Đà Nẵng
Cách nay đúng 160 năm, liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công Đà-Nẵng
của triều Nguyễn
Ngày 01
tháng 09, 1858
·
1858 – Liên quân Pháp-Tây Ban Nha khai hỏa tấn công Đà Nẵng, khởi
đầu nỗ lực xâm chiếm Việt Nam của
Pháp.
Trận Đà Nẵng (1858-1859)
Liên quân tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất
Liên
quân tấn công Đà Nẵng năm 1858
Thời gian 31 tháng 8 năm 1858 - 2 tháng 2 năm
1859
Tham chiến
Chỉ huy
Thống
chế Chu Phúc Minh Đại
tá Faucon
Đô
thống Lê Đình Lý Thiếu
tá Jauré-Guiberry
Tham
tri Phạm Khắc Thân Đại
tá Oscaritz (Tây Ban Nha)...
Lực lượng
Khoảng
4.000 quân chính quy Khoảng 3.000 quân
chính quy
Số
vũ khí: không rõ. 14
tàu chiến, Số đại bác và vũ khí khác: không rõ.
Tổn thất
Đô
thống Lê Đình Lý và hai Hiệp quản là: Nhiều,
nhưng không biết đích xác con số.
Nguyễn
Triều và Nguyễn An đều tử trận.
Quân
và dân chết nhiều nhưng không biết
chính
xác con số.
Thiệt
hại khác: không thống kê được.
Trận Đà Nẵng (1858-1859) hay Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn
công Đà Nẵng lần thứ nhất là
trận đánh mở đầu cho cuộc chiến
tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam.
Đây là cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, khởi
sự từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và
kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859, để
chuyển sang một giai đoạn khác.
Và theo sự đánh giá của các nhà nghiên cứu,
thì Liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã bị cầm chân và bị thiệt hại, cho nên đây
chính là một khởi đầu thắng lợi lớn, nhưng duy nhất trong hơn một phần
tư thế kỷ (1858
- 1884) chống ngoại xâm của quân và dân Việt Nam.
Tiểu dẫn
Giữa thế kỷ 19, sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây mở những cuộc chiến tranh giành giật thuộc
địa. Các quốc gia phương Đông nói chung, Việt Nam nói
riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó. Lợi dụng các mối
quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn
Ánh, và sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, Pháp và Tây Ban
Nha đã viện cớ nhà Nguyễn cấm
đạo Thiên Chúa, bắt bớ và giết hại nhiều giáo sĩ, giáo
dân; để tiến hành cuộc chiếm cứ nước Việt.
Lý do chọn Đà Nẵng
Sau hai trận thăm dò và thử sức lực lượng phòng thủ của nhà Nguyễn ở Đà Nẵng (Quảng Nam) vào
ngày 15 tháng 4 năm 1847 và ngày 26 tháng 9 năm 1857, một ủy
ban có tên là Commission de la Cochinchine do Nam tước Brenien
đứng đầu đã
đệ trình và đã được Hoàng đế Napoléon
III chấp thuận, chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch
đánh chiếm Việt Nam. Bởi Đà Nẵng là
một hải cảng sâu và rộng, thuận tiện cho tàu chiến vào ra, lại nằm trên trục
đường Bắc – Nam, có thể sang Lào, Căm Bốt và
chỉ cách kinh đô Huế khoảng 100km, rất
thuận lợi cho việc "đánh nhanh thắng nhanh" của liên quân Pháp - Tây
Ban Nha (gọi tắt là liên quân). Ngoài ra, Đà Nẵng còn có cánh đồng Nam – Ngãi để
nuôi quân, còn có nhiều giáo sĩ và giáo dân thân Pháp.
Vietnamese map of the battle, in the bay
of Tourane. The French warships
are depicted in the top portion of the map.
Cho nên đánh chiếm được Đà Nẵng, vượt đèo Hải Vân, rồi tấn công Huế; chính
là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất
để thực hiện được ý đồ của Pháp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phải chờ đến
sau Hiệp ước Thiên Tân (28 tháng 6 năm 1858) được
ký kết, quân đội Pháp ở Viễn Đông mới có thể rảnh tay chuyển sang mặt
trận khác…
Đỉnh đèo Hải Vân
Điểm dừng chân trên đỉnh Hải vân
The siege of Tourane
French order of battle (detail of a
contemporary Vietnamese map).
Lực lượng đôi bên
·
Lực lượng liên quân có khoảng 3.000 quân (450 binh sĩ Tây Ban
Nha), được bố trí trên 14 tàu chiến (lúc đầu, theo Đại Nam thực lục là 12 chiếc tàu) , trong
số đó có soái hạm Némésis và những tàu lớn được trang bị tới 50 khẩu đại bác,
có sức công phá lớn và sát thương cao.
