MiG-25
Cách nay đúng 42 năm. Phi công Nga Viktor Belenko lái một
chiếc Mig-25 xuống Nhật, xin tỵ nạn.
Ngày 06
tháng 09, 1976
·
1976 – Phi công Viktor Belenko của Liên Xô đáp
một chiếc MiG-25 xuống Hakodate thuộc
Nhật Bản và yêu cầu được tị nạn, giúp phương Tây có thể nghiên cứu ưu nhược điểm
của loại máy bay này.
Mikoyan-Gurevich MiG-25
MiG-25
Tình trạng Hoạt động hạn chế
Số lượng sản xuất 1.190
Mikoyan-Gurevich MiG-25 (tiếng Nga: МиГ-25)
(tên ký hiệu của NATO: "Foxbat") là một máy bay
tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh, được thiết kế bởi Phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich của Liên Xô. Mẫu đầu
tiên chế tạo thử nghiệm bay vào năm 1964, sau đó
đi phục vụ vào năm 1970. Với tốc độ tối đa là Mach 3.2, một rada cực mạnh và
4 tên lửa
không đối không, Foxbat lúc mới xuất
hiện đã khiến nhiều nhà phân tích và chuyên gia quân sự Phương Tây phải hốt
hoảng.
Chiếc máy bay này có nhiều tính năng chưa
được tìm ra cho đến khi phi công Liên Xô Viktor
Belenko lái chiếc MiG-25 của anh ta đào tẩu
sang Nhật Bản vào
năm 1976. Ngay sau
đó các nhà khoa học đã phát hiện ra MiG-25 có một thiết kế đơn giản nhưng hiệu
quả với hệ thống điện tử dùng đèn chân không, 2 động cơ lớn và sử dụng một cách
tiết kiệm các vật liệu mới như titan. MiG-25 được sản xuất với số lượng là 1.190 chiếc., và được sử dụng chủ yếu trong không quân Xô viết (cũ) và các nước đồng minh; hiện nay nó chỉ phục vụ
với số lượng hạn chế trong không quân Nga và
một số nước khác. Ngoài ra, MiG-25 còn là cơ sở để phát triển loại tiêm kích
đánh chặn MiG-31 vẫn đang hoạt động tích cực trong Không quân Nga.
Lịch
sử phát triển
Ye-155
Ye-155R
MiG-25 bắt đầu được phát triển vào thập niên 1950, song song với
việc Hoa Kỳ cố gắng phát triển một loại máy bay ném bom và đánh chặn có vận tốc Mach 3,
trong đó có cả mẫu thí nghiệm XB-70
Valkyrie (cuối cùng loại máy bay này đã không được sản xuất), XF-103
Thunderwarrior, Lockheed
YF-12 và XF-108 Rapier. Khi
chiếc máy bay đầu tiên có vận tốc Mach 2 bắt đầu đi vào hoạt động, máy bay đạt
vận tốc Mach 3 có vẻ như là một bước đi hợp lôgic[cần dẫn nguồn]. Những
vai trò đã dạng đã được tính toán, như mang tên lửa hành trình và cả một mẫu máy bay dân
dụng chở từ 5-7 hành khách có vận tốc siêu âm, nhưng sự thúc đẩy chính là phải
có một loại máy bay do thám và đánh chặn hạng nặng mới có vận tốc Mach 3.
Mikoyan-Gurevich OKB đã
được chỉ định để nghiên cứu chế tạo vào ngày 10
tháng 3-1961. Dù cho mẫu máy bay XB-70
Valkyrie của Mỹ đã bị hủy bỏ nghiên cứu trước khi Liên Xô nghiên
cứu loại máy bay mới, sau này thì chiến thắng đã thuộc về người Xô Viết. Mẫu
máy bay mới của Liên Xô có tên gọi ban đầu là "Ye-155" (hay
"Е-155"), mẫu này có cánh cụp cố định, có vẻ như mẫu Ye-155 đã
giành được sự quan tâm của Quân chủng phòng không Xô Viết (PVO
Strany), nó sẽ được sử dụng trong vai trò đánh chặn chống lại loại SR-71
Blackbird do thám của Hoa Kỳ.
