Thói hư tật xấu của người Việt (7/7)
Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
Thói hư tật xấu của người Việt (7)
Lười nhác, ốm yếu
(Phan Bội Châu, Bàí diễn thuyết tại trường Quốc học Huế,
1926)
Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã
thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu Châu ập
vào, người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn
chưa nghiên cứu đến nơi. Cái căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều
điều thói đãng tính dâm dê(1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự
thường, không lo đường cải cách nào là công khóa2) về đường thể thao, nào là lợi
ích về cách vận động. Trong một ngày có 12 giờ nửa ngồi chết trước cuộc tài
bàn(3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện. Vận động đã không có công phu thì huyết
mạch lấy gì làm lưu thông, huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi,
dân mới hóa ra dân nô lệ, nước mới hóa ra nước bạc nhược.
(1) thói đãng là cách sống buông thả, riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu
được, không rõ có phải là dàm dê hay không?
(2) những công việc khi vào học phải làm là công, những học trò phải học là
khóa, gọi chung là công khóa (Theo Đào Duy Anh , Hán Việt từ điển).
(3) một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả
(theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục).
Đầy rẫy tệ nạn
(Đỗ Đức Dục, vấn đề tổ chức những thì giờ nhàn rỗi của
người bình dân ở xứ ta, Thanh Nghị, 1945)
Thử nhìn vào đám dân quê dư dật xem họ có việc gì, ta thấy ngoài công cuộc
làm ăn, họ chỉ còn quân bài lá bạc thuốc phiện hay cô đầu. Đám dân nghèo cũng vậy,
không phải là họ không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ
đen, hòng kiếm thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ. Thành
ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng như nghèo, không to thì nhỏ, cờ bạc đã trở
nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho
dân tộc ta vậy.
Ngoài ra nếu không cờ bạc thì người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm
nhí, từ đó sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
Không có ham muốn phiêu lưu (Văn minh tân học sách, 1904)
Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng
Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy. Nước ta có thể
không? Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! Ở lữ thứ(1) vài năm
đã than thở quan hà đầu bạc(2). Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao
Miên không ai chịu đặt chân tới nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ
cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện giao tế,
cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội
bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương(3) cả.
(1) lữ thứ: nhà trọ, chỗ xa lạ.
(2) quan hà: cửa ải và sông, quan hà đầu bạc chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu
khiến người ta già đi.
(3) thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ phủ Quảng Đông, chứ không phải Quảng
Đông nói chung như một số tài liệu đã chú.
Vay mượn cẩu thả thêm thắt tuỳ tiện
(Nguyễn Văn Vinh, Tật huyền hồ sáo hủ, 1913)
Ngày nay có cải lương (1) gì thì sợ rằng trái đạo
lý cũ của mình. Đạo lý cũ của mình là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà
cúng phải tìm trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên
Tàu các õng ấy khóc cha ra làm sao, thì cứ thế mà khóc. Gián hoặc (2) trong hai
cách có điều gì khác nhau thì cũng biết vậy, lúc tung việc thì vớ được quyển
nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo một lệ não đó, thì là nhà có văn phép.
Trong cả các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước nhưng
cách vô lý. Tấn tuồng thì lấy trong các sự tích của Tàu mà lúc Ta hát thì quên
cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân được chỗ nào
hát được mấy câu nam thì nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi.hài thì khôi
hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, thì làm mãi.
(1) cũng tức là cải cách.
(2) giá như.
(3) thời tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian.
(4) nam: vốn được hiểu là những gì mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành
nôm. Và chữ nam thứ hai thì dùng như một động từ.
Gọt chân cho vừa giày
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950)(*)
Vô luận là vấn đề gì, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung Quốc giải
quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho
xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì. Trái lại, cái gì của
Trung Quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm lại cô lại
cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta. Bởi thế chính trong thời kỳ toàn
thịnh của nho học nước ta, tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng, một nhà
triết học nào. Chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà
cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất
mãn với đạo lý xa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
(*) Đây là một cuốn sách mỏng, do nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết và xuất bản ở
Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chứ không phải Việt Nam văn hóa
sử cương của tác giả in lần đầu 1938.
Cái gì cũng giả
(Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)
Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Vệt Nam sản ra những bọn
người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng
người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.
Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước
An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả
trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với
đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả
dê.
Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay
gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác
chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều
hạng người giả từ đấy mà ra.
Những cuộc khao vong nặng nề vô nghĩa
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàm... đều phải khao
vọng. Nhà vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú
tài thì khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một
con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền. Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ
ra mà làm thì họ cung phải chịu, nhưng tình ý không thỏa hiệp thì họ sinh ra lắm
sự ngăn trở. Họ có câu rằng "Phép vua thua lệ làng" thực là một lời
nói đáng khinh bỉ.
Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục, động ai có việc gì mới mọc đến ăn uống no say
rỗi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm
rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm
hà hậm hực, tiếng lọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết trời đất là đâu, người sự ăn
uống không còn có sự nghiệp gì, như thể thì trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước
chẳng nhược?
Tài hèn trí đoản, bán quẩn buôn quanh
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều
cớ. Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một
xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ
một bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, thì chẳng qua Hà Nội xuống
Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến
Lào Cai, Yên Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những nước độc ma
thiêng, hoặc là phong ba bất trắc, mà quanh năm chí tối bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu(1) ngay được đâu.
Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì đã ngã lòng
ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc có cơ tấn tới cũng phải tan
không thành nữa.
