- Những bài cùng tác giả
- Những bài cùng
đề tài
Ảnh1: Bản đồ huyện Thượng Lang – Cao Bằng thời Pháp thuộc.
Hai chữ Ban Gioc trên bản đồ là “làng” Bản Giốc ở gần thác
nước.
Kỳ 1 – AI LÀ CHỦ NHÂN THỰC SỰ CỦA THÁC BẢN GIỐC?
Vào những tháng cuối
năm 2011, “Thác Bản Giốc” bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng đầu của báo
chí trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là tình trạng
mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch Trung Quốc thu hút được
gần một triệu du khách hàng năm nhờ vào thắng cảnh này thì về phía Việt
Nam, số lượng du khách đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào khoảng 30 ngàn. Nhiều
lý do đã được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa được
quan tâm đầu tư đúng mức, do “Hiệp định hợp tác khai thác tài nguyên du
lịch thác Bản Giốc” chưa được ký kết, v.v. Thậm chí, trên báo Thanh
Niên, các phóng viên còn biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các
báo phương Tây (như trang mạng News.com.au của Úc hay tạp
chí Life của Mỹ) đã “xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh
thổ Việt Nam” khi chú thích ảnh chụp Thác Bản Giốc là “Detian Falls, China”
(Thác Đức Thiên, Trung Quốc) [1].
Vấn đề đặt ra là: tại
sao trong khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung Quốc vẫn có thể
tiến hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự hỗ trợ
của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp tác”
thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại sao
Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước trước đây
được coi là của riêng Việt Nam nay lại trở thành “thác nước chung” của hai
quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo chí “lề phải”),
chưa thấy ai đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi
quan trọng cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi “ai
mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?”.
1. Thác Bản Giốc có gì lạ?
Thác Bản Giốc là một
thắng cảnh nổi tiếng của nước ta ở vùng biên giới Việt – Trung. Vào thời
nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện Thượng
Lang, ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các bản đồ của
vùng này, vị trí của thác nước thường không được ghi rõ; hai chữ “Bản Giốc”
được nhìn thấy trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng)
của người Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí của thác nước (Ảnh
1).
Điều gì làm cho Thác
Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt
Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977),
nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau: “Sông Quây Sơn
ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản
Giốc thì đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến
34 m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc ngầm đá vôi ở
thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn
thung lũng ở phía dưới thác mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn
thung lũng, người ta có cảm tưởng bị vây quanh bởi những bức tường nước đồ
sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong
cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị” [2].
“Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản
Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.
Ảnh 2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước cạn. Bờ nam (hữu
ngạn) của sông Quây Sơn là lãnh thổ của Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) ngày nay
thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.
Nếu nhìn một cách
toàn diện, Thác Bản Giốc bao gồm hai phần. Phần thác chính ở phía bắc là
“ba bậc thác nước chênh nhau đến 34m” như trên vừa nói - tạm gọi là “thác
ba tầng”; phần thác phụ ở phía nam là “ba dòng thác” đổ từ trên cao xuống
tương tự những thác thường thấy trong khắp cả nước, không có gì đặc sắc.
Vào mùa nước lớn, khi nước chảy tràn trề, người ta có thể nhìn thấy rõ ba
dòng thác làm nên thác phụ; nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng
nước teo tóp đổ vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác chính
mới là “linh hồn” của Thác Bản Giốc. Những hình ảnh ngày xưa thường thấy
trên các sách ảnh hay lịch treo tường thường là ảnh của phần thác chính. Do
đó trước đây mỗi khi nghe nói đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến phần thác
phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ đẹp của Thác Bản Giốc – dù là thác chính
nói riêng hay toàn bộ hai phần của thác, chỉ thể hiện một cách trọn vẹn khi
được nhìn ngắm từ chính diện hay từ phía “bờ bên kia”, tức là bờ phía bắc
(tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờ Nam (hữu ngạn), chúng ta không thể nhìn thấy
toàn cảnh của hai phần thác. Nếu chịu khó đi ra tận doi đất ven sông ở hạ
lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy “thác ba tầng”, nhưng chỉ có thể nhìn
nghiêng chứ không thể nhìn được chính diện (ảnh 3).
