Lê Duẫn
Cách nay đúng 58 năm, Lê Duẫn được bầu làm bí thư thứ nhất của
đảng CSVN. Người đã nói lên sự thật của cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua:
“Ta đánh Tây, đánh Mỹ là đánh cho LX, TQ”
Ngày 10
tháng 09, 1960
·
1960 – Lê Duẩn được
bầu làm Bí thư
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam, ông
giữ chức lãnh đạo đảng này đến năm 1986.
Lê Duẩn
Lê Duẩn
Hình
ảnh Tổng Bí thư Lê Duẩn qua tranh thêu chữ thập
Chức vụ
Thông tin chung
Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Trung
ương Đảng Lao
động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư
của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303
ngày. Từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, ông có một ảnh hưởng chính trị rất
lớn tại Việt Nam, và theo một số nhận định khi Việt Nam thống nhất ông là nhà lãnh đạo có vị trí cao nhất tại Việt Nam
trong những năm tháng tại vị.
Ông chính là một trong những kiến trúc sư
trong cuộc chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ và đồng minh kéo dài
suốt 20 năm Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách
mạng ở miền Nam Việt Nam với tác phẩm Đề cương cách mạng miền Nam. Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào đấu tranh
chống Mỹ ở miền Nam nổ ra, dọn đường cho Quân Giải
phóng miền Nam và Quân đội
Nhân dân Việt Nam tấn công và tiếp
quản Sài Gòn vào năm 1975 kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Sau đó, ông còn tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời
kỳ xảy ra 2 cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam (chống lại Trung
Quốc và Khmer Đỏ).
Sự
nghiệp
Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng
4 năm 1907, tại
làng Bích La,
xã Triệu Đông, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng
Trị trong một gia đình nông dân, quê
gốc của ông được cho là ở làng Phương Cai, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh Cha
ông là Lê Hiệp, làm nghề mộc. Mẹ ông là Võ Thị Đạo, làm ruộng. Sau đó ông theo
gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia
dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư
Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
Trước
1945
Năm 1920 ông học hết Tiểu học. Sau đó ông lên tỉnh học Trung học
được 1 năm thì nghỉ vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Khi
còn nhỏ, có lần mẹ ông tôi nói với ông: “Đến bao giờ nhà mình mới có
một nồi khoai như nồi khoai nhà bên cạnh?”. Lê Duẩn kể ông đã khóc khi nghe
câu nói ấy. Ông thương xót mẹ bao nhiêu thì ông càng thấy căm giận chế độ thực
dân Pháp. Khi
lớn lên, chứng kiến cảnh đất nước bị thống trị bởi thực dân Pháp, Lê Duẩn đã
nuôi hy vọng phải cứu nước. Ông tâm sự: "Hồi 15 tuổi, đọc lịch sử,
tôi buồn lắm, nghĩ nhất định phải đi cứu nước".
·
Ngày 20
tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt
tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà
tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
·
Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ.
Năm 1937, làm
Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
·
Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939,
tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.
1945-1957
·
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.
·
Năm 1946, ông ra Hà Nội làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh
·
Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, rồi Bí thư
Trung ương Cục miền Nam, lãnh đạo Đảng bộ miền Nam tổ chức cuộc kháng chiến ở
Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, ông được bầu
vào Bộ Chính trị.
·
Từ năm 1954 đến năm 1957, ông ở lại miền Nam để lãnh đạo phong
trào cách mạng. Trong thời gian này, ông di chuyển liên tục tại những vùng nông
thôn hẻo lánh miền Tây, miền Trung Nam Bộ đến các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà
Lạt...
1957-1975
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, Hồ Chủ tịch đã chọn ông là
người lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, vì ông là người vừa nắm rõ đường
lối của Trung ương vừa có trình độ lý luận, hiểu chủ nghĩa Mác. Chiến trường
Nam bộ ngày ấy vừa xa xôi vừa phức tạp, để có một sự chỉ đạo thống nhất từ
Trung ương, phải cần một người am hiểu cả địa thế lẫn lòng dân. Vì vậy năm
1957, Hồ Chủ tịch đã gọi ông ra Hà Nội gấp và nhanh nhất có thể để trực tiếp
giúp điều hành công việc chung của Đảng.
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng,
chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ III của Đảng. Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Trong giai đoạn này, do sức khỏe suy giảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phải giảm dần các hoạt động chính trị, ông muốn tìm người kế tục sự nghiệp đấu
tranh cách mạng của mình. Trong một số lần tiếp xúc ngoại giao, chẳng hạn như
khi nói chuyện với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Alexey
Nikolayevich Kosygin vào năm 1963, Hồ Chí Minh nói rằng ông sẽ dần bàn giao mọi
công việc cho người kế cận là Lê Duẩn. Kể từ năm 1967, theo một số nhận định
thì ông Duẩn đã trở thành người có ảnh hưởng và vị thế cao nhất trong Bộ Chính
trị.[11]
Theo Stein Tonnesson, Lê
Duẩn là một nhà lãnh đạo xuất thân từ địa phương. Ông chưa bao giờ đi khắp thế
giới lúc còn trẻ như Hồ Chí Minh. Ông cũng chưa bao giờ sát cánh làm việc
với Hồ Chí Minh ngay từ những năm 1940 như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp hay Trường Chinh.
