo như chúng tôi biết thì cho đến
ngày này, trong nước mới chỉ có vài bài gửi ra nói lơ mơ về vụ cắt đất. Cho nên
ngươi ta gán cho chúng tôi (IFA) và Bác-sĩ Trần là người đầu tiên bắn
phi đạn vào Bộ Chính-trị đảng Cộng-sản VN. Chúng tôi xin minh xác: Chúng
tôi cũng như Bác-sĩ Trần chỉ làm nhiệm vụ của của người nghiên cứu. Suốt toàn
bản điều trần, không hề có một câu ác ý hay thù nghịch với đảng Cộng-sản
Trung-quốc cũng như VN.
Thưa Quý-vị,
Phần điều trần của tôi đến đây chấm dứt. Chúng tôi đợi những thắc
mắc của Quý-vị.
Cử tọa đặt câu hỏi, câu hỏi thứ thứ 23,
- Một nguồn tin thân cận, ông Lê Kinh Tài là một
Đại-sứ của Việt-Nam có nói rằng, sở dĩ ông Nông Đức Mạnh được đưa lên chức Tổng
Bí-thư, vì nhờ uy tín của thân phụ là cố Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Sự thực ra sao?
Một vị trong chủ-tọa đoàn (là Giáo sư y khoa)
trả lời:
- Câu hỏi của Ngài đặt Gs. Trần trước một khó
khăn. Nếu ông không nói thực thì ông phạm tội đại hình là nói dối chúng ta. Còn
như ông nói ra thì ông sẽ bị kiện lôi thôi. Tài liệu nghiên cứu ADN (DNA)
về ông Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu của Gs. Trần đã bán cho công ty DNAW hồi
tháng 3 vừa rồi. Nên không thể tiết lộ. Tôi chỉ có nói tổng quát, tài liệu đó
dùng hệ thống ADN để làm sáng tỏ nguồn gốc mơ hồ của các danh nhân cận đại
Việt-Nam, trong ấy có 2 vụ lớn nhất.
·
Cận sử, cũng như dư luận nói rằng Đại-Nam
hoàng đế Bảo-Đại là con ông Hồng-Đề chứ không phải là con của Đại-Nam hoàng đế
Khải-Định. Sự thực ra sao? Nhóm của Giáo-sư Trần đã tìm ra, được kiểm nhận là
đúng với phương pháp ADN mới nhất (3-2001).
·
Đảng Cộng-sản VN công bố Chủ-tịch Hồ Chí Minh
là con ông Phó-bảng Nguyễn Sinh Huy. Ông Nguyễn Sinh-Huy là con một nông dân
tên Nguyễn Sinh-Nhậm. Nhưng sử gia Trần Quốc Vượng của viện Sử-học Hà-nội
lại công bố rằng ông Nguyễn Sinh Huy không phải là con ông Nguyễn Sinh-Nhậm mà
là con ông Hồ Sĩ Tạo. Rồi những nguồn tin trong nước nói ông Nông Đức Mạnh và
mấy người nữa là con của Chủ-tịch Hồ Chí Minh. Sự thực ra sao? Nhóm của Giáo-sư
Trần cũng nghiên cứu, được kiểm nhận là đúng với phương pháp ADN mới nhất
(3-2001)
Vẫn vị cử tọa trên,
- Làm thế nào mà Gs Trần có thể lấy được
ADN của những người trong cuộc?
Vẫn vị trong chủ tọa đoàn,
- Thưa Ngài không khó vì…(chúng tôi bị cấm
không phổ biến). Ngay những xương của người quá cố lâu rồi, ADN vẫn có khả năng
xác định.
(Tài liệu này được đánh số IFA-532-101001)
No comments:
Post a Comment