Saturday, August 31, 2019


Hậu trách nhân...

dimanche 28 avril 2013
Hậu trách nhân...Nguồn: blog Văn Công Hùng.
Kính mời quý anh chị đọc một bài xã hội.


  Hậu trách nhân...
Có thể nói bây giờ, đi đến chân trời góc bể nào cũng gặp người Việt. Chả bù cho ngày xưa, mới cách đây hơn trăm năm, sau hàng năm trời lặn lội, Nguyễn Trường Tộ đến được nước Pháp rồi về suýt bị chém đầu vì dám kính cẩn bẩm với vua rằng ở bển người ta đi xe hai bánh không ngã và đèn thì thắp lộn ngược…
Người Việt ra ngoài làm ăn, thăm thú… là một sự đổi đời rất lớn đối với cư dân của một đất nước lấy lũy tre làng làm biên giới từ ngàn đời nay. Nó khẳng định sức mạnh, vị thế của người Việt, nhưng đồng thời cũng đi kèm những hệ lụy…
Không ai trong chúng ta có thể chấp nhận việc ra nước ngoài thấy người Việt bị kỳ thị. Nhiều người ra nước ngoài đã chụp những bức ảnh rất đau lòng, nhẹ nhất là “nhắc”: Không lấy thừa thức ăn- chỉ bằng tiếng Việt- thì đương nhiên dành cho người Việt. Nặng hơn thì như vừa rồi một nhà hàng ở Trung Quốc tuyên bố không phục vụ người Việt và… chó thì là quá xúc phạm.
Chưa hết, đến ngay trong nước, chính người Việt cũng kỳ thị người Việt mà một chủ nhà hàng ở Phan Thiết và mới nhất là một cửa hàng ở phố cổ Hà Nội là ví dụ nhỡn tiền. 
Họ không phục vụ người Việt chỉ bởi người Việt… ăn cắp. Đau đớn thay, cái việc rất phản nhân văn, phản đạo lý ấy, thực ra, về mặt nào đấy, nó cũng… có một tí lý.
Năm nào đó, ở Sigapore người ta đã bắt cả một nhóm trộm cắp sang trọng người Việt. Nhóm này bay sang Singapore như cơm bữa, vào các siêu thị và… lấy cắp hàng mang về Việt Nam bán. 
Cũng năm nào đó, một nữ giám đốc doanh nghiệp lớn, lương hàng trăm triệu một tháng, thế mà vào một cửa hàng miễn thuế nước ngoài cũng.. cầm nhầm một loại mỹ phẩm, tất nhiên là bị phát hiện. Rồi cũng năm nào đó, một người rất nổi tiếng, con một gia đình đầy máu mặt, thế mà cũng… lận trong người một cái áo không phải của mình khi vào một shop hàng hiệu ở một nước Châu Âu. Ồn ĩ một thời gian rồi… im lặng.

Nhưng nó không im lặng trong ký ức của các nước đã được đón người Việt, đã xảy ra những việc tương tự như trên.

Tôi cũng vài lần đi nước ngoài. Gặp rất nhiều người Việt đi du lịch. Phải nói rằng việc người Việt đi du lịch nước ngoài rất nhiều chứng tỏ dân ta đang giàu lên, sành điệu hơn, nhu cầu hưởng thụ lớn hơn. Nhưng mặt khác nó cũng chứng tỏ ngành du lịch Việt Nam thua trên chính sân nhà. Ở nhiều nước mà người Việt Nam sang nhiều họ có cả những khu phố, những dãy cửa hàng phục vụ người Việt, dùng chính người Việt… chém người Việt. Thế mới thấy họ giỏi.

Trở lại việc gặp người Việt ở nước ngoài.

Lên máy bay là đã thấy không khí rất… Việt. Thì cứ gọi là náo loạn máy bay: Nói rất to, gọi nhau í ới, đổi chỗ loạn xạ, bình phẩm râm ran, đi lại nhốn nháo, bấm nút gọi tiếp viên liên tục, dù có khi chỉ để… đùa một câu hoặc hỏi những câu rất vô lý... gặp các đoàn tour du lịch đội mũ đồng phục đi theo cờ thì còn ối chuyện để cười. Của đáng tội, rất nhiều người đang một nắng hai sương, uỵch phát có suất gì đấy, hoặc là được đền bù đất, hoặc là được con bao… thế là xuất ngoại, mang nguyên theo cái nửa chân chất nửa ma mãnh của anh nông dân ra nước ngoài. Ngay ở trong nước kia thôi, thích đâu vất rác đấy, bạ đâu khạc đấy, tiện đâu... tè đấy 
(còn vào toilet tè thì nam không bao giờ chịu nhấc cái nắp giữa lên, tôi cá 10 ông thì đến 9 ông để thế đứng tè vào, sau đấy ai ngồi thì người ấy chịu)… 
chướng tai gai mắt khắp hang cùng ngõ hẻm có cai được đâu. Hay cái đoạn đi xe ngoài đường mà không được bóp còi là khó chịu lắm rồi. Ô tô xe máy sắm ra cái còi để bóp, thế mà không được bóp, xe cứ nối nhau chạy câm lặng như cua bò, tức chết đi được.