Ảnh 3: Dòng chính của Thác Bản Giốc nhìn từ doi đất ở hữu ngạn
thuộc lãnh thổ Việt Nam
Như vậy, không cần
phải là chuyên gia về du lịch, chúng ta cũng có thể thấy ngay được sự thật:
ai sở hữu được bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế thượng phong
trong khai thác du lịch vì từ phía này, người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh
của thác (kể cả hai phần chính và phụ), có thể đi ngược dòng sông bằng
thuyền bè đến tận chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để ngắm
cảnh, chụp ảnh... Trong khi đó, người nắm giữ bờ phía nam không thể giúp du
khách nhìn ngắm tất cả các vẻ đẹp của thác – trừ khi phải nhờ cậy phía bên
kia.
Kể từ khi sở hữu được
bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào
danh sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天 , Detian). Theo lộ
trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở bằng xe
ca đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một
quãng đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh toàn cảnh đẹp
như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách
cũng có thể dùng bè để đi đến chân thác.
Ảnh 4: Hình ảnh thơ mộng chụp từ phía Trung Quốc
Ảnh 5: Du khách dùng bè để đi đến chân thác
Một lợi thế khác của
bờ bắc là du khách có thể trèo lên thượng nguồn, mua sắm ở chợ trời biên
giới để rồi sau đó trở lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía nam.
Tóm lại, phía Trung
Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn
khai thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía Việt Nam
buộc phải nhờ vả ông bạn “16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên phải
chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.
Ảnh 6: Thác Bản Giốc: đường lên thượng nguồn từ bờ bắc.
Việc Trung Quốc nắm
được ưu thế trong kinh doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc không cần đến
Việt Nam đã mặc nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng
“trong việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần thác
phụ cộng với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của ông
Vũ Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm của
thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như một
thắng cảnh đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không phải là
giữ được phần nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa
của thác chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn,
nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính là phần đẹp
nhất, phần quan trọng nhất của thắng cảnh. Bài toán
chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán cộng trừ như ông Vũ Dũng (và
những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính toán”. Đó là chưa kể đến giá trị
của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng, giá trị mà không
có bài toán số học nào có thể lấp liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở
phần sau.
2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?
Trong một cuộc trả
lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC
Orient) [3] vào
đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã
phát biểu như sau:
“Ông LCP: Về
thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong
sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác
Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là
của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là
sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người
ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước
giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và
theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ
được 1/3 thác.
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác
định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định
quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một
dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là
chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi
lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người
có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó
hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì
mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm
thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như
vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với
mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh -
Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói
là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng
ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản
Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta
chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản
Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai
thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói
chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho
phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc”[4].
Tóm lại, theo ông Lê
Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối”
cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt
Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Ảnh 7: Bản đồ khu vực 186 C (vùng tranh chấp ở Cồn Pò Thoong)
Tấm bản đồ 186 C về
khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn đàn của
Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là “tài liệu
mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này nhằm giải thích
lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc 53 cho nên dựa
theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở phía nam cồn Pò Thoong
dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như thế, toàn bộ cồn Pò Thoong
phải thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1 phần 3 của thác chính.
Theo giải thích chính
thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm phán
gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên
cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác
phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn
bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn vào tấm bản đồ
do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới
được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây)
đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm
giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo
trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân
chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột
mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và
hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và
836 (2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác
phụ).
Ảnh 8: Sơ đồ Thác Bản Giốc và đường biên giới mới
Nhưng tại sao cồn Pò
Thoong lại bị chia cắt theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4
thuộc về Trung Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành viên
đoàn đàm phán, giải thích như sau: “Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy
định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi
theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh
đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng
những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho
Việt Nam” [6].
Điều đó có nghĩa là:
đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế”
thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc,
nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai
bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4
cồn. Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn
xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng
đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích
rõ điều này.
Ảnh 9: Cách phân chia lại Thác Bản Giốc
Có một chi tiết cho
thấy cách tư duy và lập luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao Việt Nam:
phần thác chính (ba tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba dòng)
lại được gọi là “thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa
“thác cao” ở phía trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên
nào?
3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?
Như trên đã dẫn, ngay
cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng rất lạ là
trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói
thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy
là của Trung Quốc”. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy
“khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của giới
trí thức?
Nếu xét về tài liệu
thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản
Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài
liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên
Việt Nam đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp
cảnh Thác Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh
10).