Quyết định của Hồ Chí Minh trao chức lãnh đạo Đảng cho Lê Duẩn
năm 1957-1960, và việc Hồ Chí Minh ủng hộ Lê Duẩn trong cuộc bầu cử năm 1960,
phải được hiểu như là một cách để đảm bảo sự đoàn kết quốc gia. Ở thời kỳ mà
đất nước Việt Nam đang bị chia đôi, và nhiều cán bộ Miền Nam đã tập kết ra Bắc,
cách hay nhất để bảo đảm Đảng Lao động Việt Nam sẽ đại diện cho tất cả
người Việt Nam ở mọi miền đất nước, là đưa một cán bộ từ Miền Nam lên lãnh đạo
toàn Đảng, đây có thể chính là động lực thúc đẩy đưa đến sự lựa chọn của Hồ Chí
Minh.[12]
Lê Duẩn là người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống
nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam. Cùng với
quân sự là ngoại giao, ông rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức
Thọ rằng: "Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút
và mình không rút".[13]
Trong thời gian chuẩn bị diễn ra tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Trung Quốc (ông
liên tục ốm nặng kể từ năm 1966, hầu như cả năm 1967 ông ở Trung Quốc chữa
bệnh). Tuy vậy, Hồ Chủ tịch vẫn quay về Việt Nam 2 lần (vào tháng 7 và tháng 12
năm 1967) để chỉ đạo và phê duyệt quyết định tiến hành cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân[14][15] Tối
ngày 23 tháng 12, Hồ Chí Minh đi máy bay về đến Hà Nội, đích thân Lê Duẩn
cùng Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Hồ Chí Minh tại sân bay, cùng
về nhà và báo cáo công tác chuẩn bị cho Hồ Chí Minh.
Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay
bên nhà sàn của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh cùng Lê Duẩn và các thành viên khác
của Bộ Chính trị đã thống nhất lần cuối kế hoạch tổng công kích, tổng khởi
nghĩa Tết Mậu Thân[16].
Năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời. Lê Duẩn là người đọc điếu
văn tang lễ, ông đã nấc nghẹn nhiều lần khi đọc lời truy điệu “…Hồ Chủ
tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau
thương này thật là vô hạn! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã
sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng
rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta…”. Đây là lần duy nhất
người ta thấy ông khóc trong các bộ phim tài liệu.
Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có nhiều lần từ chiến trường được
ra Bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện gặp anh
nhiều hơn. Không phải ở anh cái gì tôi cũng tán thành 100%, nhưng có hai điểm
thì tôi luôn luôn nhất trí:
Một là, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày
đêm anh đau đáu suy nghĩ việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản “Đề cương cách
mạng miền Nam” ra Bắc. Đó là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Nghị
quyết 15, tạo nên bước nhảy vọt cho cách mạng miền Nam.
Năm 1972, quốc tế diễn ra nhiều sự kiện gây khó khăn lớn đối với
cách mạng Việt Nam. Một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị - Bộ chỉ huy
tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Rồi
tiến tới quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, tiến tới giải
phóng trước tháng 5/1975 khi thời cơ đã tới. Đây là một quyết định sáng suốt.
Tôi cho rằng, quyết định này xuất phát từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng...
Đến tháng 11/1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng cách mạng của
Quân khu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, làm phá sản chiến lược
bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn gọi ra Bắc
báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng: “Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ
để thực hiện ý đồ “Quốc gia dân tộc”; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và
mâu thuẫn nhau nên chưa thực hiện được. Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ, từ quân chủ
lực tới quân địa phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự… đông, đồ sộ nhưng
không mạnh”. Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: “Quyết không để cho quân
ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh
càng tốt...
Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ
rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì
chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta tổng tiến công và nổi dậy đánh trận
quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ là sức
mạnh. Đây là một tư duy sáng suốt.
1975-1986
Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976)
và lần thứ V (3/1982),
ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức
Tổng Bí thư đến khi mất. Tại Đại hội V, do sức khỏe Lê Duẩn yếu, Ban Chấp hành
Trung ương giao một số nhiệm vụ của ông cho Trường Chinh. Ông cũng đảm nhiệm
chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Căng thẳng với Trung Quốc
Lê Duẩn vào năm 1978
Ngay sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng
Sa vào năm 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu gây khó
khăn cho Hoa kiều khi muốn thăm thân nhân ở Trung Quốc,
và cũng không cho nhiều người Trung Quốc sang miền Bắc thăm người thân.[18]
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã tuyên bố chủ
quyền đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 9 năm 1975, Tổng Bí
thư Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa trong chuyến thăm Trung Quốc. Phản ứng không
nhượng bộ của Trung Quốc làm ông khó chịu.[18] Ngày 15 tháng 3 năm 1979,
Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố "Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt
-Trung", trong đó lên án việc Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố
Sách trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa.[19] Việc
này đã khiến Trung Quốc bất bình và bắt đầu một thời kỳ quan hệ căng thẳng giữa
hai nước Việt Nam - Trung Quốc.[20]
Vấn đề Hoa kiều
Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, khoảng 4% dân số Việt
Nam là người gốc Hoa, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa
kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có
khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc.[21] Ở
miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và
đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến
cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công
nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc
quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa
kiều gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường miền Nam Việt Nam.[22]
Vấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo quốc kỳ Trung Quốc và
ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn,[23] Với
nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng uy thế kinh tế của Hoa kiều để ép
Việt Nam theo các chính sách của mình, vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam
xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn
giản.[23] Năm
1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ
lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục
tiêu của Trung Quốc.[23]
Năm 1978, người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc
tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ
đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài và coi người Hoa kiều là
một tổ chức bí mật hoạt động ở Việt Nam và sẵn sàng tiếp tay với Trung Quốc để
phá hoại.[21] Để
chấm dứt tình trạng này, Lê Duẩn đưa ra biện pháp cứng rắn là quốc hữu hóa tài
sản của người Hoa. Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp
lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều
bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Đến năm 1982, người Hoa ở
Việt Nam đã lũ lượt rời bỏ Việt Nam vượt biên qua đường biển, đường bộ để đến
nước thứ ba[21]
Đến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu
năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn kiểm soát nền kinh tế Việt
Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ đã mất đi phần
lớn. Việt Nam là một ngoại lệ hiếm hoi so với những nước Đông Nam Á khác: người gốc Hoa đã gần như
bị đồng
hóa bởi người Việt Nam. Mặc dù đám đông người Việt có thể phản
đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù
gia đình thương gia gốc Hoa[21].