·
Lực lượng quân nhà Nguyễn ở Đà Nẵng có khoảng 2.070 lính chính
quy (theo Đại Nam thực lục) dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng, khi
trận chiến nổ ra được chi viện thêm 2.000 người nữa, do Hữu quân đô thống Lê
Đình Lý chỉ huy từ Huế vào. Ở các pháo đài, có nhiều đại bác và vũ khí các loại...
Liên quân tấn công
Phát xuất từ đảo Hải Nam (Trung
Quốc), Phó Đô đốc Hải quân Rigault de Genouilly (gọi
tắt là De Genouilly) được lệnh phối
hợp với đạo quân Tây Ban Nha do Đại tá Lanzarotte chỉ huy, đưa tàu chiến xuống
phía Nam. Chiều tối ngày 31 tháng 8 năm 1858, toàn
bộ lực lượng trên đã có mặt trước cửa biển Đà Nẵng.
Admiral Charles Rigault de Genouilly
(1807–73)
Sáng ngày 1 tháng 9, De
Genouilly gửi tối hậu thư buộc quan Trấn thủ Đà Nẵng, trong
hai giờ phải giao nộp tỉnh thành. Nhưng không đợi trả lời, đại bác của liên
quân đã tập trung hỏa lực bắn tới tấp hàng trăm quả vào cửa sông Đà Nẵng và
các đồn ở bán đảo Sơn Trà.
Theo kế hoạch, liên quân gồm hai bộ phận.
·
Bộ phận thứ nhất gồm ba tàu chiến, tập trung hỏa lực bắn vào các
đồn ở Sơn Trà.
·
Bộ phận thứ hai, dưới làn đạn yểm trợ của bộ phận thứ nhất, sẽ
nhanh chóng tiến gần vào cửa sông Đà Nẵng, để bắn vào đồn Đông và đồn Tây đang
án ngữ. Và ngay hôm đó, đồn Đông bị vỡ.
Sáng hôm sau (2 tháng 9), liên quân tiếp tục nã đại bác, chiếm
lấy đồn Tây, rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải chỉ
nội một ngày. Trước vũ khí mạnh hơn, quân Việt vừa đánh vừa lui dần ra sau, lập
phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để
ngăn liên quân vào nội địa.
Nhận được tin liên quân đánh Đà Nẵng,
vua Tự Đức liền
sai Chưởng vệ Đào Trí vào
để hiệp cùng Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng chống ngăn, nhưng
khi ông Trí đến nơi thì hai đồn trên đã mất. Nhà vua lại sai Hữu quân đô
thống Lê Đình Lý và Tham tri bộ Hộ Phạm Khắc Thận đem
2.000 quân vào ứng cứu, cử Tham tri nội các Nguyễn Duy giữ chức chỉ huy quân thứ ở Quảng
Nam, và ra lệnh cách chức Trần Hoằng vì lỗi đã án binh bất động., đưa
Đào Trí lên thay...
Đánh chiếm được Sơn Trà, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tiến vào
nội địa, đánh tan phòng tuyến bằng ụ đất, rào tre của quân Việt ở xã Mỹ Thị,
rồi tràn sang chiếm xã Cẩm Lệ. Tướng
Lê Đình Lý bị trọng thương rồi mất trong trận chiến này. Xét công tội, tướng Hồ
Đức Tư, trấn giữ đồn Hóa Khuê, bị vua Tự Đức sai
bắt giam và bị cách chức, vì lỗi không tiếp ứng và án binh bất động.
Hữu quân Lê Đình Lý mất, nhà vua cử Thống chế Chu Phúc Minh làm
Tổng đốc quân vụ thay Lê Đình Lý. Rồi điều tướng Nguyễn Tri Phương, khi ấy đang làm Kinh lược
sứ Nam Kỳ, về làm Tổng thống quân vụ Quảng Nam; cử thêm Phạm Thế Hiển làm Tham tán, để cùng gấp
rút chấn chỉnh quân chánh và thống nhất phương thức chống ngoại xâm.
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy
quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà
Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
(Phạm Thế Hiển (范世顯,[1] 1803–1861) là một danh
thần đời Minh Mạng, chết
trong trận Pháp công
phá đại đồn Chí Hòa năm 1861. Ông là anh ruột Phó bảng Phạm Thế
Húc.)
Trước tình thế đó, Nguyễn Tri Phương không chủ trương đánh chính
diện để tránh sức mạnh hỏa lực của đối phương, mà cho phục kích, thực hiện
"vườn không, nhà trống" (để cô lập và triệt đường tiếp tế) và cho đắp
lũy dài từ Hải Châu vào tới Phúc Ninh, Thanh Giản, để bao vây liên quân ngoài
mé biển.
Suốt 5 tháng bị cầm chân, cái đói, cái bệnh, cái nóng bức... đã
khiến liên quân mệt mỏi và hao mòn. Mặc dù được giáo sĩ Pellerin khuyên nên đem
quân ra chiếm Bắc Kỳ, vì ở
đó có giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo, và những người còn tôn
phù nhà Lê nổi lên góp sức, nhưng sau khi cân nhắc, tướng De
Genouilly không tán thành.
