SEATO
Cách nay đúng 64 năm, Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á
(SEATO) được thành lập; nhằm ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.
Ngày 08
tháng 09, 1954
·
1954 – Tám quốc gia ký kết Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam
Á tại Manila,
Philippines hình thành nên Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO).
Tổ chức Hiệp hội Đông Nam Á
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
Hội
kỳ Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
Vị
trí các quốc gia thành viên Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (năm 1959)
Tên viết tắt SEATO
Thành lập 8 tháng 9 năm 1954
Tuyệt chủng 30 tháng 6 năm 1977
Loại Tổ chức phòng vệ tập thể
quốc tế
Thành viên 8 quốc gia: Anh Quốc, Hoa Kỳ, New Zealand, Pakistan (bao gồm Đông Pakistan, nay là Bangladesh), Pháp, Philippines, Thái Lan, Úc
Quan chức lãnh đạo của một số quốc gia thành viên SEATO
trước thềm Tòa nhà Quốc hội tại Manila, hội nghị do Tổng thống
Philippines Ferdinand Marcos chủ trì vào ngày 24 tháng 10 năm 1966.
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á(tiếng Anh: Southeast Asia Treaty Organization, viết tắt theo tiếng Anh là SEATO),
cũng còn gọi là Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á hay Tổ
chức Minh ước Đông Nam Á là một tổ chức quốc tế đã giải tán. Tổ chức phòng
vệ này được thành lập căn cứ theo Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á hay
Hiệp ước Manila được ký vào tháng 9 năm 1954, thể chế chính thức của SEATO được
thiết lập vào ngày 19 tháng 2 năm 1955 tại Bangkok, Thái Lan[2]:1, trụ sở cũng đặt tại Bangkok. Tổ chức từng có 8 quốc gia thành viên.
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập
với mục đích ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại châu Á:338-339, tuy
nhiên do chia rẽ nội bộ nên tổ chức này không có biện pháp thi hành hữu hiệu
hành động phòng vệ, không thể can thiệp trong Nội chiến Lào và Chiến tranh Việt Nam, do đó sau khi tổ chức giải tán có học giả nhận định đây
là một tổ chức quốc tế thất bại; tuy nhiên trên một phương diện khác, các kế hoạch văn
hóa và giáo dục do tổ chức này tài trợ có ảnh hưởng sâu xa đối với khu vực Đông
Nam Á[2]:183.
Do có nhiều quốc gia thành viên không còn muốn tham dự
công tác của hội, lần lượt rút lui nên Tổ chức cuối cùng giải tán vào ngày 30
tháng 6 năm 1977[9][10].
Khởi
nguyên và cấu trúc
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập theo Chủ thuyết Truman:439, nhằm
át chế thế lực cộng sản chủ nghĩa tại châu Á:338-339, đồng
thời phòng ngừa thế lực của Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam phát triển về
phương nam.
Trong
thời gian Eisenhower đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ,
Ngoại trưởng John Foster Dulles (tại nhiệm 1953–1959) mở rộng khái niệm phòng
thủ tập thể chống cộng đến Đông Nam Á nhằm đạt được mục đích kể trên.[2]:1 Cuối
năm 1953, Phó Tổng thống Hoa Kỳ đương thời là Richard
Nixon sau khi công du châu Á đã chủ trương thành lập tại châu Á
một tổ chức theo mô hình của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO):173-174.
Ngoài
ra, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đều không ủng hộ Hiệp định Genève 1954[14].
Đến
ngày 8 tháng 9 cùng năm, Hoa Kỳ cùng một số quốc gia khác tại Manila ký kết
"Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông Nam Á" (còn gọi là "Hiệp ước
Manila"); chuyên gia của các quốc gia ký kết đã triển khai đàm phán nội
dung hiệp ước từ vài ngày trước đó, đồng thời vào ngày 6 tháng 9 tại Manila
triệu tập hội nghị, thành lập liên minh quân sự[15]. Các quốc gia ký kết
"Hiệp ước Manila" sau đó căn cứ theo hiệp ước để lập nên Tổ chức Hiệp
ước Đông Nam Á[2]. Đối tượng mà tổ chức bao vây
ngăn chặn là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thi hành xã hội chủ nghĩa:97. Quốc
gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (đặc biệt là Hoa Kỳ) nhận định
rằng thể chế này có khả năng cản trở những người cộng sản thay đổi bản đồ chính
trị Đông Nam Á[14].