(1) tức có kết quả.
Bôi bác, giả dối
(Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, năm 1994)
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: qùa muốn bán cho rẻ và nhiều,
thích thế để xiêu lòng khách, còn cái phẩm có tất hay không, không quan tâm đến.
Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và
một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất te bột, nặn xuề xòa để trông
càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ
bàng nhạc(1) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ.
Nước cũng rất nhiều -nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước
bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó lấy nhiều
hoa mắt người ta được. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối
người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thức giản
dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến,
làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
(1) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
Cần mẫn một cách bất đắc dĩ
(Nguyễn Văn Tĩnh, Xét tật mình, Đông Dương Tạp chí số 12)
Dân An Nam ta có nhiều tật xấu, duy có một tật làm biếng là không ai trách
được (1). Chỉ hiềm một điều làm ăn thì cần mẫn, nhưng lại không coi cái cần mẫn ấy
là vinh hiển, tựa hồ như một điều bất đắc dĩ phải làm thì làm, chớ không có gì
vẻ vang. Hồ (2) nhờ được cày cuốc mà có dư ra thì lo ngay danh miệng(3). Đến
lúc lên được ông nọ ông kia, mà có ai nhắc đến phận cày phận cuốc khi xưa thì
xem hình như người ta xỉ vả mình.
Cái lý tường sai ấy là do trong bọn thượng lưu, trong các nhà chữ nghĩa lấy
cái nhàn làm cái hân hạnh. Chỉ có dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều,
còn gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra, không nghĩ đến.
(1) ý nói phải nhận là người chăm chỉ.
(2) nếu, giả như.
(3) tiếng hão.
Không thiết chuyện gì
(Phạm Huỳnh, Hoàn cảnh, Nam phong, 1924)
Người nước ta, đối đãi với nhau một cách nghiêm khắc, trách bị nhau những
chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, một tiểu lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không
thiết chuyện gì: phàm những sự nghiệp lớn lao, những chủ nghĩa cao thượng cho
là viển vông, không biết đem lòng ham chuộng, không biết dốc chí theo đuổi.
Tật thứ nhất của dân mình là hay xét nét. Bới lông tìm vết, người nọ dùng
trí khôn để dò xét người kia. Xã hội như cái sa-lông, đông khách ngồi, nhưng cứ
rụt rè mà nhìn nhau, ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị,
không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng thú.
Trống rỗng tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đời sống và khung cảnh An Nam, Báo L’Annam Nouveau, năm 1934)
Trong sự bày biện của chúng ta thiếu hẳn sự hợp lý. Sự thiếu hợp lý này có
đôi khi mang lại tính chất muôn màu muôn vẻ mà ờ những nước hiện đại không thể
có: họ mắc chứng rập khuôn hàng loạt.
Thế nhưng rút lại thì ở ta cái ấn tượng chung vẫn là một bức toàn cảnh tầm
thường. Con người trì trệ, quần áo đồ đạc cũ kỹ và đáng sợ hơn cả là người ta
luôn luôn gặp những khung cảnh đẹp mà bên trong rỗng tuếch, những trang trí sặc
sỡ tham gia vào một vở kịch nhạt nhẽo, cái nọ triệt tiêu cái kia, do đó mà chỉ
có những vai phụ ra múa may để làm ra vẻ đang đóng những vai chính.
Nông nổi, hời hợt
(Thạch Lam, Theo dòng, năm 1941)
Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung là
nông nổi, hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta
không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết
được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.
Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những
tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì
tha thiết và cũng chẳng dám ghét cay đắng, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo
lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi,
giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm
no.
Đối với những tư tưởng lớn chỉ hiểu sơ sài
(Nguyễn An Ninh, Lý tưởng của thanh niên An nam, năm
1924)
Thu nhặt tất cả những gì về văn chương nghệ thuật đã được làm ra trên đất nước
ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng manh so với các dân tộc
khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành
một chỗ đứng trên thế giới.
Những tác phẩm đã đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người
Trung Quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, hình như các ông ấy chỉ biết
mỗi một mình Khổng Tử.
Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đã gây tai
hại: Các nhà Nho ta muốn Khổng hóa tất cả những gì nằm trong tầm mắt của họ, giải
thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp hòi của họ.
Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hóa Trung hoa còn rất
xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đã hiểu thấu đáo văn hóa Trung Hoa có
đủ trình độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến
nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của văn hóa Pháp.
Tín ngưỡng xen lẫn hoài nghi
(Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam, năm 1944)
Tín ngưỡng của người Việt không có tính cách đơn thuần. Họ nhận thức rằng
trong vũ trụ có những lực lượng có thể nguy hại tới họ, nên họ tìm cách ngăn ngừa.
Không rõ các lực lượng âm thầm tác động ra sao nên họ tế lễ để cầu yên. Đối với
họ, ông thánh nào cũng thiêng, ông thần nào cũng mạnh, Phật tổ Lão tổ đều là bậc
thánh thần cả, bởi vậy họ phải kiêng sợ mà lễ bái để cầu lợi lộc. Thực ra,
trong trí họ vẫn lởn vởn ít nhiều ngoài nghi. Đem chứng nghiệm với cuộc đời thực,
họ thấy uy quyền của Thần Phật có mà cũng lại không. Thái độ lưng chừng và thiết
thực làm họ dung hòa được các tôn giáo. Họ không có một tín ngưỡng vững chắc
nào
Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009
No comments:
Post a Comment