Mà chả cứ nông dân, tôi chứng kiến rất nhiều cuộc ăn buffet mà xấu hổ. Có mấy nguyên tắc ăn buffet, một là ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, hai là lấy xong nhường chỗ cho người khác lấy..

Đây các bác người Việt ta, rất nhiều com lê cà vạt, rất nhiều giày đen áo trắng- tức là tầng lớp trên của xã hội- hoặc là đứng ngay tại bàn bốc ăn, chen chúc như… xin ấn đền Trần, hoặc là khuân từng đĩa tú ụ về bàn, hể hả như thu chiến lợi phẩm, và ăn không hết vất đầy ra đấy trong con mắt ngạc nhiên của người khác. 
Có được nhắc thì nói rất ngang: Nó tính tiền hết trong ấy rồi.

Thế nên để tránh xấu hổ, nhiều hướng dẫn viên phải phổ biến rất kỹ, rằng là các bác ăn bao nhiêu thì lấy chừng ấy, hết lại lấy tiếp, vừa ăn được nhiều món, vừa được đi lại cho… nhẹ bụng để ăn tiếp. 
Có hướng dẫn viên còn… dọa: nếu lấy nhiều mà ăn không hết sẽ bị… phạt. Nên có lần tôi đi với mấy bác nhà văn lớn tuổi, các bác bảo có 4 điều khiến các bác luôn căng thẳng, ấy là lấy thức ăn nhiều (khi ăn buffet) sợ bị… phạt, tính tỉ giá tiền lúc mua sắm, đi tàu điện ngầm và tìm phòng ở khách sạn…
Có lần một anh bạn tôi là giảng viên của một trường đại học ở Hà Nội sang Lào dạy, nửa đêm anh phải từ Viên Chăn điện cho tôi phàn nàn rằng văn hóa rượu của Việt Nam đã tràn sang Lào. Tôi đã sang Lào nên biết, đấy là đất nước của tĩnh lặng và nhu mì. Hầu như rất ít người uống rượu ồn ào say xỉn như ta. Thế mà hôm ấy tập đoàn nổi tiếng H.A khánh thành cái sân vận động giúp Lào thì phải, xong các bố kéo nhau uống rượu. 
Cái cách uống rượu chỉ ở Việt Nam mới có là hàng chục người đứng lên chụm lại rồi đếm một hai ba zdo đến mấy lần rất to làm kinh thiên động địa hàng xóm được mang ra phơi bày ở đây
Anh bạn kia nói xấu hổ không chịu được. Toàn bộ sinh viên trong ký túc xá đại học quốc gia Lào nhao hết ra sảnh để… chiêm ngưỡng. Mà đúng là không biết từ đâu các bạn trẻ bây giờ có cái kiểu uống một hai ba dzo lạ kỳ như thế. Không phải tự phát mà nó hình như trong các cuộc liên hoan có tổ chức hẳn hoi?
Cái tư tưởng mua mâm thì đâm cho thủng hiện rất rõ khi dân Việt ta vào khách sạn, vậy nên rất nhiều bi hài đã xảy ra. Với quan niệm tao đã thuê thì nó là của tao, có ông ngồi táy máy cả buổi nghiên cứu bật tắt tất cả các loại công tắc, cho đến nửa đêm thì phát hiện còn một cái đèn tranh chưa bật, thế là reo lên bật bằng hết. 
Dùng bàn ủi cá nhân cắm vào phích mà ở đấy nó đã tính rất kỹ để anh không thể dùng bàn ủi, thế là phụt, cháy cầu chì. Tiền đền cầu chì quá tiền keo kiệt thuê người ủi. Không biết chữ nên không phân biệt được loại nào miễn phí loại nào trả tiền trong phòng tắm, cứ xé ra xài vô tội vạ đến lúc nó tính tiền cho mặt méo như quai bị. Có anh đi Thái, khách sạn để bao cao su loại xịn ở tủ đầu giường. Anh này không dùng nhưng… thủ mang về. Lúc xuống trả phòng, nhân viên khách sạn tính tiền, mọi người đi cùng mới trố mắt: xài gì nhiều dữ vậy cha? Anh này vội lục va ly tìm gói bao cao su… trả lại.