Sau khi thành lập tổ chức, các quốc gia phương tây từng có ý
muốn phát triển thể chế này thành NATO phiên bản Đông Nam Á:836.
Tổ
chức Hiệp ước Đông Nam Á điều phối quân đội các quốc gia thành viên nhằm đạt
đến mục đích phòng vệ tập thể. Năm 1957, trong hội nghị của SEATO tại Canberra thiết
lập Hội đồng Bộ trưởng, Bộ tham mưu quốc tế cùng các ủy ban về kinh tế, an ninh
và thông tin,[9] đồng
thời lập chức vụ Tổng thư ký. Tổng thư ký đầu tiên của tổ chức là Pote
Sarasin, ông là một nhà ngoại giao và chính trị người Thái Lan, từng
giữ chức Đại sứ Thái Lan tại Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 1952-1957[2]:186, và
từng giữ chức Thủ tướng Thái Lan từ tháng 9 đến hết năm 1957. Từ đó
về sau, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á do Tổng thư ký lãnh đạo.[2]:184[9].
Khác với NATO, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á không thiết lập quyền
chỉ huy thống nhất đối với lực lượng thường trực[10]. Ngoài ra, nguyên tắc phản ứng
của SEATO trong trường hợp chủ nghĩa cộng sản thể hiện "uy hiếp
chung" đối với các quốc gia thành viên là mơ hồ và vô hiệu, song việc là
thành viên của tổ chức cung cấp cho Hoa Kỳ một cơ sở pháp lý để tiến hành can
thiệp quy mô lớn trong Chiến tranh Việt Nam[20]
Thành
viên
Bất chấp danh xưng của mình, trong số tám quốc gia thành viên
của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á chỉ có Thái Lan và Philippines nằm tại Đông Nam
Á; các thành viên còn lại của tổ chức bao gồm Anh Quốc, Hoa Kỳ, New Zealand,
Pakistan (bao gồm Đông Pakistan, nay là Bangladesh), Pháp, Philippines, Thái
Lan, Úc[10].
Thời điểm Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập,
Philippines và Hoa Kỳ có quan hệ đặc biệt mật thiết;Thái Lan đang nằm dưới quyền chính phủ quân sự cũng thi hành
chính sách ngoại giao thân Mỹ[14].
Ngoài
ra, hai quốc gia này đều phải đối diện với tình trạng cộng sản mới bắt đầu nổi
dậy trong nước. Thái Lan lưu ý đến việc Trung Quốc lập khu tự trị dân tộc Thái
tại tỉnh Vân Nam (năm 1953 lập Khu tự trị dân tộc Thái và dân tộc Cảnh
Pha Đức Hoành[21] và
Khu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp[22])[23] và
chi viện cho người H'Mông tại
miền bắc Thái Lan, Pathet
Lào và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng ủng hộ các bộ tộc tại
khu vực Đông Bắc Thái Lan khởi binh[14]. Nhà
đương cục Thái Lan lo ngại Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam[14], lo lắng tổ chức của Đảng Cộng
sản Trung Quốc tại Thái Lan tiến hành hoạt động lật đổ[23].
Trước
cục diện này, Thái Lan tìm kiếm viện trợ của Hoa Kỳ, do đó đó tích cực tham dự
hoạt động của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á[14]. Philippines hi vọng thông qua
tham dự quá trình thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á để thiết lập hình tượng
quốc gia độc lập và tăng cường an ninh quốc gia[14]. Ngoài
ra, đương thời Brunei là quốc gia được Anh Quốc bảo hộ, song từ năm 1962 đến
năm 1963 bùng phát bạo loạn, Anh Quốc cùng Úc và New
Zealand đều phái binh đến Brunei, hiệp trợ Brunei bình định bạo loạn[24].
Các quốc gia Đông Nam Á còn lại không tham dự Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á khác vì nhiều nguyên nhân khác nhau: Miến Điện và Indonesia là thành
viên của Phong trào không liên kết[25], nhận
định rằng duy trì ổn định xã hội trong nước quan trọng hơn là đối phó với uy
hiếp của cộng sản, do đó
cự tuyệt gia nhập[26], thậm
chí phản đối Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á[14]. Cựu
thủ tướng Djuanda Kartawidjaja và
cựu Phó Tổng thống Adam Malik của Indonesia từng biểu thị Indonesia sẽ không
gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á[27][28]. Malaya do đã ký với Anh Quốc hiệp định phòng thủ nên được Anh
Quốc hiệp trợ đối phó với cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản Malaya và xung
đột với Indonesia, do đó Malaya (sau đó là Malaysia, Singapore) không gia nhập Tổ
chức Hiệp ước Đông Nam Á[14].
