Thói hư tật xấu của người Việt (5/7)
Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
Thói hư tật xấu của người Việt (5)
Trì trệ và bất lực
(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa
lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút
hoạt lực(1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã
chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đã lấy cái học bã giả(2)
của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không
cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.
…"Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về
cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản
xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng
không chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp
Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có
tính chất cấp tiến.
(1) sức sống.
(2) thường nói bã chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và
nát ngấu nhão nhoẹt.
Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường
(Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)
Danh dự là có tài có đức có công nghiệp(1) có khí tiết thật, còn kẻ chạy
theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen
chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy thì tất là lộn sòng về cái chân giá
trị. Nào trong xã hội mấy ai là người biết cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm
cái hư vinh là cái danh dự thực! Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai, hỏi quỷ
ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm
vóc, hỏi cái gì là sướng , tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ thu tiền. Rồi xu
phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết người tợn tâng công
khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần thế lo gì cũng xong
xin gì cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông nọ,
em lâm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng(2) ngôi thứ, ấy là vẻ
vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như thế, trăm người đều
như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nới!
(1) cũng tức là sự nghiệp.
(2) nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi thứ.
Thiết thực nhưng lại phù phiếm
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)
Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa
nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà
giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý(1). Phần nhiều
người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích
thành sáo(2) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị
não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà
phán đoán thường có vẻ thiết thực.
Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang
trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Não sáng tác(3) thì ít,
nhưng mà bắt chước, thích ứng , dung hoà thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng
lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.
(1) tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết.
(2) những gì đã quá quen.
(3) nói theo cách nói hiện thời, tức "sức sáng tạo" nói chung.
Hay tự ái và hiếu danh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải
chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở
nông thôn vấn đề thể diện có một tầm quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân
rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một
vị trí tốt giữa những người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa mãn tính
hiếu danh, họ chẳng lùi bước trước một điều gì. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và
các món ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ
cốt để có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại
bằng sắc nào đó.
Thói tục di truyền
(Huỳnh Thúc Kháng, Báo Tiếng dân, năm 1929)
Một là, học để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mà không khôn mới làm hết
được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó
mà thôi. Thế mà người mình có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan",
cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi
ra cách mới, mà người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan chủ chốt.
Hai là, làm quan ăn lót: Làm quan... cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm
cái lợi riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hưởng, tập
dữ tính thành(1) không ai cho là điều quái lạ hồ thẹn:
Balà, a dua người quyền quý. Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược
mà cũng tán rằng nhân đức. .. bất cứ việc gì người ra thế nào, đã là quyền quý
thì cứ nhắm mắt tán dương.
Bốn là, trọng xác thịt (2): Ngoài sự ăn sung mặc sướng ở yên ra, gần như không
có tư tưởng gì nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét Nghĩa
là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì
sinh lòng hâm mộ, dầu có hại nòi nát giống, mà đạt được mục đích thì cũng không
từ.
(1) làm quen mãi rồi thành ra một thuộc tính tự nhiên.
(2) tức là trọng vật chất.
Ỷ lại như một căn bệnh
(Lưu Trọng Lư, Một nền văn chương Việt Nam, năm 1939)
Tôi không nhớ vị Giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đã nói: “Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới,
không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn". Lời bình phẩm
có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì cái bệnh
ỳ lại đã ăn sâu vào trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
Không phải bây giờ mà từ bao giờ, ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ
ra mình là một giống người sống một cách lười biếng và cẩu thả (...) trong sự
ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn tư tưởng. Tự tử không hề cố gắng và
tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta, ta chỉ muốn hường thụ những của sẵn và
cam tâm làm kiếp con ve của thơ ngụ ngôn (1). Ta đã vay mượn của người
hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa. Hồi xưa kia chúng ta
là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, chưa có một lúc nào
chúng ta là những người Việt Nam cả.
(1) ý nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để sống
qua ngày Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn con ve và con kiến của La Fontaine, bản dịch
của Nguyễn Văn Vĩnh.
Ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ
(Phan Khôi, Luận về khí tiết, báo Hữu Thanh, năm 1923)
Sĩ phong (1) nước ta, suy đồi đi là tự
đời Lê Trung Hưng về sau. Lúc bấy giờ các Vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ Trịnh
dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh. Hóa
nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ Vua Lê để tránh tiếng phản quân,
thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong
lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục.