Lại còn cái nạn… mì tôm. Đồn nhau ra nước ngoài thì phải mang mì tôm. Mà khổ, đi học hay công tác dài hạn không nói, đây đi du lịch theo tour, nó lo từ A đến Z, no kềnh no càng, nhưng đã mang rồi thì phải ăn. Thế là lọ mọ như cú suốt đêm, phân công nhau người thì ăn cắp tô, người thì giấu thìa… tối về xì xụp chan chan húp húp…
Tôi có dự một cuộc mì tôm như thế. Lần ấy chúng tôi đi Malaixia, đến khu du lịch Genting và ở khách sạn 11.000 phòng. Khách sạn tất nhiên là rất xịn, nó tính toán chi li để không thừa và cũng không thiếu cái gì phục vụ khách. Tất nhiên là không có khoản… mì tôm. Nhưng quân ta thì cứ phải là mì tôm. Thế là mấy ông lọ mọ run rẩy (vì sợ lạc giữa cái trận đồ bát quái 11.000 phòng) lần mò đi xuống nhà hàng mượn tô và thìa. Không có, thế là lấy trộm ly giấy và ống hút. Về làm mì trong ly giấy rồi lấy ống hút nhựa ấy thay… đũa. 
Nhễ nhã ăn quá thợ cày thợ hồ thế mà ông nào ông nấy hể hả như là vừa được… trả thù dân tộc. Ngay một số chủ khách sạn ở mấy thành phố du lịch nước ta mà tôi quen, họ cũng bảo phục vụ khách Tây sướng hơn, bởi Tây nó biết điều hơn. Người Việt đã vào là hành đủ thứ, từ sáng sớm đến đêm khuya, lúc nào cũng gọi được, có khi chỉ là những việc rất sơ đẳng, rất ngẫu hứng và hoạnh họe với tâm lý ông chủ
Cũng mới đây tôi chứng kiến mấy người vào nhà hàng kêu một con nhím, hẹn là đánh tiết canh và hấp. Nhân viên mang xuống bếp cắt tiết rồi làm dưới ấy thế là bị quát ầm lên, bảo là tao hẹn mang lên cắt tiết tại bàn mà. 
Và cương quyết từ chối không ăn dù nhân viên nói hết lời, xin lỗi hết lời. Không biết tự bao giờ cái tâm lý không tin nhau, tâm lý ông chủ bắt nạt nhau khi mình có tiền nó khiến con người đổ đốn ra thế. Tôi biết hôm ấy cu nhân viên kia phải bỏ tiền ra đền con nhím khách hàng kêu mà không ăn kia. Sau đấy tôi thấy mấy ông ấy gọi rau và cơm và lặng lẽ cúi đầu ăn rất gượng gạo. Cái tâm lý mua mâm thì đâm cho thủng của người Việt nó cứ hừng hực ở mọi nơi mọi chỗ như thế…
Đang viết bài này thì có ông bạn vào chơi, ông này kể làm cùng chỗ với một quan chức hàm tỉnh, tay này có tính rất lạ là… tham. Suốt đời đi nhậu không bao giờ rút ví, nhưng cứ gần hết tiệc thì kêu thêm chai Chivas, rót ra nửa ly uống tại chỗ xong rồi… xách về. Chưa hết, tiện thể kêu thêm vài gói thuốc…
Rất nhiều người Việt có lòng tự trọng đi ra nước ngoài về phải viết báo mà kêu lên rằng, họ rất xấu hổ, đau đớn, thậm chí thấy nhục khi gặp đồng bào mình cứ hồn nhiên mang vác thứ văn hóa kỳ lạ của riêng họ mà xuất ngoại. Thế nên, trách người một, về việc kỳ thị người Việt, thì ta cũng nên nhìn lại mình, trách mình hai, về những gì mà mình mang ra phô với thế giới…
Nguồn: blog Văn Công Hùng
Publié par Anonyme à dimanche, avril 28, 2013