Chiếc Lockheed
SR-71 là một kiểu máy bay trinh sát chiến lược tiên tiến tầm xa, đạt được tốc độ Mach 3
Có nhiều ý kiến cho rằng việc phát triển MiG-25 là để đáp lại
việc Hoa Kỳ phát triển XB-70
Valkyrie.
XB-70 thuộc
Trung tâm nghiên cứu bay Dryden năm 1968
Tuy nhiên người đứng đầu Phòng thiết kế MiG A. Belyankov tin
rằng không có cơ sở cho ý kiến đó.
Khi bay với vận tốc cao hơn Mach 2, nhiệt gây ra do máy bay ma
sát với không khí rất lớn, nên MiG-25 không thể được chế tạo với những hợp kim
nhôm truyền thống. Hãng Lockheed đã
dùng titan cho YF-12 và SR-71 của
họ (mà titan này lại được mua từ Liên Xô), và hãng North American đã
dùng loại thép rỗ tổ ong cho XB-70. Cả
hai công ty Mỹ đều cố gắng hoàn thiện vật liệu chế tạo máy bay của họ. Trong
khi đó, cuối cùng thì Mikoyan-Gurevich OKB quyết
định phần lớn chi tiết của MiG-25 sẽ được chế tạo bằng thép hợp kim niken. Kỹ
thuật hàn ghép các tấm thép của MiG-25 gồm có hàn điểm, hàn máy tự động và
phương pháp hàn hồ quang bằng tay. Lúc đầu các mối hàn bị rạn nứt do máy bay bị
rung khi hạ cánh. Nhưng nó nhanh chóng được hàn lại. Một lượng nhỏ titan và
hợp kim nhôm đã được dùng để chế tạo MiG-25, ở các khu vực đặc biệt
nhạy cảm dễ bị ảnh hưởng bởi lực lực kéo lớn.
Nguyên mẫu đầu tiên, thực tế là phiên bản trinh sát, có ký hiệu
"Ye-155-R1", bay lần đầu tiên vào ngày 6 tháng
3-1964. Mẫu
máy bay đánh chặn đầu tiên, "Ye-155-P1", được thử nghiệm vào
ngày 9 tháng 9-1964. Sự phát triển của những phiên bản
thử nghiệm cho thấy những bước tiến quan trọng trong ngành khí động học, trình độ kỹ sư và luyện
kim của Liên Xô, và để
hoàn thành chiếc MiG-25 hoàn hảo cần một vài năm nữa. Trong quá trình đó, vài
mẫu thử nghiệm với tên gọi "Ye-266" (hay "Е-266"),
đã được sản xuất để thiết lập những kỷ lục bay mới trong những năm 1965, 1966 và 1967.
MiG-25 được sản xuất hàng loạt với 2 phiên bản MiG-25P ('Foxbat-A')
(máy bay đánh chặn) và MiG-25R ('Foxbat-B') (máy bay
trinh sát) bắt đầu vào năm 1969.
MiG-25R được đưa ngay vào phục vụ trong Không quân Xô Viết (VVS), nhưng MiG-25P lại
bị trì hoãn đến năm 1972 mới được đưa vào phục vụ trong Quân chủng phòng không Xô Viết (PVO).
Một phiên bản huấn luyện cũng được phát triển được chia ra thành MiG-25PU('Foxbat-C')
cho MiG-25P và MiG-25RU cho MiG-25R. Ngoài ra MiG-25R còn được
mở rộng thêm một số phiên bản như MiG-25RB trinh sát/ném
bom, MiG-25RBS và MiG-25RBSh máy bay trang
bị radar cảnh
báo trên không (SLAR), MiG-25RBK và MiG-25RBF ('Foxbat-D')
trang bị hệ thống ELINT (thu thập tin tức
tình báo bằng tín hiệu điện tử), và MiG-25BM ('Foxbat-F')
phiên bản trang bị SEAD (chế áp hệ thống phòng
không đối phương), mang bốn tên lửa chống bức xạ Raduga Kh-58 (tên
ký hiệu của NATO: AS-11 'Kilter').