Chiến tranh biên giới
Trong thời gian ông nắm quyền cao nhất Việt Nam từ năm 1975 đã
xảy ra hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới
Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc.
1/ Chiến tranh biên giới Tây Nam: nhằm phản
công lại các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt
Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm
1975-1978, Việt Nam tiến hành một loạt các chiến dịch quân sự tấn công vào
Campuchia. Kết quả là chế độ Khmer Đỏ bị đánh đổ, một Hội đồng cách mạng được
thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch, dưới sự hỗ trợ của quân
đội Việt Nam đã tiếp quản Campuchia.
2/ Chiến tranh biên giới Việt - Trung năm
1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, nổ ra vào ngày 17
tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước.[24]. Mục
tiêu của Trung Quốc khi phát động cuộc chiến là buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia (để
Khmer Đỏ có thể quay lại nắm quyền). Sau 3 tuần tấn công, quân Trung Quốc bị
thiệt hại nhiều và rút quân, trong khi không đạt mục đích là buộc Việt Nam phải
rút quân khỏi Campuchia.
Ông đã lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn này, thành
công trong việc tiêu diệt chế độ Khmer
Đỏ ở Campuchia và ngăn chặn được quân Trung Quốc ở phía Bắc.
Khó khăn kinh tế
Tuy nhiên bên cạnh những thành công về quốc phòng, Ban Chấp hành
TW do ông đứng đầu đã phải đối mặt với những khó khăn lớn về kinh tế, và hậu
quả của các cuộc chiến tranh khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, Việt Nam bị cô
lập trong suốt giai đoạn 1976-1986. Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu
sau chiến tranh khi Lê Duẩn nắm quyền:
Trần Văn Thọ
đang biểu diễn piano trong lễ đón xuân năm 2008 của người Việt Nam tại Tokyo
"Mười năm sau 1975
là một trong những giai đoạn tối tăm nhất (về kinh tế) trong lịch sử Việt Nam.
Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở
nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người
phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm
liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn
không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất
đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sông của người dân vô cùng khốn
khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế
bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính
sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp
dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo
dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá
rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả
lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi
mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm
trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong
thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1%
(mỗi năm)"[25]
Sau 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học
tại Việt Nam là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới. Mỹ và các nước thân
Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
thì mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn đến sụp đổ. Khối SEV, nguồn
viện trợ duy nhất của Việt Nam đã cạn dần rồi mất hẳn. Lê Duẩn đã cố gắng chèo
chống để nước nhà không bị sụp đổ, tuy có gian nan vất vả nhưng vẫn trụ vững.
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, ông từng muốn duy trì kinh tế thị trường tại miền Nam và kinh tế bao cấp tại
miền Bắc để đánh giá ưu khuyết điểm, từ đó chọn con đường tốt nhất. Ông cũng cử
ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sang Mỹ để đàm phán bình
thường hóa quan hệ.
Nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó khiến Lê Duẩn không dễ thực hiện
mục đích của mình. Chính phủ Mỹ từ chối bình thường hóa quan hệ với Việt Nam,
trong khi những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin vào hiệu quả của hệ
thống xã hội chủ nghĩa mô hình Xô viết bởi khi đó Liên Xô vẫn đang rất hùng
mạnh. Khi Nam Tư đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, họ đã bị khai trừ ra
khỏi hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa. Do đó, những ý tưởng của Lê Duẩn là
trái với lý tưởng của nhiều người trong tập thể ban lãnh đạo. Cho nên, Lê Duẩn
không thể dễ dàng bày tỏ quan điểm của mình và thuyết phục những lãnh đạo khác
nhất trí với quan điểm đó. Nếu cứ cố làm thì sẽ gây chia rẽ trong nội bộ Đảng,
mà cần phải làm từ từ để dần thuyết phục những người khác. Cho tới nay, nhiều
người vẫn phê phán Lê Duẩn vì việc duy trì nền kinh tế bao cấp quá lâu, nhưng
bối cảnh lịch sử lúc đó đã khiến ông không thể làm khác đi được.
Tại Đại hội lần thứ năm của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
3/1982), Báo cáo chính trị của Lê Duẩn đã phê bình hai loại nhận thức: Một
là “chủ quan nóng vội” (đề ra một số chỉ tiêu quá cao về quy
mô, tốc độ phát triển sản xuất ở một số địa phương); Hai là “bảo thủ, trì trệ”,
duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các
chính sách chế độ. Đại hội đã quyết định “Đổi mới chế độ quản lý và kế
hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc
phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ… Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa
coi trọng giá trị và quy luật giá trị”. Như vậy, ngay từ Đại hội 5, Ban
Chấp hành Trung ương và Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế
quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Đại hội Đảng lần 6 (năm 1986)
là bắt đầu của công cuộc Đổi Mới, nhưng ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội
5 với bài phát biểu của Lê Duẩn.[17]
Gia
đình
Ông có hai người vợ:
1/ Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 -
6 tháng 8 năm 2008)[26] kết hôn năm 1929 ở
quê. Có bốn người con:
·
Lê Hãn (sinh
1929), tên thường dùng là Lê Thạch Hãn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam,
nguyên Cục trưởng Cục Quản lý các nhà trường Quân đội, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nghỉ hưu; Ông Lê Hãn cưới bà Nguyễn Khánh Nam
(con gái đầu lòng của ông Nguyễn Khánh Mỹ, Vụ trưởng Vụ khu vực I, phụ trách
các nước XHCN, Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ - NV) và có ba người con: Lê Khánh Hải
hiện là Thứ trưởng thường trực bộ VHTT và Du lịch, Lê Khánh Hưng và Lê Ngọc Hiếu.
·
Lê Thị Cừ có chồng là Lê Bá Tôn (Cán bộ lãnh đạo của Bộ Công
nghiệp nặng).
·
Lê Thị Muội (1942-2008), Phó Giáo sư, Tiến sĩ sinh vật học.