Tuy
nhiên, Malaysia và Singapore có thể không qua Anh Quốc để biết được các động
thái mới nhất của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á.
Việt
Nam Cộng hòa, Campuchia và Lào do tuân thủ quy định trong Hiệp định Genève nên không gia nhập[10], tuy
vậy các quốc gia này vẫn được tổ chức đặt dưới bảo hộ quân sự của mình[10]. Tuy
nhiên, năm 1956 Campuchia cự tuyệt tiếp nhận bảo hộ của Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á.
Các quốc gia khác gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á vì các
nguyên nhân khác nhau, đối với Úc và New Zealand, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
được nhận định là tổ chức vừa ý hơn ANZUS[29], Anh
Quốc và Pháp đều từng lập thuộc địa tại Đông Nam Á, cũng quan tâm đến phát
triển cục thế tại Đông Dương, do đó gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á.
Pakistan và Ấn Độ giao chiến, hy vọng có thể được các quốc gia khác ủng hộ, do
đó gia nhập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á.
Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ nhận định Đông Nam Á
là tiền tuyến chủ chốt, cho rằng thành lập SEATO là điều cần thiết trong chính
sách ngăn chặn của mình.
Các quốc gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á vào giữa
thập niên 1950 đều thi hành chủ nghĩa chống cộng, trong đó Anh Quốc, Úc và Hoa
Kỳ đại diện cho các cường quốc phương Tây[30]:604. Tại
Hoa Kỳ, Thượng nghị viện phê chuẩn việc tham gia Hiệp ước phòng thủ tập thể
Đông Nam Á với 82 phiếu ủng hộ, 1 phiếu phản đối. Hoa
Kỳ đương thời có ý cùng liên thủ với Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan,
Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia ký kết "Hiệp ước
Manila", và Hiệp ước ANZUS hợp thành hệ thống phòng thủ Tây Thái Bình
Dương[31].
Canada và Trung Hoa Dân Quốc vốn đã trù tính gia nhập Tổ chức
Hiệp ước Đông Nam Á, song Canada muốn chuyên tâm xử lý công việc của NATO[32]:138, còn
Anh Quốc, Pháp, Philippines, Pakistan phản đối Trung Hoa Dân Quốc gia nhập,
cuối cùng không thể giải quyết[33]. Ngoài
ra, đại biểu các quốc gia thương nghị nội dung hiệp ước, cuối cùng quy định
"Hiệp ước Manila" chỉ áp dụng trong phạm vi đến 21°30' vĩ Bắc, do đó
không áp dụng cho Hồng Kông, tránh gây khó khăn cho Anh Quốc[15].
Quân
sự
Úc phái trung đội không quân số 79 đồn trú
tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Ubon, thực hiện cam kết của mình trong
khuôn khổ SEATO.
Sau khi Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á được thành lập, tổ chức
nhanh chóng trở nên không quan trọng trên phương diện quân sự do đại bộ phận
các quốc gia thành viên có cống hiến rất ít cho liên minh[32]:138. Mặc
dù quân đội các quốc gia thành viên tiến hành diễn tập quân sự liên hiệp, song
chưa từng cùng tác chiến, nguyên nhân là giữa các quốc gia này phát sinh tranh
chấp; như do Anh và Pháp phản đối nên tổ chức không thể can thiệp trong xung
đột tại Lào. Do
đó, Hoa Kỳ đơn phương chi viện cho Vương quốc Lào từ sau năm 1962. Hoa
Kỳ hy vọng SEATO tham gia Chiến tranh Việt Nam, song tổ chức này cuối cùng do
Anh và Pháp bất hợp tác nên không thể thực hiện. Cuối
cùng, Hoa Kỳ chỉ có thể tự thân xuất binh đến Việt Nam tham chiến theo yêu cầu
của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa[14].