MiG-25
MiG-25 thể hiện hiệu năng rất cao, nó có thể bay với vận tốc cực
đại Mach 3.2 trên độ cao 27.000 m (90.000 ft), ngày 31
tháng 8 năm 1977 có một chiếc E-266M, đây là một phiên bản MiG-25
được chế tạo đặc biệt, do phi công thử nghiệm chính của OKB MiG
là Alexander Fedotov điều khiển, đã bay lên đến độ cao 37.650 m
(123.524 ft), lập một kỷ lục độ cao mới tại Podmoskovnoye, Liên Xô. Dù dự
định cho mục đích đánh chặn hay đe dọa bay trên độ cao lớn, có tốc độ cao,
nhưng khả năng cơ động, tầm bay và không chiến tầm gần của MiG-25 rất hạn chế.
Một vài ý kiến tin rằng MiG-25 được dùng với mục đích để ngăn chặn SR-71
Blackbird, hoặc ít nhất dùng để đánh chặn những máy bay có vận tốc lớn,
trần bay cao. Dù đạt vận tốc rất lớn, nhưng đó cũng là vấn đề với MiG-25, khi
bay ở vận tốc lớn động cơ rất nhanh bị hỏng, dù
vấn đề này vẫn hay được tranh luận.
Việc thử nghiệm nhà nước bắt đầu vào năm 1965 và kéo dài 5 năm.
Đó là vì các mẫu chế thử liên tục phải hoàn thiện do những thiếu sót thiết kế.
Và những thiếu sót này đã làm một số phi công thiệt mạng. Mùa thu 1967, phi
công chính của Viện Nghiên cứu Không quân Liên Xô Igor Lesnikovhy
sinh. Mùa xuân 1969, do turbine động
cơ bị pha hủy trong khi bay và đám cháy bùng lên, Tư lệnh không quân Phòng không Liên Xô, Tướng Kadomtsev hy sinh. Sau
đó, khi máy bay đã được đưa vào trang bị cho các đơn vị phòng không, còn xảy ra
4 tai nạn chết người nữa. Máy bay cũng đã đòi hỏi hoàn thiện kết cấu. Mức độ
tai nạn cao như thế ở giai đoạn đầu có nguyên nhân trước hết là MiG-25 là loại
máy bay mới, mọi hành vi của nó trên không về lý thuyết là không thể tiên liệu.
MiG-25 công khai xuất hiện lần đầu vào ngày 9/7/1967 trong cuộc
duyệt binh không quân nhân Ngày Không quân Liên Xô ở
Demodedovo. Bốn chiếc tiêm kích đánh chặn đã bay thấp bên trên các khán đài.
Phát thanh viên thông báo, máy bay mới này có khả năng đạt tốc độ bay
3.000 km/h. Đối với phương Tây đây là một tin kinh ngạc. Thậm chí đã diễn
ra các cuộc điều trần khẩn cấp tại Quốc hội Mỹ. Các cuộc điều trần này đã giúp
đẩy nhanh việc phát triển các tiêm kích đánh chặn mới F-14 và F-15. Cả hai máy
bay mới của Mỹ cũng đều áp dụng sơ đồ 2 cánh đứng đuôi như MiG-25, nhưng thua
kém hơn cả về tốc độ và độ cao bay.
Sự
kiện Belenko
Một hiểu biết thật sự về sức mạnh và điểm yếu của MiG-25 bất ngờ
đến với Phương Tây vào năm 1976.
Ngày 6 tháng 9, một phi công PVO là Viktor Belenko, đã
đào ngũ sang Phương Tây, chiếc MiG-25P "Foxbat-A" của Belenko đã hạ
cánh tại sân bay Hakodate ở Nhật
Bản.