Friday, August 30, 2019


Thói hư tật xấu của người Việt (7/7)

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
Thói hư tật xấu của người Việt (7)

Lười nhác, ốm yếu
(Phan Bội Châu, Bàí diễn thuyết tại trường Quốc học Huế, 1926)
Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu Châu ập vào, người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn chưa nghiên cứu đến nơi. Cái căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đãng tính dâm dê(1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải cách nào là công khóa2) về đường thể thao, nào là lợi ích về cách vận động. Trong một ngày có 12 giờ nửa ngồi chết trước cuộc tài bàn(3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện. Vận động đã không có công phu thì huyết mạch lấy gì làm lưu thông, huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi, dân mới hóa ra dân nô lệ, nước mới hóa ra nước bạc nhược.
(1) thói đãng là cách sống buông thả, riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu được, không rõ có phải là dàm dê hay không?
(2) những công việc khi vào học phải làm là công, những học trò phải học là khóa, gọi chung là công khóa (Theo Đào Duy Anh , Hán Việt từ điển).
(3) một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục).

Đầy rẫy tệ nạn
(Đỗ Đức Dục, vấn đề tổ chức những thì giờ nhàn rỗi của người bình dân ở xứ ta, Thanh Nghị, 1945)
Thử nhìn vào đám dân quê dư dật xem họ có việc gì, ta thấy ngoài công cuộc làm ăn, họ chỉ còn quân bài lá bạc thuốc phiện hay cô đầu. Đám dân nghèo cũng vậy, không phải là họ không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ đen, hòng kiếm thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ. Thành ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng như nghèo, không to thì nhỏ, cờ bạc đã trở nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho dân tộc ta vậy.
Ngoài ra nếu không cờ bạc thì người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm nhí, từ đó sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
Không có ham muốn phiêu lưu (Văn minh tân học sách, 1904)
Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy. Nước ta có thể không? Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! Ở lữ thứ(1) vài năm đã than thở quan hà đầu bạc(2). Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao Miên không ai chịu đặt chân tới nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện giao tế, cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương(3) cả.
(1) lữ thứ: nhà trọ, chỗ xa lạ.
(2) quan hà: cửa ải và sông, quan hà đầu bạc chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu khiến người ta già đi.
(3) thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ phủ Quảng Đông, chứ không phải Quảng Đông nói chung như một số tài liệu đã chú.

Vay mượn cẩu thả thêm thắt tuỳ tiện
(Nguyễn Văn Vinh, Tật huyền hồ sáo hủ, 1913)
Ngày nay có cải lương (1) gì thì sợ rằng trái đạo lý cũ của mình. Đạo lý cũ của mình là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà cúng phải tìm trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên Tàu các õng ấy khóc cha ra làm sao, thì cứ thế mà khóc. Gián hoặc (2) trong hai cách có điều gì khác nhau thì cũng biết vậy, lúc tung việc thì vớ được quyển nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo một lệ não đó, thì là nhà có văn phép.
Trong cả các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước nhưng cách vô lý. Tấn tuồng thì lấy trong các sự tích của Tàu mà lúc Ta hát thì quên cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân được chỗ nào hát được mấy câu nam thì nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi.hài thì khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, thì làm mãi.
(1) cũng tức là cải cách.
(2) giá như.
(3) thời tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian.
(4) nam: vốn được hiểu là những gì mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành nôm. Và chữ nam thứ hai thì dùng như một động từ.

Gọt chân cho vừa giày
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950)(*)
Vô luận là vấn đề gì, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung Quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì. Trái lại, cái gì của Trung Quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta. Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng, một nhà triết học nào. Chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
(*) Đây là một cuốn sách mỏng, do nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết và xuất bản ở Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chứ không phải Việt Nam văn hóa sử cương của tác giả in lần đầu 1938.

Cái gì cũng giả
(Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)
Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Vệt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.
Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả dê.
Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra.

Những cuộc khao vong nặng nề vô nghĩa
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàm... đều phải khao vọng. Nhà vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài thì khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền. Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ ra mà làm thì họ cung phải chịu, nhưng tình ý không thỏa hiệp thì họ sinh ra lắm sự ngăn trở. Họ có câu rằng "Phép vua thua lệ làng" thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục, động ai có việc gì mới mọc đến ăn uống no say rỗi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng lọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết trời đất là đâu, người sự ăn uống không còn có sự nghiệp gì, như thể thì trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược?