Hoa Kỳ và Úc dùng liên minh để biện hộ cho việc họ tham dự Chiến
tranh Việt Nam[32]:138. Hoa Kỳ lấy tư cách hội
viên của minh làm lý do tiến hành can thiệp quân sự quy mô lớn tại Đông Nam Á,
các đồng minh của Anh và các quốc gia chủ chốt tại châu Á chấp nhận lý do này[20]. Năm 1962, theo cam kết của
mình với SEATO, Không quân Hoàng gia Úc triển khai các máy bay CAC
Sabre của Trung đội số 79 đến Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái
Lan Ubon. Các máy bay Sabre này bắt đầu tham dự trong Chiến tranh Việt Nam từ
năm 1965, khi chúng chịu trách nhiệm bảo vệ máy bay của Không quân Hoa Kỳ tiến
hành oanh tạc miền Bắc Việt Nam từ căn cứ Ubon[34][35].
Avions
de patrouille maritimeLockheed
SP-2H Neptune australien, P-5B Marlin américain, et Short
Sunderland MR.5 néo-zélandais
lors d'exercices de l'OTASE en 1963 dans la baie de Manille.
Les porte-hélicoptères
australien HMAS Sydney (R17) et américain USS Valley
Forge (LPH-8) durant
des manœuvres de l’OTASE en mai 1964.
Emblème de l’exercice militaire Oceanlink de
1958 avec les drapeaux des huit pays membres de l’OTASE.
Organigramme en anglais du Conseil de
l'OTASE.
Organigramme en anglais de la structure
militaire de l'OTASE.
Ảnh hưởng văn hóa
Một tem bưu chính Hoa Kỳ có huy hiệu SEATO.
Ngoài tiến hành luyện tập quân sự liên hiệp, các quốc gia thành
viên Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á còn nỗ lực cải thiện vấn đề xã hội và kinh tế:183. Trong
tổ chức, các hoạt động như vậy do Ủy ban Thông tin, Văn hóa, Giáo dục và Lao
động phụ trách, chúng nằm trong số các thành công lớn nhất của tổ chức.:183 Năm
1959, Tổng thư ký đầu tiên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á là Pote Sarasin cho
lập Trường sau đại học kỹ thuật SEATO (nay
là Viện Công nghệ châu Á) nhằm đào tạo các kỹ sư:186. Ngoài
ra, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á còn tài trợ thành lập Trung tâm phát triển giáo
viên tại Bangkok, cùng Học viện Đào tạo kỹ thuật quân sự Thái Lan:188. Dự án
Lao động lành nghề SEATO nhằm đào tạo kỹ năng cho thợ thủ công, đặc biệt là tại
Thái Lan, tại đây có 91 xưởng đào tạo được lập ra:188.
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á đồng thời cũng cung cấp kinh phí
nghiên cứu và tài trợ cho các lĩnh vực nông nghiệp và y tế:189. Năm
1959, SEATO lập Phòng thí nghiệm nghiên cứu bệnh tả tại Bangkok, sau đó lập một
phòng nghiên cứu bệnh tả nữa tại Dhaka, Đông
Pakistan:189. Phòng
thí nghiệm tại Dhaka nhanh chóng trở thành cơ sở nghiên cứu bệnh tả hàng đầu
thế giới và sau này đổi tên thành Trung tâm Quốc tế nghiên cứu bệnh
tiêu chảy:189-190. Tổ
chức này còn quan tâm đến văn học, một giải thưởng văn học SEATO được lập ra để
trao thưởng cho tác gia ưu tú đến từ các quốc gia thành viên[36].
Phê
bình và giải tán
Liên Xô và Trung Quốc biểu thị phản đối ngay từ khi Tổ chức Hiệp
ước Đông Nam Á được thành lập. Dựa theo văn kiện do nhà đương cục Liên Xô biên
soạn, chủ nghĩa thực dân không muốn thấy nhân dân thuộc địa nổi dậy, tự do phát
triển, song không thể khiến nhân dân các quốc gia Á-Phi từ bỏ đấu tranh, do vậy
họ thay đổi sách lược, lập ra các tập đoàn xâm lược như Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á, áp bức nhân dân bị nô dịch, trấn áp phong trào giải phóng dân tộc; Lãnh
tụ Liên Xô và các quốc gia châu Á như Ấn Độ và Miến Điện phản đối SEATO, khiển
trách kiểu tập đoàn xâm lược này, kết luận rằng tập đoàn này không thể khiến
thế giới thêm hòa bình. Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai nhận định rằng các nước Anh, Mỹ muốn dựa vào liên minh
chống cộng để khiến Đông Nam Á phân liệt, song vì Hiệp định Genève nên không
thành, họ lại thuyết phục SEATO nhìn nhận Trung Quốc là kẻ thù, ý muốn phân
liệt châu Á, can thiệp nội chính các quốc gia châu Á, khiến cục thế khu vực
càng thêm căng thẳng[31].
Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dulles nhận định SEATO là một yếu tố cần thiết trong chính sách
ngoại giao của Hoa Kỳ tại châu Á. Tuy
nhiên, không phải thành viên SEATO nào cũng đồng ý với chủ trương của Hoa Kỳ về
việc dùng biện pháp quân sự để áp chế thế lực cộng sản chủ nghĩa. Năm 1954, Thủ
tướng Anh Quốc Anthony Eden biểu thị vấn đề cộng sản chủ nghĩa
tại châu Á vừa là vấn đề chính trị, vừa là vấn đề quân sự, do đó không thể chỉ
dựa vào biện pháp quân sự để áp chế người cộng sản; nếu muốn sử dụng biện pháp
quân sự để ngăn chặn hữu hiệu vấn đề này, cần phải đạt được sự ủng hộ rộng rãi
nhất của các quốc gia châu Á.
Do Pháp không hăng hái tham gia công tác của Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á, còn Anh Quốc tuyên bố từ năm 1971 bắt đầu triệt thoái quân đội khỏi
khu vực phía đông Kênh đào Suez, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
bất lực trước hành động quân sự của thế lực cộng sản chủ nghĩa. Cuối
cùng, Đảng Cộng sản Việt Nam, Pathet
Lào và Khmer
Đỏ vào năm 1975 lần lượt lật đổ các chính quyền thân Mỹ. Ngoài
ra, ngoại trừ Hoa Kỳ, các thành viên còn lại của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
vào thời điểm giải tán đều đã lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc[37], song
từ sau khi Nixon thăm Trung Quốc vào
năm 1972, quan hệ Mỹ-Trung cũng đã hòa hoãn[38].
Thập niên 1970, một số quốc gia thành viên của Tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á không muốn tham dự công tác của tổ chức, đồng thời rút khỏi tổ chức:
Đông Pakistan được Ấn Độ chi viện đã ly khai Pakistan, lập ra Bangladesh, một
năm sau Pakistan rút khỏi Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á; vào
năm 1975 Pháp quyết định không tiếp tục viện trợ kinh tế trong khuôn khổ tổ
chức. Các
quốc gia thành viên khác của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á và năm 1975 ra công
báo, tuyên bố do tình hình biến đổi, tổ chức sẽ giải tán, song hoạt động và kế
hoạch do tổ chức thi hành sẽ được duy trì dưới hình thức khác[39]. Tổ
chức Hiệp ước Đông Nam Á cử hành hội nghị cuối cùng vào ngày 20 tháng 2 năm
1976, đến ngày 30 tháng 6 năm 1977 thì chính thức giải tán.
Đại đa số sử gia nhận định "Hiệp ước phòng thủ tập thể Đông
Nam Á" là hiệp ước thất bại, trong các sử sách có rất ít đề cập đến hiệp
ước này:1. Quan
chức ngoại giao Anh Quốc James Cable từng hình dung trong The Geneva
Conference of 1954 on Indochina[40] rằng
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á như một chiếc lá sung che đậy chính sách trơ trụi
của Hoa Kỳ, còn Hiệp ước Manila là vườn thú gồm các con hổ giấy (hoặc các con
sư tử giấy).:1
Tham
khảo
2.
^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o Franklin, John K. (2006). The Hollow Pact: Pacific
Security and the Southeast Asia Treaty Organization. ProQuest. ISBN 9780542915635.
3.
^ Leifer, Michael (2005). Chin Kin Wah, Leo Suryadinata, biên tập. Michael
Leifer: Selected Works on Southeast Asia. ISBN 978-981-230-270-0.
4.
^ a ă â b c d đ “Southeast
Asia Treaty Organization (SEATO), 1954”(bằng tiếng
Anh). USA: Office of the Historian. Truy cập 2 tháng 9 năm 2011.
5.