2/ Bà Nguyễn Thụy Nga (tên thường gọi Nguyễn
Thị Vân hoặc Bảy Vân),[27] kết
hôn năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm
Hùng làm chủ hôn.
Sau 1975, bà Nga làm Phó ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy An Giang, Phó Tổng Biên tập Phụ trách Hành chính trị sự của Báo Sài Gòn Giải
phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hai người có ba người con:
·
Lê Vũ Anh (1950-1981), kết hôn với giáo sư toán học Viktor
Maslov người Nga ở Moskva, mất
năm 1981 do băng huyết khi sinh đứa con thứ ba (là con trai); cả ba người con của
bà sau này đều lớn lên và ăn học ở Nga, nhưng hiện tại cô con gái lớn Lena sống
với gia đình ở Hà Lan, còn Tania và Anton đang sống ở Anh.[28]
·
Lê Kiên Thành (sinh
1955), học kỹ sư hàng không tại Liên Xô, sau đó là Phó Tiến sĩ vật lý. Khi về
nước chuyển ngành sang kinh doanh, đã từng là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Kỹ thương
Techcombank, hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển đô thị;
Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chế biến Thực phẩm Thái Minh; chủ một sân golf và là
Phó Chủ tịch thường trực Hội Golf Việt Nam. Ông còn là thành viên Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh.
·
Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục
Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh (từ tháng 12 năm 2007). Hiện là Thiếu tướng, Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh II -
Bộ Công an (2011).
Tư
tưởng
Dân tộc
độc lập
Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là
Tổng Bí thư, Lê Duẩn đã để lại nhiều di sản với lịch sử Việt Nam. Ông có công
lao trong sự nghiệp giải phóng và thống nhất dân tộc cũng như ý chí kiên cường,
tinh thần cảnh giác trong việc chống lại chủ nghĩa bành trướng Trung
Quốc. Theo một số nhận định, Lê Duẩn luôn có tự tin khi đứng trước
những nhà lãnh đạo Trung Quốc, ông từng nói:
"Chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là
chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không
được sợ Liên Xô".
Cả Bộ Chính trị vỗ tay hoan hô ý kiến đó, tuy nhiên những văn
bản họp Bộ Chính trị khi đó hầu như chưa được công bố, khiến những câu chuyện
về tinh thần dân tộc của Lê Duẩn không thực sự được biết rộng rãi trong dân
chúng[29]
Khi còn sống, theo một số nhận định, Lê Duẩn lúc nào cũng cho
rằng hiểu Trung Quốc là chuyện sống còn của dân tộc Việt Nam. Trong suốt chiến
tranh chống Mỹ, rất nhiều lần Trung Quốc muốn dùng những khoản viện trợ để lồng
ghép vào đó những toan tính riêng của họ, nhưng Lê Duẩn không nhận bất cứ một
khoản viện trợ nào mà ông cho là có nguy cơ đối với nền độc lập của Việt Nam.
Một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt Nam với Trung Quốc đã từng nhận xét về ông:
"Với Tổng Bí thư Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông tuyệt đối không
bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh quốc gia". Vì
tư tưởng này, Lê Duẩn đã trở thành lãnh đạo Việt Nam làm Trung Quốc "gai
mắt" trong giai đoạn ấy.
Trong cuốn "Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt
Nam và Thế giới ngoài châu Á", do Priscilla Roberts biên
tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản năm 2006, có nói
về việc Lê Duẩn từ chối nhận viện trợ quân sự của Trung Quốc để Viêt Nam tránh
khỏi sự lệ thuộc vào nước này:
"Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta (Việt Nam) tiếp nhận
hai vạn quân, đến để làm đường từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào
Nam. Tôi (Lê Duẩn) từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi
ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây
áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để
các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu
của họ xấu xa tới chừng nào."[30]
|
Trong lần gặp đầu tiên trong năm 1963 ở Vũ Hán, nơi
mà Mao Trạch Đông đã tiếp một phái đoàn của Đảng lao Động Việt Nam. Trong buổi
họp đó, Lê Duẩn nói là đã hiểu ý định thật sự của Mao Trạch Đông là muốn khống
chế Việt Nam và đã cảnh cáo ông ta là Việt Nam có thể đánh bại các lực lượng
Trung Quốc dễ dàng. Mao Trạch Đông đã cố tình hỏi Lê Duẩn: “Đồng chí,
có đúng là dân tộc ông đã chiến đấu và đánh bại quân
Nguyên?” Lê Duẩn nói: “Đúng như vậy”. Mao Trạch Đông
hỏi tiếp: “Lại một lần nữa, có đúng không, đồng chí, là các ông đã đánh
bại quân nhà Thanh?” Lê
Duẩn trả lời: “Đúng như vậy.” Mao Trạch Đông lại hỏi: “Và
cả quân nhà Minh nữa?” Tới
lúc đó, Lê Duẩn nói thẳng thừng: “Đúng, và luôn cả quân đội của ông
nữa, nếu các ông tìm cách xâm lược đất nước tôi"[12].
Chu Ân Lai (giản thể: 周恩来; phồn thể: 周恩來; bính âm: Zhōu Ēnlái; Wade-Giles: Chou En-lai) (5 tháng 3 năm 1898 – 8 tháng 1 năm 1976),
“Đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích,
nhưng tôi sẽ không nghe theo. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt
Nam. Việt Nam là của chúng tôi; không phải là của đồng chí.”
Dù bị trả lời hằn học, nhưng trong bản tường trình cuộc họp của
Chu Ân Lai đã nhắc đến lòng ái quốc cương trực của Lê Duẩn.[12]
Theo Stein Tonnesson thuộc
Viện Đại Học Olso, phát
biểu tại buổi Hội Thảo Quốc tế, Hồng Kông, ngày 12 tháng 1 năm 2000:
"Tập tài liệu năm 1979 của Lê Duẩn cho thấy rằng ông ta
đã pha trộn một niềm
tự hào dân tộc cao độ với tư tưởng
là người Việt Nam, một dân tộc chuyên đấu tranh, đang đóng vai trò tiên phong
của cuộc đấu tranh cách mạng thế giới.