Tài hèn trí đoản, bán quẩn buôn quanh
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc, mà quanh năm chí tối bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu(1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc có cơ tấn tới cũng phải tan không thành nữa.
(1) tức có kết quả.

Bôi bác, giả dối
(Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, năm 1994)
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: qùa muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách, còn cái phẩm có tất hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất te bột, nặn xuề xòa để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc(1) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều -nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó lấy nhiều hoa mắt người ta được. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thức giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
(1) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.

Cần mẫn một cách bất đắc dĩ
(Nguyễn Văn Tĩnh, Xét tật mình, Đông Dương Tạp chí số 12)
Dân An Nam ta có nhiều tật xấu, duy có một tật làm biếng là không ai trách được (1). Chỉ hiềm một điều làm ăn thì cần mẫn, nhưng lại không coi cái cần mẫn ấy là vinh hiển, tựa hồ như một điều bất đắc dĩ phải làm thì làm, chớ không có gì vẻ vang. Hồ (2) nhờ được cày cuốc mà có dư ra thì lo ngay danh miệng(3). Đến lúc lên được ông nọ ông kia, mà có ai nhắc đến phận cày phận cuốc khi xưa thì xem hình như người ta xỉ vả mình.
Cái lý tường sai ấy là do trong bọn thượng lưu, trong các nhà chữ nghĩa lấy cái nhàn làm cái hân hạnh. Chỉ có dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều, còn gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra, không nghĩ đến.

(1) ý nói phải nhận là người chăm chỉ.
(2) nếu, giả như.
(3) tiếng hão.

Không thiết chuyện gì
(Phạm Huỳnh, Hoàn cảnh, Nam phong, 1924)
Người nước ta, đối đãi với nhau một cách nghiêm khắc, trách bị nhau những chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, một tiểu lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không thiết chuyện gì: phàm những sự nghiệp lớn lao, những chủ nghĩa cao thượng cho là viển vông, không biết đem lòng ham chuộng, không biết dốc chí theo đuổi.
Tật thứ nhất của dân mình là hay xét nét. Bới lông tìm vết, người nọ dùng trí khôn để dò xét người kia. Xã hội như cái sa-lông, đông khách ngồi, nhưng cứ rụt rè mà nhìn nhau, ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị, không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng thú.

Trống rỗng tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đời sống và khung cảnh An Nam, Báo L’Annam Nouveau, năm 1934)
Trong sự bày biện của chúng ta thiếu hẳn sự hợp lý. Sự thiếu hợp lý này có đôi khi mang lại tính chất muôn màu muôn vẻ mà ờ những nước hiện đại không thể có: họ mắc chứng rập khuôn hàng loạt.
Thế nhưng rút lại thì ở ta cái ấn tượng chung vẫn là một bức toàn cảnh tầm thường. Con người trì trệ, quần áo đồ đạc cũ kỹ và đáng sợ hơn cả là người ta luôn luôn gặp những khung cảnh đẹp mà bên trong rỗng tuếch, những trang trí sặc sỡ tham gia vào một vở kịch nhạt nhẽo, cái nọ triệt tiêu cái kia, do đó mà chỉ có những vai phụ ra múa may để làm ra vẻ đang đóng những vai chính.

Nông nổi, hời hợt
(Thạch Lam, Theo dòng, năm 1941)
Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung là nông nổi, hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.
Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì tha thiết và cũng chẳng dám ghét cay đắng, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no.

Đối với những tư tưởng lớn chỉ hiểu sơ sài
(Nguyễn An Ninh, Lý tưởng của thanh niên An nam, năm 1924)
Thu nhặt tất cả những gì về văn chương nghệ thuật đã được làm ra trên đất nước ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng manh so với các dân tộc khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành một chỗ đứng trên thế giới.
Những tác phẩm đã đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người Trung Quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, hình như các ông ấy chỉ biết mỗi một mình Khổng Tử.
Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đã gây tai hại: Các nhà Nho ta muốn Khổng hóa tất cả những gì nằm trong tầm mắt của họ, giải thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp hòi của họ.
Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hóa Trung hoa còn rất xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đã hiểu thấu đáo văn hóa Trung Hoa có đủ trình độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của văn hóa Pháp.