^ a ă Ooi, Keat Gin biên tập (2004). Southeast Asia: A
Historical Encyclopedia, From Angkor Wat to East Timor, Volume 2.
ABC-CLIO. ISBN 9781576077702.
6.
^ a ă â b c Grenville, John; Wasserstein, Bernard biên tập (2001). The
Major International Treaties of the Twentieth Century: A History and Guide with
Texts. Taylor & Francis. tr. 336. ISBN 978-0415141253.
7.
^ a ă â Hearden, Patrick J. biên tập (1990). Vietnam: Four
American Perspectives. Purdue University Press. tr. 46. ISBN 9781557530035.
8.
^ Buszynski, Leszek (1983). SEATO: The Failure of an
Alliance Strategy. Singapore University Press. ISBN 9789971690601.
9.
^ a ă â b Page, Melvin E. biên tập (2003). Colonialism: An
International Social, Cultural, and Political Encyclopedia. ABC-CLIO.
tr. 548. ISBN 9781576073353.
10.
^ a ă â b c d đ Encyclopaedia Britannica (India) (2000). Students'
Britannica India, Volume Five. Popular Prakashan. tr. 60. ISBN 9780852297605.
11.
^ Jillson, Cal (2009). American Government: Political
Development and Institutional Change. Taylor & Francis. ISBN 9780415995702.
14.
^ a ă â b c d đ e ê g h i D. R. SarDesai (2010). Southeast Asia: Past and Present.
Boulder, CO: Westview Press. ISBN 978-0-8133-4434-8.
17.
^ Boyer, Paul; Clark, Jr., Clifford; Kett, Joseph; Salisbury,
Neal; Sitkoff, Harvard; Woloch, Nancy (2007). The Enduring Vision (ấn
bản 6). Houghton Mifflin. ISBN 978-0618801633.
18.
^ Weiner, Tim (2008). Legacy of Ashes: The History of the
CIA. Random House Digital. tr. 351. ISBN 9780307389008.
19.
^ “History of Thai Prime
Ministers”. Chính phủ Hoàng gia Thái Lan. Truy cập 22 tháng 4 năm 2011.
20.
^ a ă Maga, Timothy P. (2010). The Complete Idiot's Guide to
the Vietnam War, 2nd Edition. Penguin. ISBN 9781615640409.
21.
^ 胡洪江 (12
tháng 4 năm 2013). “云南省德宏傣族景颇族自治州喜庆成立60周年”. 人民網. Bản gốc lưu trữ 16 tháng 10 năm 2013. Truy cập 19 tháng 6 năm 2013.
22.
^ yxn (1 tháng 2 năm 2013). “风雨兼程谱华章 长风破浪铸辉煌——西双版纳建州60周年商务发展成就辉煌”. 西双版纳州商务局. Truy cập
19 tháng 6 năm 2013.
23.
^ a ă US PSB, 1953 United States Psychological Studies Board (US
PSB). (1953). US Psychological Strategy Based on Thailand, 14 September.
Declassified Documents Reference System, 1994, 000556–000557, WH 120.
25.
^ “Belgrade
Declaration of Non-aligned Countries” (PDF). Belgrade. Ngày 6 tháng
9 năm 1961. Truy cập
ngày 20 tháng 6 năm 2013.
26.
^ “Nehru Has Alternative To SEATO”. Sydney Morning Herald. Ngày 5 tháng 8 năm 1954.
tr. 1. Truy cập
ngày 3 tháng 10 năm 2012.
27.
^ U. P. I. (ngày 12 tháng 6 năm 1958). “Untitled”. Singapore Free Press. tr. 12. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
28.
^ Reuters (ngày 31 tháng 3 năm 1970). “'No' to
Seato by Malik”. The Straits Times.
tr. 22. Truy cập
ngày 20 tháng 6 năm 2013.
29.
^ W. Brands, Jr., Henry (tháng 5 năm 1987). “From ANZUS to SEATO:
United States Strategic Policy towards Australia and New Zealand, 1952-1954”. The
International History Review. No. 2 9: pp. 250–270.
30.
^ Tarling, Nicholas (1992). The Cambridge History of
Southeast Asia: Volume 2. Cambridge University Press. ISBN 9780521355063.
32.
^ a ă â Blaxland, John C. (2006). Strategic Cousins: Australian
and Canadian Expeditionary Forces and the British and American Empires.
McGill-Queen's University Press. ISBN 9780773530355.