Viktor Ivanovich
Belenko is a
former Soviet pilot who defected to the West while flying his MiG-25
Mặc dù chiếc MiG-25P này cũng được trao trả lại phía Liên Xô, nhưng
trước đó nó đã được tháo ra và nghiên cứu cẩn thận từng chi tiết để phân tích
bởi Bộ phận công nghệ tại nước ngoài (giờ là Trung tâm tình báo không trung và
không gian quốc gia) của Không quân Hoa Kỳ, tại căn cứ không quân
Wright-Patterson gần Dayton, Ohio. Sau
67 ngày, chiếc máy bay đã được trở về Liên Xô dưới dạng linh kiện rời; và với
những kết luận phân tích đáng ngạc nhiên:
·
Máy bay của Belenko là loại máy bay đời mới, đại diện cho công
nghệ Xô Viết mới nhất.
·
Máy bay được lắp ráp rất nhanh, và thực chất được xây dựng xung
quanh động cơ phản lực Tumansky của
máy bay.
MiG-25
phiên bản huấn luyện
·
Việc hàn được làm bằng tay và chế tạo một cách khá thô. Giống
như nhiều máy bay Xô Viết, những đầu đinh tán được để lộ tại những bề mặt không
ảnh hưởng đến lực cản khí động lực của máy bay.
·
Máy bay được chế tạo từ hợp kim thép niken và không phải
là titan như
người ta vẫn nhầm lúc đầu (tuy nhiên titan đã được sử dụng trong những bề mặt
chịu nhiệt cao). Cấu trúc thép thiết kế đã góp phần tạo ra trọng lượng không có
vũ khí lên tới 64.000 lb (29 tấn).
·
Phần lớn thiết bị điện tử trên máy bay được chế tạo dựa trên
công nghệ đèn chân không, chiếc
MiG-25 đã không sử dụng thiết bị điện tử bán dẫn. Có vẻ khá lỗi thời, nhưng
cách sử dụng đèn chân không rất khéo léo bởi vì những ống chân không ít bị ảnh
hưởng bởi xung điện từ (EMP)
sinh ra khi có vụ nổ hạt nhân và chịu nhiệt tốt hơn, do đó loại bỏ
những nhu cầu về môi trường điều khiển phức tạp bên trong khoang điện tử của
máy bay. Ngoài ra, những đèn chân không dễ dàng để thay thế tại những sân bay
quân sự xa xôi ở phía Bắc, nơi mà những bóng bán dẫn tinh vi không luôn có sẵn
để thay thế. Như mọi máy bay Xô Viết, MiG-25 được thiết kế để chống chịu tốt với
khí hậu khắc nghiệt, càng dễ bảo trì càng tốt.
·
Nhờ việc sử dụng đèn chân không, chiếc MiG-25P có một rada rất mạnh
loại Smerch-A (Tornado, tên ký hiệu của NATO "Foxfire") —
công suất khoảng 600 kW — với rada này thì gần như mọi biện pháp phòng thủ
điện tử của quân địch (EMC) đều
trở nên vô dụng.
·
Trên đồng hồ đo vận tốc chỉ tối đa là Mach 2.8 và những phi công
được yêu cầu không được vượt quá vận tốc Mach 2.5 để nâng cao tuổi thọ sử dụng
của những động cơ. Vào năm 1973, người
ta đã được chứng kiến một chiếc MIG-25 của Ai Cập bay
qua Israel với
vận tốc Mach 3.2, điều này đã gây sốc mạnh đối với Phương Tây. Và kết quả của
chuyến bay là động cơ đã phải thay thế khi máy bay hạ cánh.
·
Gia tốc cực
đại mà máy bay chịu được là 2,2 G (21,6 m/s²) với những thùng nhiên liệu đầy,
nó chịu được giá trị giới hạn tuyệt đối là 4,5 G (44,1 m/s²). Một chiếc
MiG-25 chịu được một gia tốc là 11,5 G (112,8 m/s²) kéo dài trong suốt thời
gian huấn luyện hỗn chiến bay thấp, nhưng khung máy bay lại hầu như không biến
dạng.