Tín ngưỡng xen lẫn hoài nghi
(Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam, năm 1944)
Tín ngưỡng của người Việt không có tính cách đơn thuần. Họ nhận thức rằng trong vũ trụ có những lực lượng có thể nguy hại tới họ, nên họ tìm cách ngăn ngừa. Không rõ các lực lượng âm thầm tác động ra sao nên họ tế lễ để cầu yên. Đối với họ, ông thánh nào cũng thiêng, ông thần nào cũng mạnh, Phật tổ Lão tổ đều là bậc thánh thần cả, bởi vậy họ phải kiêng sợ mà lễ bái để cầu lợi lộc. Thực ra, trong trí họ vẫn lởn vởn ít nhiều ngoài nghi. Đem chứng nghiệm với cuộc đời thực, họ thấy uy quyền của Thần Phật có mà cũng lại không. Thái độ lưng chừng và thiết thực làm họ dung hòa được các tôn giáo. Họ không có một tín ngưỡng vững chắc nào
Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

Thursday, August 29, 2019


Thói hư tật xấu của người Việt (6/7)

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
Thói hư tật xấu của người Việt (6)

Từ chối mọi cuộc cải cách
(Nguyễn Văn Huyên vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ năm 1939)
Tầng lớp trên ở nông thôn, các kỳ mục(1) trong làng, phản đối mọi cuộc cải cách thực sự và sâu sắc. Đây là những người đã trả giá trong hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm để củng cố địa vị xã hội của mình. Họ đã ở tuổi có thể bình thản ngồi xếp bằng trên những manh chiếu trải giữa đình để đánh giá cung cách người ta phục vụ họ ăn uống ra sao. Nếu có ai dám nghĩ đến chuyện thực hiện một cuộc cải cách nào đó thì người ấy chắc chắn chuốc lấy những mối hiềm thù không thương xót.
(1) những người có điển sản hoặc từng có phẩm hàm và chức vụ tập hợp lại làm nên hội đồng kỳ mục, có nhiệm vụ đề ra các chủ trương chung của làng xã.

Không hình thành nổi một dư luận sáng suốt
(Vũ Văn Hiền việc cai trị ở thôn quê, năm 1945)
Ngoài tinh thần độc tôn bè đảng, còn một trở lực nữa ngăn cản mọi công việc cải cách ở thôn quê tà dư luận trong làng, một thứ dư luận mạnh mẽ, ác nghiệt và mù quáng. Nhiều việc cải cách đã quyết định rồi đành bỏ dở chỉ vì người thừa hành sống trong làng xóm, không thể chịu đựng được những dị nghỉ chế giễu mà hàng chục hàng trăm người nhắc lại ở khắp đầu làng cuối ngõ. Đã không có quyền bắt mọi người im, lại sống luôn với những người đó, hương chức tránh sao nổi ảnh hưởng của dư luận và sau vài ba tháng làm việc, người hăng hái đến đâu cũng đành “dĩ hòa vi quý", bỏ hẳn những ý định của mình để sống theo nếp cũ.

Sự tự do, cam chịu bất công
(Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, 1939)
Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa. Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến lũy tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.
Tục vị thứ hóa ra tục sùng bái nhân tước (1) một cách u ám đê hèn, và thay vào óc kính thượng là một óc nô lệ đáng khinh.
Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường. Cũng vì thiếu tự do - nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu - nên tình cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực. Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.
(1) Vị thứ tức ngôi thứ trong làng, nhân tước là những tước vị do con người đặt ra.

Thù ghét mọi sự thay đổi
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử đại cương, 1950)
Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây dựng được những công trình huy hoàng phong phú. Chúng ta chỉ cốt sống được, và trong địa hạt sinh hoạt vật chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái gì có thể giúp cho mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt, để theo đuổi một cuộc sống tầm thường kín đáo mà thôi. Bởi thế nếu thỉnh thoảng có một người nào có khí độ phóng khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài vòng lề lối - mới vượt ra ngoài chứ chưa chắc đã xây dựng được cái gì mới - thì xã hội đã xem là quái vật mà không dung. Hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện được một cái gì to lớn phi thường như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà Nội(1) chẳng hạn thì cái mái nặng nề của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng tối mò của gian chính tẩm(2). Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ(3) ấy thường bị cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
(1) pho tượng này cao 3, 95m, đặt ở chùa Quán Thánh.
(2) gian nhà to rộng ở giữa.
(3) bày ra kế lạ, có những tư tưởng mới mẻ.