Ảnh 10: Ảnh Thác Bản Giốc in trong sách của ông Lê Bá Thảo
Điều đáng chú ý là
dòng ghi chú bên dưới: “Trên sông Quây Sơn ở ngay biên giới”. Nhìn vào tấm
ảnh, chúng ta thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của thác chính
phía bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho thấy ở
tả ngạn của dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất thuộc
lãnh thổ Việt Nam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho phía
Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ của mình
để chụp những tấm ảnh tương tự.
Ảnh 11: Bản đồ
Miền Đông Bắc (Lê Bá Thảo)
Cũng trong cuốn sách
nói trên, có một bản đồ “Miền Đông-Bắc” đăng ở trang 41 (ảnh 11). Nhìn vào
tấm bản đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong nội địa nước
ta. Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là
một nhà địa lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác nước
như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng với sự
kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng tin cậy.
2) Tác giả Trương
Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên
là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng
biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin - Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm
mốc biên giới Trung-Việt năm 1894 [7].
Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong phần phía Bắc
(của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8],
dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ
Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang).
Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi
đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton,
sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai ki-lô-mét trước
khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác
nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ
nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc
thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ
tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những
vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở
vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.
Ảnh 12: Trích đoạn trang 12 – sách của Famin: sông Quây Sơn đợc
ghi là Qui-Thuan
Trong đoạn văn này,
cần chú ý đến câu: “Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt
qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu này
cho thấy “thác nước tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui
Thuận (tức sông Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác,
ở bờ trái (tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc lãnh thổ
Việt Nam. Như thế trong khoảng 2 km tính từ Thác Bản Giốc, đường biên giới
không thể là trung tuyến của dòng sông như “cách thức phân giới” mà các nhà
ngoại giao của hai nước đã “sáng tạo” ra dựa theo Hiệp ước 1999.
Một điều đáng chú ý
khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong
bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài
liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang)
có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một
châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9].
Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với
Phủ Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước
Thanh” [10].
Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa
phương (châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ,
tên phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài
liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm
Hán-Việt là "Qui Xuân hà".
3) Trong số các bưu
ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang
số 832. Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN - Région de Cao-Bang –
Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs
tonkinois” (BẮC KỲ - Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản
xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
Ảnh 13: Bưu ảnh 832 của Pierre Dieulefils:
Thác Bản Giốc - Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông.
Nhìn vào tấm bưu ảnh
(ảnh 13), chúng ta thấy những người lính Việt dưới sự chỉ huy của một người
Pháp đang lội qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác
trong ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều này
chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là đất
của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy
người Pháp và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia bờ sông
và từ bên đó trở về.
3) Trong bài viết
“Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11],
ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều
năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi
được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa - Tập đọc
cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ
biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày - Nùng; còn
phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo
sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện
Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên
kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía
Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc
sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta”.
4) Trong bài báo đăng
trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng
Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn
“dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.
Ảnh 14: Cột mốc 53 cũ (bên trái) nằm cạnh cột mốc 835 mới (bên
phải)
Nếu xem lại “bị vong
lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum) năm 1979 của Bộ
Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm
Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản
Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự
thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000
người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao
quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân
cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông
biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn
Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc” [12].
Như vậy, trạm thủy
văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò
Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã
công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền
của Việt Nam đối với cồn Pò Thoong.
Ảnh 15: Cột mốc phụ 835-1 nằm đối diện với cồn Pò Thoong
Việc Trung Quốc dùng
vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi
đó không thể che lấp được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở hữu của cồn
này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ
về việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một
bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai
vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực
hiện sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong.
Ngược lại, nếu khẳng
định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn
Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong,
vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều này,
không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt
Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò
Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là
một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một
phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía
bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày
nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong
lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan đến
cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật,
chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí
của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định
Pháp-Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng
định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang
nơi khác theo thời gian?
4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?