Tập tài liệu không cho thấy Lê Duẩn có niềm hâm mộ hay kính phục một dân tộc
nào khác ngoài dân tộc Việt Nam, mà chỉ thuần một tư tưởng cho những cuộc
tranh đấu cho quốc gia độc lập, cho tất cả mọi dân tộc, dù lớn hay nhỏ. Niềm
tự hào của Lê Duẩn lộ rõ trong đoạn văn đầu tiên, khi ông ta nói rằng sau khi
“chúng ta” (tức Việt Nam) đánh bại người Mỹ, không một đế quốc quyền lực nào
dám đánh “chúng ta” nữa. Chỉ có vài tên phản động Trung Quốc “nghĩ là chúng
có thể"[12]
|
Con trai Lê Duẩn kể lại:
"Như cha tôi lúc còn
sống luôn nói rằng, khi người ta đã yêu đất nước đến vô cùng, đến mức trái tim
chỉ có thể đập vì nó, thì họ sẽ luôn tìm được con đường đúng nhất. Một lần, khi
ghé thăm cửa khẩu Hữu Nghị, nơi được coi là biểu tượng hàn gắn của mối quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc sau giai đoạn chiến tranh, tôi đã thấy ở nơi trưng bày những
kỷ vật về mối quan hệ hai nước, có tất cả những tấm ảnh lãnh đạo Việt Nam qua
nhiều thế hệ, trừ cha mình. Trong sâu thẳm, tôi tự hào về điều đó: Cha tôi, Tổng
Bí thư Lê Duẩn là người quyết bảo vệ đến cùng từng tấc đất ở đây. Trái tim ông
đã xui khiến ông hành động như thế."[31]
Về văn
hóa
Lê Duẩn đọc rất nhiều và luôn suy nghĩ. Ông đọc vào mọi dịp, đọc
trong nhà tù, đọc khi đi nghỉ ở nước ngoài, đến lúc tuổi cao sức yếu vẫn say mê
đọc. Trong điều kiện những năm 1980 trở về trước, ít người tham khảo Bách khoa toàn thư Pháp hay Kinh
Coran của đạo Hồi để làm công tác như Lê Duẩn. Theo ông "để
làm việc với các tín đồ đạo giáo, cần hiểu đúng tôn giáo của họ". Đến
thăm học viên là cán bộ trung, cao cấp đang nghiên cứu Lịch sử Đảng, trao đổi
với anh em ở hành lang, Lê Duẩn nói: "Theo tôi, bài học lớn nhất
của Đảng ta là phải độc lập suy nghĩ, giải quyết các vấn đề của cách mạng Việt
Nam trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thực tế của Việt Nam"
Những năm 1960, Lê Duẩn phát biểu: "Để hiểu việc,
con người dùng lý lẽ, lý trí, nhưng khi hành động phải có tình cảm… Cách mạng
tư tưởng và văn hóa gắn tình cảm với lý trí. Nói nghệ thuật là nói quy luật
riêng của tình cảm. Nghệ thuật vận dụng quy luật của tình cảm". Đầu
những năm 1980, Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức Hội nghị tập huấn tổng biên
tập các báo địa phương, ông nói: "Làm báo là làm công tác khoa
học, đồng thời là làm nghệ thuật".[32]
Làm chủ
tập thể
Tư tưởng "làm chủ tập thể trên lập trường giai cấp vô
sản" lần đầu được Lê Duẩn đưa ra vào tháng 6 năm 1965, và nhiều bài phát
biểu về sau, ông phân tích:
"Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, động lực đó là lợi
nhuận. Lợi nhuận là động lực của cách mạng kỹ thuật, của các cuộc xâm chiếm
thuộc địa, mở rộng thị trường, của việc mở rộng nền sản xuất lớn, v.v.. Lợi
nhuận là nhân tố kích thích mạnh mẽ nhất sự phát triển lực lượng sản xuất trong
xã hội tư bản chủ nghĩa, là cái mà hằng giờ hằng phút bọn tư bản suy nghĩ
đến". Còn trong chế độ xã hội chủ nghĩa "Tất cả những người lao động
đều phải lấy việc sản xuất của cải vật chất nhiều hay ít làm thước đo sự cống
hiến của mình vào nền sản xuất xã hội; vì vậy, chúng ta phải thực hiện nguyên
tắc phân
phối theo lao động. Nguyên tắc đó là một động lực thúc đẩy
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhưng nhân tố thường xuyên, mạnh mẽ thúc đẩy
tính tích cực sản xuất của quần chúng công nông là ý thức giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, tinh thần làm chủ tập thể của họ". "Xây dựng tư tưởng tập thể
xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chống chủ nghĩa cá nhân, và chống chủ nghĩa cá
nhân là để xây dựng tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa".[33]
"Xây dựng chế độ làm chủ tập thể là xây dựng nước ta
thành một xã hội trong đó người chủ chân chính, tối cao là cộng đồng xã hội, là
tập thể nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông. Nội
dung của làm chủ tập thể là làm chủ toàn diện, là làm chủ về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; là làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân;
là làm chủ trong cả nước, trong từng địa phương và từng cơ sở; là trên cơ sở
làm chủ đầy đủ của tập thể, của cộng đồng xã hội mà bảo đảm tự do cũng đầy đủ
cho mỗi người; và ngược lại "sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".[34] Phải
phát động quần chúng, phải tuyên truyền giáo dục, làm cho mọi công dân Việt Nam
từ em bé đến cụ già, nhất là tầng lớp thanh niên hiểu rằng họ là người chủ của
nước Việt Nam, rằng tất cả của cải, tài nguyên của đất nước này đều thuộc về
tập thể nhân dân, thuộc về những thế hệ hôm nay và cả những thế hệ ngày mai. Họ
phải làm tròn nghĩa vụ của người làm chủ đất nước, đồng thời họ có đầy đủ những
quyền của người làm chủ: quyền làm việc, học hành, vui chơi, quyền phát biểu ý
kiến về bất cứ vấn đề gì của Nhà nước nhằm mưu cầu sự giàu có cho đất nước và