·
Bán kính chiến đấu là 186 dặm (300 km), phạm vi cực đại với
đầy đủ nhiên liệu bên trong (với tốc độ dưới tốc độ am thanh) là 744 dặm
(1.200 km). Thật ra, Belenko khi đào thoát sang Nhật Bản đã không mang đủ
nhiên liệu cần thiết, Belenko đã hạ cánh trên một đường băng thương mại chật hẹp,
và đáp vượt quá cuối đường băng.
·
Đa số MiG-25 được sử dụng loại ghế phóng khẩn cấp KM-1, tuy
nhiên đó là phiên bản cuối cùng, những kỹ sư đã sử dụng một phiên bản của loại
ghế nổi tiếng K-36. Một biên bản ghi lại một cuộc thử nghiệm tốc độ ghế phóng
loại KM-1 trên MiG-25 đã đo được tốc độ là Mach 2,76.
camera trên MiG-25RB
Kết quả kiểm tra làm người Mỹ cảm thấy những gì họ dự đoán trước
đó quá cường điệu. Tính năng bẻ góc, quần vòng ở độ cao thấp của MiG-25 không
xuất sắc như tình báo Mỹ đã dự đoán, khả năng không chiến tầm gần của nó không
hơn loại F-4 Phantom.
F-4B ở trên
vùng trời Việt Nam.
MiG-25 chỉ thực sự thích hợp với nhiệm vụ không chiến đánh chặn
tầm xa: nó sẽ dùng radar mạnh để phát hiện mục tiêu từ xa rồi dùng tên lửa tầm
xa bắn hạ máy bay đối thủ (thường là máy bay ném bom), sau đó MiG-25 sẽ rút lui,
dùng tốc độ cao để thoát khỏi sự đánh trả của đối phương
Ngày 12/11, tức là khoảng 2 tháng sau khi sự việc diễn ra, Mỹ –
Nhật đã đáp ứng "rất vô tư" các yêu cầu của Liên Xô đòi đưa chiếc máy
bay MiG-25 đó về nước. Ngày 15/11, 8 xe tải chở các bộ phận linh kiện của
MiG-25 đã được đưa lên tàu chở về Liên Xô.
Cùng với sự đào tẩu của Belenko là những bí mật về hệ
thống radar và tên lửa của
MiG-25P đã bị Phương Tây khám phá, ngay lập tức trong năm 1978, các nhà thiết
kế Xô Viết đã phát triển một phiên bản cải tiến mới, MiG-25PD ("Foxbat-E"),
với một radar RP-25 Saphir look-down/shoot-down mới, hệ thống
dò tìm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST), và
những động cơ mạnh hơn. Khoảng 370 chiếc MiG-25P đã được nâng cấp theo tiêu
chuẩn mới và có tên gọi là MiG-25PDS.
Có khoảng 1.190 chiếc MiG-25 đã được sản xuất cho đến khi việc
chế tạo dừng lại vào năm 1984,
nhường chỗ cho loại máy bay tiên tiến hơn là MiG-31.
Một số chiếc MiG-25 (phiên bản cắt giảm tính năng) đã được xuất
khẩu sang Algérie, Bulgaria (3
MiG-25R và 1 MiG-25RU trước năm 1992), Ấn Độ(trước
năm 2006), Iraq, Libya,
và Syria. Một
vài chiếc vẫn còn hoạt động cho đến nay.
Lịch
sử hoạt động
Buồng lái MiG-25
MiG-25 đã lập 29 kỷ lục thế giới, trong đó có kỷ lục độc đáo
chưa bị phá cho đến đầu thế kỷ 21 là độ cao bay trên máy bay lắp động cơ phản
lực. Ngày 21/8/1977, phi công thử nghiệm А. Fedorov đã bay MiG-25 lên tới độ
cao 37.650 m so với mặt đất.