Ảnh 16: Bản đồ Sông Quây Sơn
Nhìn vào tấm bản đồ
trích từ Bản đồ giao thông năm 2004 (ảnh 16), chúng ta
thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại một điểm
gần cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại một điểm gần cửa khẩu Lý
Vạn. Điều đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc,
dòng sông lại trở thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng
sông chính là đường biên giới). Điểm đó có liên quan đến cột
mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn cứ chủ yếu để xác định chủ quyền đối
với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc này bị dời đến một vị trí
khác thì chủ quyền của Việt Nam đối với Thác Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi sưu tầm tài
liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ
quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53[13]:
Ảnh 17: Trích biên bản Pháp–Thanh 19-6-1894
- Trước hết là biên
bản Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó xác định: cột mốc số 53 có tên là
Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口 ), được cắm “ bên lề một con đường, ở phía Tây-Nam và trên
phần nối dài của một khu rừng nhỏ” (Au bord du chemin et au SO et sur le
prolongement d’un petit bois). Cột mốc số 54 có tên là Lung Trang (Lũng
Tằng Sơn 隴曾山) được đặt tại vị trí
“giữa chân của các núi đá và ranh giới của các ruộng lúa phía trước mặt Ban
Mong” (Entre le pied des rochers et la limite des cultures en face
Ban-Mong).
- Cuốn “Nhật Ký của
Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm
nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của
các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la
frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de
petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux
cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent
les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55)
jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient
l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en
face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du
blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le
chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra
jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à
travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance
constante. (…) A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en
aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons
élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau).
Câu hỏi đặt ra
là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy
luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu
của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung
úy Détrie vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ
lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là
“cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.
- Về bản đồ: có một
tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này (xem
ảnh 18). Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha
địa dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực hiện. Thật ra,
nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam phát hành
trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ
1/50.000.
Để độc giả dễ phân
biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to một phần nhỏ của bản đồ và xoay bản đồ
cho đúng hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột mốc 54
(B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của borne 53)
phía đông-nam, có một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều
này giải thích lý do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai
bờ sông một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng ta có
thể bác bỏ ý kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên một cồn
giữa suối cách thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53)
hoàn toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không liên quan gì
đến một “cồn” nào đó trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này cũng cho thấy có
một đồn của Trung Quốc (Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.
Ảnh 18: Bản đồ SGI do tác giả Trương Nhân Tuấn công bố
Ảnh 19: Trích đoạn bản đồ SGI - khu vực Thác Bản Giốc
Nhược điểm của tấm
bản đồ này là thiếu các vòng cao độ (contour lines, courbes de niveau) cũng
như các tọa độ địa lý cần thiết để xác định một cách chính xác vị trí của
cột mốc. Mặt khác, nó cũng không ghi rõ vị trí của Thác Bản Giốc, cho nên
rất khó xác định vị trí của cột mốc số 53.
Thật ra, có một tấm
bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57
cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang
tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện
của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin)[14].
Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm
1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Ảnh 20: Trích bản đồ Trùng Khánh Phủ - sheet 6354-4 (U.S. Army
Map Service)
Làm thế nào mà quân
đội Hoa Kỳ có được tờ bản đồ này? Căn cứ vào ghi chú trên tờ bản đồ, chúng
ta có thế ước đoán bản đồ này được biên soạn dựa trên dữ liệu của Nha Địa
dư Đông dương (Service géographique de l’Indochine) trước kia và cả trên
những thông tin do chính quân đội Hoa Kỳ thu thập được.
Ngoài ra, còn có một
tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV do Cục bản
đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980, rất giống
với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu tập Bản đồ Việt Nam
(Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech
University) sưu tầm và công bố [15].
Tờ bản đồ này được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm
1976 đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể
phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh
Phu, sheet 6354-4của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội
miền Bắc đã tiếp quản toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở
Đà Lạt.
Cần lưu ý là bản đồ
này được in lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời điểm với việc Trung Quốc
tấn công cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ “quốc giới
chưa xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ Trùng
Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54
(ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).
Ảnh 21: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ
mốc 58 đến mốc 54
Dựa vào bản đồ, chúng
ta có thể thấy rõ đường biên giới từ cột mốc 57 (M. 57) đến cột mốc 55
(M.55) đúng như Détrie mô tả: “Sau cửa Dốc-Khánh, đường biên giới được vạch
trong lòng dãy núi đá, để lại cho Bắc Kỳ các thung lũng hẹp ít quan trọng
mở ra phía Lung-Piac (Lũng Phiắc). (Đường biên giới) chạy gần
hai thung lũng rất khó thâm nhập là Lung-Deng (Lung Den) và
Lung-Moi (Lung Noi); băng ngang qua các thung lũng này là những
con đường dẫn đến Thin-Thang (T’ien-teng) qua ngõ
Ai-Thin-Thap (mốc 56) và Lung-Moi (Lung Noi, mốc 55) đến tận vùng cắm mốc.
Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung
Noi) đóng thuế cho người Trung Hoa” [16].
Ảnh 22: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ
mốc 54 đến mốc 53
Détrie viết tiếp:
“Tiếp đó, đường biên giới trở lại chân các núi đá trước mặt làng Ban-Mong (Bản
Mom, mốc 54), chạy dọc theo chân của các núi đá ấy và dưới chân của đồn
Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa của một khu rừng nhỏ và cắt con
đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến dòng sông – dòng sông mà đường biên
giới chạy xuôi theo cho đến tận Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường đi từ mốc
53 dẫn đến Dốc-Khánh (mốc 57) đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp sắp đến
phải được giám sát thường xuyên. (…) Từ thác nước đẹp cao 50 m - nằm
nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53, sông Qui-Xuân [17] chảy
thu hẹp lại giữa những ngọn đồi cao”.
Nhìn vào bản đồ,
chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía
tây-bắc “đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”. Con đường này chạy dưới
chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa quan trọng về mặt
quốc phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường
xuyên”. Chúng ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con đường
Hang-Dong-Quan” (le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53. Sau khi
vượt qua biên giới ở mốc 53 gần Thác Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan
chạy men bờ sông (tả ngạn sông Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ
Trung Hoa. Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi cho đến năm 1979
(là lúc phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh 6354-IV của
QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.
Ảnh 23: Dải đất dưới chân thác ở tả ngạn thuộc lãnh thổ VN
Có thể nói hai tờ bản
đồ 6354-4 mang tên Trùng Khánh Phủ và Trùng Khánh hoàn toàn ăn khớp với
những gì trung úy Détrie đã mô tả trong nhật ký. Cả hai tờ bản đồ này cũng
cho thấy thác nước “nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53”. Điều
đó có nghĩa là cột mốc “nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác”,
nhưng không nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới chạy theo hướng
tây bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa thác nước và ngọn đồi tiếp
giáp, cắt một diện tích đất ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam
trước khi nhập vào đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).
Như vậy, toàn bộ thác
Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam, toàn bộ dải đất chạy dài từ dưới chân thác
lên đến cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc 54 cũng
thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta lý giải được tại sao toán lính
người Việt dưới quyền chỉ huy của một người Pháp lại có thể đi tuần tra từ
bên kia sông và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán
lính này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã nhắc
đến, đi từ phía trên thác để xuống chân thác, lội sông trở về phía hữu ngạn
của sông Quây Sơn (xem bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng
trên mảnh đất này, nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác Bản Giốc
được đăng trong cuốn sách của nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977).
Ngày nay, chúng ta không thể đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một
tấm ảnh tương tự, bởi vì dải đất này đã bị cắt cho phía Trung Quốc.
Ảnh 24: Thác Bản Giốc nhìn từ phía Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn)
là những núi cao chót vót.
Mặt khác, đường biên giới
từ mốc 54 đến mốc 53 chạy dọc theo chân của dãy núi đá vôi. Với địa thế
hiểm trở như ở vùng này (xem ảnh 24), cho dù phía Trung Quốc có thể đóng
đồn ở trên núi cao (trong bản đồ của Hoa Kỳ ghi chữ fort, trong
bản đồ của Việt Nam in chữ đồn), quân đội của họ cũng không thể
xâm nhập vào các thung lũng bên dưới. Thế nhưng, tình hình hoàn toàn sẽ đổi
khác nếu phía Trung Quốc đặt được một đầu cầu xuống vùng thung lũng bên
dưới. Đầu cầu đó giúp họ có thể tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng
dọc sông Quây Sơn, với sự yểm trợ của pháo binh đặt trên những điểm cao.
Điều đó giải thích được nguyên do tại sao phía Trung Quốc từ lâu đã có âm
mưu chiếm cồn Pò Thoong, một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay
phía trên thác.
(Bài nguyên
thủy quá dài, cắt làm 2 phần. Quý vị có thể coi ở đường dẫn gốc để coi toàn
bộ một lần)
|
No comments:
Post a Comment