hạnh phúc cho đồng bào; không ai được áp bức, ép buộc họ.[35]
"Chế độ làm chủ tập thể hơn hẳn mọi nền dân chủ trong
lịch sử. Nó không phải là dân chủ của một số ít người, cũng không phải là dân
chủ cho từng cá nhân riêng lẻ. Nó thể hiện vai trò làm chủ tập thể của cả cộng
đồng xã hội của từng tổ chức và của từng người trong cộng đồng. Kết hợp chặt
chẽ lợi ích của toàn xã hội với lợi ích của tập thể và lợi ích của mỗi người,
nó bảo đảm cho cả cộng đồng xã hội cũng như từng tổ chức trong cộng đồng phát
triển một cách tốt nhất, đồng thời bảo đảm tự do đầy đủ nhất cho mỗi thành viên
của xã hội...Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa có hai mặt: toàn xã hội làm chủ
tập thể và từng người một làm chủ tập thể. Cả xã hội làm chủ và từng người một
làm chủ, làm chủ tập thể và cá nhân có đầy đủ tự do, hai cái đó thống nhất với
nhau, không hề có mâu thuẫn...Làm chủ tập thể là làm chủ cả về chính trị, kinh
tế, văn hoá...Làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân".[36]
"Trong chế độ làm chủ tập thể, mọi người lao động không
thụ động tiếp nhận và hưởng thụ các quyền dân chủ từ một quyền lực bên ngoài
mang đến, mà tự giác và chủ động đóng vai người làm chủ thật sự về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân lao động tự mình thực hiện quyền làm chủ tập
thể của mình bằng một cơ cấu tổ chức hợp lý, bằng một chế độ sản xuất và phân
phối hợp lý, bằng những phong trào cách mạng liên tục, sôi nổi của hàng chục
triệu người. Chế độ làm chủ tập thể thực hiện trong cả nước, trong từng địa
phương, từng cơ sở, gắn chặt làm một lợi ích của cá nhân với lợi ích của tập
thể và của toàn xã hội. Đối với mỗi con người, chế độ làm chủ tập thể bảo đảm
sự phát triển toàn diện nhất, những quyền lợi đầy đủ nhất đi đôi với những
nghĩa vụ cao cả mà mọi người phải làm trọn.[37]
"Chỉ có chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mới giải
quyết đúng mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Ở đây, vừa thiết lập sự làm chủ
tập thể của cả cộng đồng xã hội Việt Nam, vừa phát huy cao độ quyền tự do chân
chính của cá nhân, khơi dậy mọi năng lực sáng tạo của cá nhân, thống nhất hài
hoà cá nhân với xã hội.[38] Thiết
lập chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động là mục đích
của chủ nghĩa xã hội, đồng thời đó là một động lực quan trọng của công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Làm chủ tập thể xã hội là một quá trình phát triển
từ thấp đến cao, trước hết là làm chủ về chính trị tiến lên làm chủ về kinh tế,
văn hóa, xã hội, trong đó làm chủ về kinh tế là quan trọng nhất.[39]
Lê Duẩn cũng giải thích thêm: "Chủ nghĩa xã hội
không xóa bỏ tất cả những cái riêng của mọi người, nhưng mỗi người phải tham
gia vào cái chung, phải phục vụ cái chung, vì cái chung... Chủ nghĩa xã hội
không bao giờ chủ trương xóa bỏ quyền lợi cá nhân, mà chỉ làm sao cho quyền lợi
cá nhân và quyền lợi tập thể nhất trí với nhau. Ta khuyến khích mỗi người cố
gắng tiến lên để đời sống chung và riêng được khá hơn... Hơn nữa, hiện nay về
mặt kinh tế, phần cá thể vẫn còn là một nguồn sống của mỗi con người chúng
ta". Trong khi coi trọng cái riêng, quyền lợi cá nhân, ông cũng phê
phán tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cục bộ.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ tám BCHTW khóa IV ông
cho là chế độ làm chủ tập thể do các nhà kinh điển nêu ra, nhưng tại Hội nghị
lần thứ tám TW khóa V, ông nói Mác, Lênin chưa nói đến, nhưng Việt Nam đang làm
trong thực tế. Có thể xem tư tưởng làm chủ tập thể là một nỗ lực của Lê Duẩn
tạo ra quan hệ sản xuất mới để thay thế cho quan hệ sản xuất cũ đã bị nhà nước
Việt Nam xóa bỏ. Tuy nhiên nhiều người chưa thật sự hiểu tư tưởng của ông và
việc áp dụng tư tưởng này vào thực tế không thành công như ông mong đợi. Nếu
xem chủ nghĩa cộng sản là một hình thái xã hội cho phép mọi thành viên của xã
hội tham gia vào quá trình quyết định trong cả hai lĩnh vực chính trị và kinh
tế thì tư tưởng làm chủ tập thể của Lê Duẩn chính là nỗ lực tạo ra một xã hội
như vậy. Tuy nhiên trình độ dân trí, trình độ tổ chức xã hội, trình độ sản xuất
của Việt Nam chưa thích hợp để hiện thực hóa tư tưởng này. Sau Đổi mới, đường
lối làm chủ tập thể không còn được nhắc đến trong các văn kiện của Đảng và Nhà
nước.
Phát
ngôn
“
|
Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho
các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang
đâm vào lưng ta.
|
”
|
“
|
Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng
là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và
không được sợ Liên Xô[42]
|
”
|
“
|
"Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng
ta có chính nghĩa. Anh lớn, ta cũng không sợ. Bạn bè, ta cũng không sợ. Kẻ thù
không sợ, đã đánh rồi. Mình là con người; mình chẳng sợ ai cả. Mình độc lập.