Trước khi bắt đầu hoạt động chính thức, 4 chiếc MiG-25R đã hoạt
động tạm thời trong Không quân Ai Cập vào
năm 1971 dưới
vỏ bọc tên gọi "X-500". Cả bốn chiếc đều có dấu hiệu của không quân
Ai Cập. Chúng bay theo đội hình 2 chiếc và đã bay qua Israel khoảng
20 lần. Năm 1973, một chiếc MiG-25 của Ai Cập đã đạt đến tốc độ Mach 3.2
trong khi đang bị những chiếc F-4E của Israel bám đuổi. Không quân Israel đã
không thể tìm được cách nào để ngăn chặn những chiếc MiG-25, dù tình báo của
Israel luôn biết trước được lịch bay qua không phận Israel của MiG-25. Những
chiếc MiG-25R này sau đó đã trở về Liên Xô vào năm 1972, và
sau đó những chiếc Foxbat trinh sát này lại được gửi trở lại Ai Cập vào tháng 10-1973,
sau Chiến tranh Yom Kippur, và tiếp tục ở lại vào
năm 1974.Không quân Israel không
có khả năng ngăn chặn những chiếc MiG-25 cho đến khi họ được trang bị
loại F-15 Eagle.
Trong chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel lâm vào
thế thất bại, trong lúc nguy cấp nữ Thủ tướng Golda
Meir của Israel đã mất kiềm chế và ra lệnh đặt toàn bộ kho vũ
khí hạt nhân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu (trong tay Israel đã có 18 quả
bom hạt nhân).
Golda Meir (tên trước kia là Golda Meyerson, tên khi
sinh Golda Mabovich, Голда Мабович; 3 tháng 5 năm 1898 –8 tháng 12 năm
1978)
Cũng trong ngày hôm đó, các chi nhánh tình báo của KGB và GRU (tình báo quân sự Liên
Xô) tại Trung Đông đã biết quyết định của Thủ tướng Meir.
Ngày 10/10 Bộ Chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô tán thành
“Kế hoạch hành động buộc Israel từ bỏ việc tiến hành tấn công hạt nhân” (Kế
hoạch cưỡng bức) do Giám đốc KGB Yuri
Andropov đệ trình lên. Ngày 13/10/1973, Phó chỉ huy của trung đoàn
không quân tiêm kích, Thiếu tá Alexander
Danilovich Vertievets, được lệnh cất cánh. Chiếc MiG-25 của Vertievets bay thẳng vào
không phận Tel Aviv (thủ đô Israel) như một cách để Liên Xô cảnh báo Israel
không được dùng vũ khí hạt nhân. 3 chiếc Mirage của Israel cất cánh để ngăn
chiếc MiG-25, song không thể bắt kịp vì tốc độ của đối phương nhanh gấp 2 lần.
Biên đội Mirage bắn tên lửa không đối không Hokami, nhưng tất cả tên lửa bắn ra
đều không thể tiêu diệt được mục tiêu. Chiếc MiG-25 không bỏ đi mà còn vòng
lại, lượn 6 vòng tròn trên bầu trời thành phố, tỏ ra không hề sợ bị bắn hạ.
Thêm 1 biên đội F-4 Phantom được Israel cử lên, nhưng chúng cũng
bất lực trong việc ngăn chặn chiếc MiG-25. Bộ trưởng Quốc phòng Israel đã tới
gặp Thủ tướng Meir cùng với một báo cáo về “sự cố” trên bầu trời Tel Aviv, và
bắt gặp bà Thủ tướng đang đọc lá thư của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Sau
đó, Israel buộc phải “điều chỉnh lại cuộc hành quân”, từ bỏ kế hoạch dùng bom
hạt nhân. Năm 1973, Alexander Danilovich Vertievets, người thực hiện chuyến bay
khuấy đảo bầu trời Tel Aviv, đã được trao danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
MiG-25 cũng phục vụ trong Không quân Iraq trong
suốt thời gian cuộc chiến tranh Iran-Iraq, nhưng kết quả khó được kiểm
chứng. Phi công MiG-25, trung úy Mohommed "Sky Falcon"
Rayyan của Iraq được tuyên bố đã bắn hạ 10 máy bay địch, tám
trong số đó là bởi MiG-25P từ 1981 tới 1986.Iraq
tuyên bố 19 máy bay Iran, cộng thêm 4 máy bay nước khác đã bị hạ bởi MiG-25,
trong khi họ bị mất 3 chiếc MiG-25.