Tưởng nói thật mà hóa ra nói dối
(Hoài Thanh, Thành thực và tự do trong văn chương, 1936)
Văn chương ta từ trước từ nay vì bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên(1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.
(1) trong xã hội học có sự phân biệt giữa cái tưởng là sự thật, đang được một người trong xã hội công nhận và các sự thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo, ở đây ý nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.

Hợm hĩnh quá đáng
(Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hãn ở nước ta, 1939)
Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác(1) ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ.
Lê Thánh Tông phê bình hai câu thơ của Thân Nhân Trung quan đại học sĩ tại triều mình "Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn cảnh - Hàn giang thi lạc dạ tam canh" hợm hĩnh cho rằng dù Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức(2)... cũng vị tất đã nghĩ được ra.
Gần này người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều(3): "Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán - Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường".
Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn đáng gọi là thịnh hơn các triều khác, nhưng nếu bảo vượt qua cả Hán Đường thì quá lố!
Những lời tự khoe ấy cần phải cải chánh.
(1) Thác giác: lầm tưởng.
(2) Các thi hào nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung quốc.
(3) tức triều Nguyễn.

Tinh thần voi nan
(Xuân Diệu, sinh viên với quốc văn, đầu năm 1945)
Còn những tật xấu riêng của người Việt ta là gì? Chỉ cần kể ra đây một cái tật đại biểu, cái tật to lớn nhất, rõ rệt nhất, có hại nhất là cái tinh thần mà tôi gọi là: tinh thần voi nan. Phải, những con voi to lớn lắm, có đủ chân đủ vòi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài bằng giấy. Trong kinh tế những cái “imprimene" hay "boulangene universelle"(1) chẳng hạn là những cái nhà có dăm mươi thợ làm, những đại thương cục(2) là những hiệu bán một ít khăn quàng bít tất, thì trong văn chương nhiều quyển sách là những sự bôi phết qua loa chẳng đủ tài liệu mà cũng chẳng nói ra được điều gì mới lạ. Mấy năm nay, các bạn chắc cũng bị cái mã khảo cứu nó đánh lừa, mua quyển sách về được cái bìa là có ý nghĩa.
Một bản dịch "Ly tao" mà đem điệu Sở từ dịch qua loa ra lục bát là voi nan. Một tập sách nói nhảm dông dài mà gọi là tiểu thuyết, một quyển sách gọi là "Hát dặm Nghệ Tĩnh” mà chỉ góp nhặt những bài hát dặm vài huyện Nghi Xuân Can Lộc tại Hà Tĩnh, chứ chẳng thấy tỉnh Nghệ An ở đâu: đều là voi nan cả. Voi nan đề lừa độc giả, voi nan để làm tiền, kể làm sao xiết voi nan!
(1) Tiếng Pháp chỉ các nhà in, các cửa hàng bánh mì lớn.
(2) giống như các trung tâm nọ trung tâm kia thời nay.

Co mình trong hủ lậu
(Văn minh tân học sách, 1904)
Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ(1), bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thủy ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm gì. Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tý được cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo(2), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh. Hạng kém hơn nữa thi chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác. Có một ông nào đã nói với các bạn hậu tiến(3): "Các thầy muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới”, nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chớ đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thể thiệt nên lấy làm đau đớn!
(1) đầu hồ: một trò chơi của người xưa, ném một cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được "Đại Nam quốc âm tự vị” miêu tả là "một cuộc chơi lịch sự”.
(2) thế đạo: đạo lý ở đời.
(3) hậu tiến: đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc thế hệ sau, chữ không phải người kém cỏi.

Văn chương nặng về chơi bời đùa giỡn
(Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta, 1939)
Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng(1). Có những người nổi tiếng mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để đi thù phụng thiên hạ. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường một cách “jeu de mots"(2) mà thôi, thì cũng chẳng quá nào!
(1) thứ văn thơ làm khi giao tiếp khoản đãi nhau.
(2) chơi chữ.

Lười biếng và hay nói hão
(Xuân Diệu, Sinh viên với quốc văn, 1945)
Tật đầu sổ là tật lười, tật làm biếng. Lười suy nghĩ thích nhàn nhã, thích ngồi không. Nếu máu chúng ta chạy mạnh thì tất chúng ta phải xung xăng làm cái nọ cái kia chớ vô vi thì chịu sao nổi. Vậy thì trong văn học thôi ta đừng dùng cái khẩu khí hát cô đầu nữa mà phải thế này: cúc cung tận tuỵ.
Thứ hai là tật "một tấc đến giời". Ngồi mà thanh tịnh vô vi thì dễ hiểu vũ trụ lắm: Ta cho vũ trụ là thế nào thì vũ trụ sẽ thế ấy chớ chi. Nhưng sự thật là ta phải đi nghiên cứu tìm tòi mới hiểu vũ trụ được. Một tật nữa là não(1) huyền hoặc, não chuộng thần quyền. Gần đây trong thơ văn có cái mốt nói chuyện Liêu Trai. Có những thi sĩ nhất định lấy hồ ly làm vợ và nếu buông cụ Bồ Tùng Linh ra thì họ không biết nói gì.
(1) não ở đây là một lối suy nghĩ, nay hay thay bằng "óc”