Cả thế giới biết chúng ta độc lập"[12]
|
”
|
Lê Duẩn không quý mến người Trung Quốc,
nhưng ông phân biệt rõ một bên là “dân tộc Trung Quốc”, một bên là những người
Trung Quốc phản động. Ông không đổ lỗi cho cả dân tộc Trung Quốc vì những chính
sách gây hấn của những người lãnh đạo của họ:
“
|
"Chúng ta chỉ muốn nói đến họ là một tập đoàn (clique).
Chúng ta không nói đến tổ quốc của họ. Chúng ta không nói người Trung Quốc xấu
với chúng ta. Chúng ta nói đó là tập đoàn phản động Bắc Kinh"[12]
|
”
|
Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc
xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất
cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính
riêng của họ. Có người trong Bộ Chính trị đề nghị "sao không nhận một vài
chiếc cho người ta vui?", nhưng ông trả lời:
“
|
Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ
trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này[29]
|
”
|
“
|
”
|
Lúc sinh thời, nhân dịp Tết 1976, Lê Duẩn từng
tuyên bố rằng:
“
|
Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một
radio, một TV và một tủ lạnh
|
”
|
Nhắc đến mẹ mình, ông nói:
“
|
"Tôi thương mẹ tôi, vì vậy bây giờ ở Hà Nội ngày nào
tôi cũng ăn thêm vài củ khoai lang để nhớ mẹ tôi…"[45]
|
”
|
Năm 1976, khi về thăm quê ở làng Hậu Kiên,
xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, khi thấy người dân đang luộc
khoai mì đón Tết ông nói:
“
|
"Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn.
Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ,
nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu
lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng,
một cốc sữa mà rất khó."[45]
|
”
|
Năm 1976, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố:
“
|
"Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính
trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô
sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp
lý luận Mác - Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là
khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng
với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó
là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể,
xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho
phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên
chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống
lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính."
|
”
|
(Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng
Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37- 1976, trang 403-404)
Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc,
Tổng Bí thư Lê Duẩn nói:
“
|
"Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý
nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách
sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể."
|
”
|
("Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp
ngày 13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc", Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn,
lưu trữ tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh)
“
|
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường
lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân
lý.
|
”
|
Đánh
giá
Tại Việt
Nam
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong
nước đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Cừ,
Nguyễn Văn
Cừ (9 tháng 7 năm 1912 - 28 tháng 8 năm 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng
Cộng sản Đông Dương từ
năm 1938 đến năm 1940
ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ
sáu của Ban Chấp hành Trung ương (11-1939) - chuyển hướng đấu tranh cách mạng;
chỉ đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là "Xứ ủy Nam Bộ
dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất "người nông
dân có ruộng cày" không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo
lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện pháp đúng
đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy",[46] đặc
biệt vai trò lớn của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Chính ông
là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam' (sau được thể hiện đầy đủ
trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959). Theo ông Võ Văn Kiệt: "Đề cương Cách mạng miền
Nam" được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài
Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1 Sài Gòn, nay là Tp. HCM."[47] Ý
kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn chiến lược,
có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong
cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.[48]
Giáo sư Kinh tế Đặng
Phong nhận xét về Lê Duẩn: "Thí dụ khi nói về ông Lê
Duẩn và các chủ trương làm chủ tập thể, xây dựng cấp huyện... thì rõ ràng đó là
các sai lầm gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế. Nhưng tôi vẫn kính trọng ông
Duẩn là một nhà tư duy lớn, còn những gì sai thì sau đó phải sửa, có gì là xúc
phạm đâu?"[49]
Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư Trần Phương,
nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: "Năm 1985, anh là người ghi vào Nghị
quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần". Đó là
những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới... Tầm nhìn xa của
anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều
người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm
điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không".
Theo GS Tương Lai: "Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy
của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực
trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể
không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công
thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc
của tư tưởng giáo điều "tả" khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để
vượt ra khỏi những áp đặt".[50]
Giáo sư Trần Phương có thuật lại: "Tôi nhớ có lần, vào
một buổi sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào
"quẳng" xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: "Các anh đọc
đi!". Rồi anh nhếch mép cười, đi ra... Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên
trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim
Ngọc và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh:
"Tại sao Anh không công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài
báo...". Anh nói: "Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong
Đảng...". Ông Trần Phương cũng cho rằng: "Ai đó đã nói
rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim
Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú.".[51] Theo
những người trợ lý thân cận nhất của Lê Duẩn kể lại thì thái độ của ông đối với
khoán ở Vĩnh Phúc (1966-1968) khác với nhiều người lúc đó. Nhưng ông chưa kịp
can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ, mà đã có lệnh rồi thì không thể đảo ngược
lại được. Ông Đậu Ngọc Xuân là trợ lý của ông kể lại: "Khi khoán
Vĩnh Phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng
tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về việc những sáng kiến quá mới như
thế thường không dễ đi ngay vào cuộc sống"...[52]
Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: "Cầm
quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào?
Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi
vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi
nóng với Chính phủ: "Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước
lã cho dân thì nên từ chức đi...". Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất
thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo.
Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều
gặp khó khăn".[51]
Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng; là
một nhà chính trị Việt Nam
"Tôi nhớ khi đó Bộ Chính trị phân công từng đồng
chí nghe riêng từng báo cáo, sau đó lại nghe chung. Riêng anh Ba (Lê Duẩn) nghe
rất kỹ, không chỉ một lần. Cuối cùng, Bộ Chính trị chính thức họp và thống nhất
cao với kết luận của anh Ba và sau đó đã điều chỉnh chủ trương sát hơn với thực
tế chiến trường: Kiên quyết đánh trả sự lấn chiếm của địch. Nhờ đó, cục diện
chiến trường thay đổi, ta giữ được thế chủ động, tiến công. Có thể nói, sự chỉ
đạo của anh Ba sau Hiệp định Paris thêm một minh chứng nữa
cho sự nhạy cảm tuyệt vời của anh và chỉ có thể là người từng lăn lộn ở chiến
trường mới có được sự nhạy cảm đó."[53]
"Với tôi, những
năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là
nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì
tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm.
Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ
sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm
luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: "Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục
làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo".[54]
Con trai Lê Duẩn là Thiếu tướng Lê Kiên Trung, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an, đã nói:
Tôi nghĩ ba tôi là nhà
lãnh đạo đất nước trong một giai đoạn lịch sử phức tạp và cam go của đất nước.
Với nhiều ý kiến xung đột lẫn nhau. Thế nên, như tôi đã nói ban đầu, việc chấp
nhận ông hay một bộ phận không chấp nhận quan điểm của ông, ủng hộ ông hay
không ủng hộ ông cũng là điều tất yếu. Ba tôi không chịu nói, chịu kể về mình
giống như một số người khác.
Có những người có cả chục
cuốn hồi ký, nhưng ông thì khác, ông không hề viết một cuốn sách nào kể về
mình. Ông không bao giờ chịu giải thích để người ta hiểu hơn về những việc ông
làm. Vì thế đến giờ, nhiều người chưa thực sự hiểu ba tôi như ông vốn có... Tôi
vẫn nghĩ ba tôi là người thiệt thòi. Tất nhiên làm cách mạng thì phải chịu thiệt
thòi.
Chúng ta ghi nhớ công ơn của
các liệt sĩ, của các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hi sinh hạnh phúc riêng của
mình vì đất nước. Nhưng ba tôi, người lãnh đạo có vai trò rất quan trọng, ảnh
hưởng rất lớn đến sự thành công của cuộc chiến ấy, đã ít được nhắc đến suốt một
thời gian. Đó là điều mà lịch sử đã không công bằng với ông. Song tôi tin điều
đó đang và sẽ được nhìn nhận công bằng hơn.
Với Tổng bí thư Lê Duẩn, cái gì nhịn được thì nhịn, nhưng ông
tuyệt đối không bao giờ nhượng bộ những điều quá đáng, nguy hại cho an ninh
quốc gia".[29]
|
Từ bên
ngoài
Pierre Asselin từng
nhận xét về Lê Duẩn là người đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không
chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng.[55]
David Elliott, trong quyển sách The Vietnamese War (2003), phê
bình chính sách kinh tế của những người cộng sản trong giai đoạn 1976-1986, mà
đứng đầu là Lê Duẩn, ông cho rằng "họ thường là những người cứng rắn,
giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào
cũng là những người đủ khả năng đưa Việt Nam đi tiếp trên đường phát triển."[56]
“Niềm kiêu hãnh của Lê Duẩn nằm trong luân lý
đạo đức tự nhiên, và điểm phân loại căn bản trong luân lý trời đất của ông ta
là giữa niềm sợ hãi và lòng can đảm. Ông ta có vẻ như khinh bỉ những người
không “dám” chiến đấu. Nếu không có người Việt Nam, Lê Duẩn tuyên bố, sẽ chẳng
có ai dám đánh nhau với người Mỹ cả, vì trong lúc người Việt Nam đánh nhau với
người Mỹ, cả thế giới lại “sợ” người Mỹ. Ông ta cũng chỉ rõ những người sợ là
ai. Người đầu tiên sợ người Mỹ là Mao Trạch Đông - Lê Duẩn tuyên bố. Lê Duẩn đã
hiểu điều khác biệt căn bản giữa người Trung Quốc và người Việt Nam: “Chúng ta
khác họ (Trung Quốc) hoàn toàn. Trong mỗi người Việt Nam có một tinh thần hào
hùng, và vì vậy chúng ta không bao giờ có thế thủ. Mọi người đều quyết chiến.
Phương diện cuối cùng về thái độ của Lê Duẩn được chỉ ra là sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế của ông ta. Điều này có vẻ như kỳ lạ trong quan điểm hầu như hạn hẹp của ông ta chỉ về chủ tính tổ quốc, nhưng ông ta hiểu, Việt Nam là nước tiên phong trên toàn thế giới tranh đấu cho sự nghiệp giải phóng tổ quốc."
Phương diện cuối cùng về thái độ của Lê Duẩn được chỉ ra là sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế của ông ta. Điều này có vẻ như kỳ lạ trong quan điểm hầu như hạn hẹp của ông ta chỉ về chủ tính tổ quốc, nhưng ông ta hiểu, Việt Nam là nước tiên phong trên toàn thế giới tranh đấu cho sự nghiệp giải phóng tổ quốc."
Khi ông mất, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc khi đó đã có bức điện
chia buồn "... Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò
hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam...". (Điện của Tổng Thư
ký liên hiệp quốc Javier Pérez de Cuéllar.[57])
Đường
Lê Duẩn
Tượng Lê Duẫn tại Ngã ba Đông Hà
Tên của ông được đặt cho các tuyến đường ở Hà Nội (nối Điện Biên
Phủ với Giải Phóng), thành phố Hồ Chí Minh (từ Thảo Cầm Viên đến Dinh Độc lập),
Đồng Hới (nối Thành cổ với Quách Xuân Kỳ), Huế (nối Lý Thái Tổ với Trần Hưng
Đạo), Đà Nẵng (nối cầu sông Hàn - Ngô Quyền với Điện Biên Phủ), Hải Phòng (nối
Phan Đăng Lưu với Trường Chinh), Tuy Hòa (Nối đường Nguyễn Hữu Thọ với đường
Bạch Đằng), Hà Tĩnh (Nối đường Hàm Nghi với đường Hương Khê), thành phố Pleiku
(tỉnh Gia Lai, từ ngã 3 Phù Đổng đi xã Chư Á - hướng Pleiku - Quy Nhơn), thành
phố Buôn Ma Thuột- Tỉnh Dak Lak(Từ ngã sáu đến Đài phát thanh- giáp QL 14)
No comments:
Post a Comment