Năm 1991 khi xảy ra Chiến tranh vùng Vịnh, một chiếc F/A-18 của Hải quân Mỹ do phi công Speicher điều
khiển đã bị bắn hạ trong đêm đầu của cuộc chiến bởi một tên lửa không đối không được
bắn ra từ một chiếc MiG-25. Theo
tường trình thì vụ bắn hạ F/A-18 là do tên lửa R-40DTbắn từ
một chiếc MiG-25PDS do phi công Zuhair Dawood thuộc phi đội số 84 của Không quân Iraq thực
hiện. Sự
kiện này đã khiến MiG-25 là máy bay duy nhất sau Chiến tranh Việt Nam đã bắn hạ máy bay chiến
đấu của Mỹ trong thời gian chiến tranh.
Trong một sự kiện khác, 1 chiếc MiG-25PD của Iraq, sau khi tránh
né 8 chiếc F-15 của Không quân Mỹ đã bắn 3 tên lửa vào máy
bay tác chiến điện tử EF-111 Raven, khiến
EF-111 này phải từ bỏ nhiệm vụ của mình. Điều này có thể dẫn đến việc mất một
chiếc F-15 do bị bắn hạ bởi tên lửa đất đối không, vì thiếu gây nhiễu điện tử.
Ở một sự kiện khác, 2 chiếc MiG-25 đã tiếp cận 2 chiếc F-15, bắn
tên lửa nhưng những chiếc F-15 đã tranh được, sau đó 2 chiếc MiG-25 đã sử dụng
tốc độ bỏ xa những chiếc tiêm kích của Mỹ. 2 chiếc F-15 khác cũng đã tham gia
truy đuổi những chiếc MIG-25, tổng cộng đã có 10 tên lửa khong đối không bắn
vào 2 chiếc MiG-25, không quả nào bắn trúng MiG-25. Theo
cùng nguồn tin, ít nhất 1 chiếc F-111 cũng bị buộc phải từ bỏ nhiệm vụ bởi một
1 chiếc MiG-25 trong 24 giờ đầu của cuộc chiến, trong một không kích vào Tikrit.
2 chiếc MiG-25 đã bị hạ bởi những chiếc F-15C của Không quân Hoa Kỳ trong chiến tranh Vùng
Vịnh. Sau chiến tranh vào năm 1992, F-16 của
Hoa Kỳ đã hạ một chiếc MiG-25 khi nó bay vào vùng cấm bay do Hoa Kỳ lập ra ở
miền Nam Iraq.
MiG-25 chôn dưới cát của Iraq bị quân đội Mỹ
tịch thu
Vào ngày 23-12-2002, một chiếc MiG-25 của Iraq đã bắn hạ một
chiếc máy bay không người lái MQ-1 Predatorcủa
không quân Mỹ, chiếc máy bay này được trang bị tên lửa và có nhiệm vụ thăm dò
đối với Iraq. Đây là lần đầu tiên sau chiến tranh Việt Nam mà một máy bay chiến
đấu có người lái và một máy bay không người lái đụng độ nhau. MQ-1 Predator
được trang bị tên lửa không đối không AIM-92 Stinger, và nó
được dùng để làm "mồi nhử" đối với máy bay chiến đấu của Iraq, sau
đó nó sẽ tẩu thoát. Trong trường hợp này thì chiếc máy bay không người lái lại
không chạy trốn mà nó đã bắn trả bằng một trong những quả tên lửa Stinger,
nhưng MiG-25 đã né được quả tên lửa, còn quả tên lửa từ chiếc MiG-25 thì không
hề trượt mục tiêu.