Ngày 2 tháng 2 năm 1859, chỉ
để lại một phần ba số quân (khoảng 1.000 người) và 6 tàu chiến, bàn giao cho
Đại tá Faucon nắm giữ, còn bao nhiêu De Genouilly cho rút hết vào Nam, mở mặt
trận mới ở Gia Định (Xem: Trận thành Gia Định, 1859).
Sau năm tháng giao tranh,
liên quân Pháp - Tây Ban Nha chỉ chiếm được một ngọn núi không người và vài
làng ven biển không người. Họ không dám tiến sâu...Họ mong chờ một cuộc nổi loạn
của nhân dân Nam – Ngãi theo lời hứa hẹn của các giáo sĩ Pháp, mà không thấy.
Trong lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, thì liên quân bị đau ốm và chết chóc khá nhiều,
căn bản không phải vì súng đạn, mà chính vì phong thổ khí hậu. Thức ăn lại rất
khó tìm, thuốc men không đủ dùng, thỉnh thoảng vị quân Việt đến tập kích, bắn tỉa....
Báo cáo của Pháp
Phó Đô đốc De Genouilly đã viết thư về Pháp rằng:
Chính phủ bị đánh lừa về bản
chất của cuộc đi đánh lấy nước Nam Kỳ (Việt Nam); người ta
trình bày rằng việc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nho nhỏ thôi;
thực ra, nó không dễ, cũng không nhỏ...Người ta (…) cho rằng dân chúng sẽ nổi
lên hưởng ứng, thật ra...trái hẳn lại với sự dự đoán đó...Người ta báo cáo rằng
quân đội Việt không có gì, sự thật thì quân chính quy rất đông, còn dân
quân...thì không đau ốm và không tàn tật...Trên bộ thì không hành quân lớn được,
dù là chỉ hành quân ngăn ngắn mà thôi; binh lính không chịu đựng nổi....
Chúng ta đang xuống dốc đến
kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều
hết sạch và vô hiệu.
Hơn 10 ngày sau (15 tháng 1), viên tướng này gửi tiếp một báo
cáo nữa, để nói rõ số lính chết vì bị bệnh kiết lỵ lên
đến mức đáng sợ. Trong số 800 lính bộ binh, chỉ còn nhiều nhất là 500 người có
thể cầm khí giới, nhưng không đủ sức để mở một cuộc hành quân....
Nhận xét
·
Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4):
Những diễn biến cho thấy đối phương không thể phát huy được sức
mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà đã bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết
quả của… khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực, còn có sự tham gia của biền
binh và dân binh sở tại...Có thể coi đây là thắng lợi lớn và duy nhất ở mặt trận
Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược của quân và dân Việt, từ 1858 đến 1884.
Kế hoạch " đánh mau, thắng mau" của đối phương tuy thất
bại ở Đà Nẵng, nhưng, họ lại chọn được một vị trí khác (tức Gia Định) để thực hiện
kế hoạch đó. Trong khi đại quân của triều đình Huế đang "án binh bất
động, tự giam chân" (chủ trương "trì cửu"), đằng sau các phòng
tuyến thì đại quân của họ lũ lượt kéo vào Nam.
Xem thêm
Chú thích
1.
^ Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, nhiều
tác giả (Trần Nam Tiến chủ biên), Nhà xuất bản Trẻ, 2007, tr. 14-17.
4.
^ De Genouilly được cử làm Tư lệnh lực lượng hải quân Pháp tại Viễn Đông ngày
15 tháng 7 năm 1857, vì ông đã phục vụ lâu năm ở vùng biển Đông, và vì
ông có nhiều thân hữu trong giới truyền đạo Thiên chúa giáo (Nguyễn
Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, tr. 24.)
5.
^ GS. Trần Văn Giàu nhận xét: Liên quân Pháp - Tây
Ban Nha đã đến từ chiều hôm trước và dàn trận, ấy thế mà quan Trần Hoằng vẫn
"án binh bất động", chờ lệnh triều đình...(Tổng tập, phần
I, tr. 62)
8.
^ Kho lưu trữ quốc gia Pháp, KH:BB4-769. Dẫn lại theo GS.
Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 270.
Tham khảo
·
Trần Văn Giàu, Tổng tập (phần I), Nhà xuất bản Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, 2006.
·
Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, Nhà xuất bản TP.
HCM, 2002.
·
Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam
(1858 - cuối thế kỷ 19) quyển 3, tập 1, phần 1, Nhà xuất bản Giáo dục,
1979.
·
Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4, nhiều tác giả, Trần Nam Tiến chủ
biên, Nhà xuất bản Trẻ, 2007.
·
Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nhà
xuất bản Văn học, 2008.
·
Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng,
Sài Gòn, 1962.
·
Lịch sử 11 (nâng cao), Nhà xuất bản Giáo dục, 2007, tr. 223-224.
No comments:
Post a Comment