34.
^ Stephens, Alan (1995). Going Solo: The Royal Australian
Air Force, 1946–1971. Australian Govt. Pub. Service. tr. 36. ISBN 9780644428033.
35.
^ Independent Review Panel (ngày 9 tháng 7 năm 2004). Report
to the Minister Assisting the Minister for Defence (PDF). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
36.
^ Boonkhachorn, Trislipa. “Literary Trends and
Literary Promotions in Thailand”. Truy cập
ngày 24 tháng 4 năm 2011.
38.
^ “U.S.-China
Relations Since 1949”. Asia for
Educators. Columbia University. 2009. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2013.
39.
^ “Thai
given mandate to dissolve SEATO”. The
Montreal Gazette. Ngày 25 tháng 9 năm 1975. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
40.
^ “Sir
James Cable”. www.telegraph.co.uk (Telegraph
Media Group). Ngày 13 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
Thư
mục
·
Blaxland, John C.
(2006). Strategic Cousins: Australian and Canadian Expeditionary Forces
and the British and American Empires. McGill-Queen's University
Press. ISBN 978-0-7735-3035-5.
·
Boyer, Paul; Clark, Jr.,
Clifford; Kett, Joseph; Salisbury, Neal; Sitkoff, Harvard; Woloch, Nancy
(2007). The Enduring Vision (ấn bản 6). Houghton
Mifflin. ISBN 978-0-618-80163-3.
·
Encyclopaedia Britannica
(India) (2000). Students' Britannica India, Volume Five. Popular
Prakashan. ISBN 978-0-85229-760-5.
·
Franklin, John K.
(2006). The Hollow Pact: Pacific Security and the Southeast Asia Treaty
Organization. ProQuest. ISBN 978-0-542-91563-5.
·
Grenville, John;
Wasserstein, Bernard biên tập (2001). The Major International Treaties
of the Twentieth Century: A History and Guide with Texts. Taylor &
Francis. ISBN 978-0-415-14125-3.
·
Hearden, Patrick J. biên
tập (1990). Vietnam: Four American Perspectives. Purdue University
Press. ISBN 978-1-55753-003-5.
·
Jillson, Cal
(2009). American Government: Political Development and Institutional
Change. Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-99570-2.
·
Leifer, Michael (2005).
Chin Kin Wah, Leo Suryadinata, biên tập. Michael Leifer: Selected Works
on Southeast Asia. ISBN 978-981-230-270-0.
·
Maga, Timothy P.
(2010). The Complete Idiot's Guide to the Vietnam War, 2nd Edition.
Penguin. ISBN 978-1-61564-040-9.
·
Ooi, Keat Gin biên tập
(2004). Southeast Asia: A Historical Encyclopedia, From Angkor Wat to
East Timor, Volume 2. ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-770-2.
·
Page, Melvin E. biên tập
(2003). Colonialism: An International Social, Cultural, and Political
Encyclopedia. ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-335-3.
·
Stephens, Alan
(1995). Going Solo: The Royal Australian Air Force, 1946–1971. Australian
Govt. Pub. Service. ISBN 978-0-644-42803-3.
·
Tarling, Nicholas
(1992). The Cambridge History of Southeast Asia: Volume 2.
Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-35506-3.
·
Weiner, Tim
(2008). Legacy of Ashes: The History of the CIA. Random House
Digital. ISBN 978-0-307-38900-8.
Đọc
thêm
·
Buszynski, Leszek. SEATO: The Failure of an Alliance Strategy.
Singapore: Singapore University Press, 1983.
·
Haas, Michael
(1989). The Asian Way to Peace: A Story of Regional
Cooperation. Praeger. ISBN 0-275-93216-8.
·
Dreisbach, Kai
(2004). USA und ASEAN. Amerikanische Aussenpolitik und regionale
Kooperation in Südostasien vom Vietnamkrieg bis zur Asienkrise (bằng
tiếng Đức). Wissenschaftlicher Verlag. ISBN 3-88476-656-2.
Liên
kết ngoài
·
Copy of
the Southeast Asia Collective Defense Treaty (Manila Pact); ngày 8 tháng 9 năm
1954, from Yale Law School
·
Phim ngắn này Big
Picture: Southeast Asia Treaty Organization (SEATO) Nations có
thể được tải về từ Internet
Archive
No comments:
Post a Comment