Một người như thế thì trăm nghìn người hùa theo, người trên như thế thì người
dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ,
mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi. Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con
bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự
trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hạt giống bị ẩm,
không còn nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên
đè xuống ở dưới(2) lên, làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Lòng
tham lợi mạnh hơn lòng tư kỷ(3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ, ưa cái
sống đục hơn cái thác trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.
(1) tương tự như một thứ khí hậu trên phương diện tinh thần.
(2) theo Tự vị An Nam Latin (1772 - 1773) đợ có một nghĩa cổ "trao của
tin cho ai”, ở đây đợ lên tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận.
(3) tự ý thức về cá nhân mình.
Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người
có tâm lý sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc
có đủ ruộng chỉ còn thích ăn không ngồi rồi.
Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm
bởi nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng
về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Sau
khi chất đầy trí nhớ các loại kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến
chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu
đựng cốt không để ai đó ganh ghét mà kiếm chuyện lại thôi. Hoặc là họ sa vào
thói chơi ngông đôi khi cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực
phát minh cũng như năng lực lập luận khoa học.
Có những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối
trá. Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị
kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị
săn đuổi, họ buộc phải bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy,
trong quan hệ với chính quyền trung ương họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc
lập thì cũng ương bướng bất phục.
Nặng óc hư danh
(Phạm Quỳnh,
Danh dự
luận, Nam phong, 1919)
Dân ta là dân rất hiếu danh, mà hiếu hư danh, tật đó dẫu người nông nổi xét
xã hội mình cũng đủ biết. Từ trên xuống dưới từ thấp chí cao, từ anh khố rách
trong làng cố cầu cạnh cho được chức trương tuần phó lý để được người ta khỏi gọi
là bố đĩ, bố cu cho đến bậc phú thương nơi thành thị thi nhau mà mua lấy tiếng
ông bá ông hàn để ra mặt thượng lưu trong xã hội, cậu cả cậu hai luồn lót hàng
chục hàng trăm để được gọi là thầy thông thầy phán, hết thảy đều như có cái ma
lực nó run rủi, phải cố chuốc lấy chút danh tiếng hão mới mãn nguyện.
Không có lòng danh dự mà có tính hiếu danh thời dễ táng thất lương tâm. Quỵ
lụy khúm núm trước mặt người trên, châu tuần(1) nơi quyền quý để cầu sự nọ, khấn
việc kia, ví phải đập đầu xuống đất mà lạy cũng cam tâm. Xét cái danh dự phổ
thông trung xã hội, cái danh dự hàng ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế(2),
thời phải chịu rằng người mình ít có thật.
(1) loanh quanh chầu chực nơi nào đó.
(2) quan hệ trao đổi tiếp xúc với nhau.
Sống không lý tưởng
(Hoa Bằng, Hư sinh, Tri Tân, 1943)
Có chí mà không làm nổi, đó là vì tài lực không đủ thật không đáng trách.
Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người sau: sống ở đời, không có mục
đích gì cao hết. Họ không có một cuộc đời lý tưởng. Họ không coi một thứ gì là
đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ
nhân cách.
Ngoài ra, lại còn một hạng cho ai cũng là người võ vị , việc gì cũng là việc
không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết
hãn (1) của cha, mẹ, vợ, con vào vòng trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức
khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói thâu canh. Họ chỉ cốt sống để
tìm những thỏa mãn về vật dục (2)...
(1) huyết: máu, hãn: mồ hôi, ngày nay hay nói mồ hôi nước mắt.
(2) mọi ham muốn vật chất.
Mong tìm yên lành, hóa ra bảo thủ
(Quốc dân độc bản, tài liệu do Đông Kinh Nghĩa thục soạn
năm 1907)
Trải qua các đời, dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể dùng
tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống còn. Trên có vua hiền tướng giỏi thì tạm
thời yên ổn. Bất hạnh là không có vua hiền tướng giỏi thì cả nước loạn ly, nhân
dân lầm than. Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được bình trị(1), mà có lắm cuộc
loạn ly, nguyên nhân là ở đó.
Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành thực, nhẫn nại. Không biết lợi dụng
những ưu điểm ấy thì sẽ sinh ra ba cái tệ. Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ.
Hai là dựa vào người mà không biết tự lập. Ba là yên thân mình nhà mình, mà
không biết ái quần ái quốc. Không trừ ba cái tệ đó thì dù có vua hiền tướng giỏi
cũng chỉ bình trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được.
Ngày nay phải nghĩ đến tự cường thì ngày sau mới tự cường được.
(1) xã tắc trong cảnh thái bình, có trên cô dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy.
Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009
No comments:
Post a Comment