Trọng mê tín và xem nhẹ trách nhiệm với xã hội
(Nguyễn Trường Tộ(*), Tám việc cần làm gấp 1867)
Trong dân gian, phần nhiều hễ có công sai đến thúc giục thuế khóa thì cả hương hào lý dịch cũng lánh mặt. Thế mà ngày cúng thần thì không thiếu mặt nào cả. Có những gia đình không được khá giả, qua một kỳ cúng thần mang nợ suốt đời. Có người còn phải bỏ xứ đi phiêu tán. Thế mà họ không hề oán trách chuyện thần thánh phiền phức, lại đi oán trách sưu cao thuế nặng.
(*) Nguyễn Trường Tộ thuộc thế kỷ XIX, nhưng về tư tưởng gần với các trí thức thế kỷ XX, nên xin phép được đưa vào đây.

Khổ vì hội hè
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, 1915)
Xét cái tục hội hè của ta, rước xách rất phiền phí, ăn uống rất lôi thôi, chơi bời rất chán chê, tiêu pha rất tốn kém, thực là hại của mà lại mua lấy cái khó nhọc vào mình. Đã đành mở hội trước là trọng việc sự thần (1), sau là cầu vui cho dân, nhưng trong mà rước xách tế bái lắm hóa ra khổ. Hội đến hàng tháng, chịu làm sao cho được?
Vả lại đã gọi là hội, trừ ra việc đóng góp, việc ăn mặc cũng đã tốn kém nhiều rồi, còn ngần nào chơi bời, ngần nào cờ bạc, con em bỏ công bỏ việc ở nhà để đi hội, chẳng những vô ích mà lại hại thêm cho làng nữa.
…Xưa nay chỉ mấy người hào trưởng (2) trong làng sính mớ hội vì họ có nhiều món lợi riêng, như mở tổ tôm điểm, bài phu điểm (3), hoặc gá bạc để lấy hồ (4)… Họ mượn tiếng sự thần, kỳ thực lá cầu tư lợi. Mà khốn nạn cho dân đàn em lại phần nhiều là ngu xuẩn, nói đến việc sự thần không ai dám gàn trở gì nữa, dẫu khổ cực thế nào cũng phải nhắm mắt chịu. Nếu ai gàn trở thì sợ thần quật chết tươi. Mà thần chẳng quật, bọn hào trưởng cũng quật, tội nghiệp!
(1) sự ở đây là thờ phụng.
(2) người có thế lực trong làng.
(3) những địa điểm ăn chơi, bài phu cũng là một loại bài lá như bài bất bài cào…
(4) tiền người đánh bạc nộp cho chủ sòng gọi là hồ.

Nạn “thần mãn”
(Ngô Tất Tố, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông thần nào đã - báo Thời vụ 1938)
An Nam vốn là một nước nhiều thần nhất thế giới. Cái vạ thần mãn(1) kéo dài mấy trăm mấy ngàn năm nay làm hại bao nhiêu trâu bò gà lợn... của chúng ta. Đành rằng cũng có nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ niệm, song cũng vô số thần cực kỳ bẩn thỉu dơ dáy, thí dụ như ông thần Cường Bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải đầy đi Côn Lôn. Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan cho cái đầu cái cổ.
(1) quá nhiều thần, thừa thần,cũng như nạn nhân mãn là quá nhiều người, thừa người.

Mê muội hưởng lạc
(Nguyễn Trường Tộ, tám việc cần làm gấp, 1867)
Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than vãn, thế mà đến sòng bạc thì cầm nhà bán cửa không tiếc. Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết...
Cũng có nhiều người mới học kha khá đã truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng "Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường(1) thì mọi việc sẽ đâu vào đấy". Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quan trộm cướp của công chứ còn gì?
(1) tức là thi đỗ, rồi ra làm quan tha hồ kiếm chác.
Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009