Không một chiếc máy bay chiến đấu nào của Iraq được sử dụng
trong cuộc tấn công năm 2003, đa số đã cất dấu hoặc bị phá hủy. Vào tháng 8-2003, vài
tá máy bay Iraq đã được phát hiện chôn dưới cát, bao gồm 2 chiếc MiG-25 đã được
chở bằng xe gửi đến Bộ phận công nghệ tại nước ngoài bằng một chiếc C-5B
Galaxy. Vào tháng 12-2006, người ta công bố một chiếc MiG-25 được tặng
cho Bảo
tàng không quân Quốc gia Mỹ tại Dayton, Ohio.
Vào tháng 5-1997, một chiếc MiG-25RB của Không quân Ấn Độ đã
bay vượt vận tốc Mach 3 ở quãng đường ít nhất là 65.000 ft, khi đang bay
qua lãnh thổ của Pakistan. Theo báo cáo thì đây là một nỗ lực có suy
nghĩ bởi không quân Ấn Độ để trình diễn những khả năng của MiG-25 mà Không quân Pakistan không
thể sánh kịp.[20]
Các
quốc gia sử dụng
Bản đồ các
nước sử dụng MiG-25
Các quốc
gia vẫn đang sử dụng
11 chiếc vẫn còn đang hoạt
động trong Không quân
Algeria, bao gồm 5 MiG-25A, 3 MiG-25PD, và 3 chiếc
kiểu MiG-25R.
20 chiếc đang hoạt động.
Các quốc
gia không còn sử dụng
3 chiếc MiG-25RBT (số hiệu
731, 736, 754) và 1 chiếc MiG-25RU (số hiệu 51) đã cung cấp vào năm 1982. Vào
12-4-1984, chiếc máy bay số hiệu 736 gặp tai nạn gần Balchik. Phi công may mắn không bị
thương. Vào tháng 5-1991, những chiếc MiG-25 được gửi trả về Liên Xô để đổi lấy
5 chiếc MiG-23.
Ngừng hoạt động vào tháng
7-2006.
7 bay tới Iran năm 1991,
chiếc khác bị phá hủy trong Chiến tranh Vùng Vịnh và cuộc chiến năm 2003 ở
Iraq. Một số chiếc có thể đã mất trong Chiến tranh Iran-Iraq.
những chiếc MiG-25 đã được
chia đều cho các nước cộng hòa khi Liên Xô tan vỡ vào năm 1991.
70 còn hoạt động
trong Không quân Nga năm 2008. Gồm 30 MiG-25 tiêm kích và 40 MiG-25RB trinh
sát. Ngừng hoạt động năm 2014.
Ngừng hoạt động.
Thông
số kỹ thuật (MiG-25P 'Foxbat-A')
Thông số kỹ thuật
Đặc điểm
riêng
1/ Phi đoàn: 1
2/ Chiều dài: 19.75
m (64 ft 10 in)
4/ Chiều cao: 6.10
m (20 ft 0.25 in)
5/ Diện tích cánh: 61.40
m² (660.93 ft²)
6/ Trọng lượng rỗng:
20.000 kg (44.080 lb)
7/ Trọng lượng cất cánh:
36.720 kg (80.952 lb)
9/ Động cơ:
2× Tumansky R-15B-300,
lực đẩy 73.5 kN (16.524 lbf), 100.1 kN (22.494 lbf) với
nhiên liệu phụ trội
Hiệu suất
bay
7/ Thời gian lên cao: 8.9
phút lên 20.000 m (65.615 ft)
Vũ khí
Hệ thống
điện tử
2/ Một radar đo độ cao RV-UM hoặc RV-4
No comments:
Post a Comment