Thói hư tật xấu của người Việt (1/7)
Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
Thói hư tật xấu của người Việt (1)
Vương Trí Nhàn
Báo Thể thao & Văn hóa
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu nước ta gặp nhau ở một ý tưởng
đồng thời với việc ca ngợi những truyền thống tốt đẹp, chúng ta phải sớm bắt
tay vào việc miêu tả và đánh giá những thói hư tật xấu từng hình thành trong lịch
sử và đã ăn sâu trong mỗi con người, đó là những nhân tố khiến xã hội trì trệ,
bảo thủ. Đây là một hướng suy nghĩ đúng, đang được sự cổ vũ và đồng tình của dư
luận.
Sau đây, chúng tôi xin được phép giở chồng sách báo cũ,
ghi lại những nhận xét của các bậc tiền bối về những hạn chế của con người Việt
Nam trong lịch sử. Các đầu đề 'nhỏ là do chúng tôi mạn phép đặt ra để cùng nên
theo dõi.
Khi đoạn trích bỏ qua một số câu chữ không cần thiết mà tập
trung vào ý tưởng chính chúng tôi dùng dấu ba chấm đặt trong ngoặc đơn. Những
chú thích cuối bài đều là của người biên soạn...
(Nguyễn Trường Tộ (1828-1871 ) Về việc cải cách phong tục, 1871).
A/ Đường xá nhà cửa luộm thuộm nhếch nhác
Nói riêng về một sự ở... Nay trong kinh thành, con đường lục bộ cho đến đường
các nha thự, chợ quán, tường hào, vườn hoa và các bến sông, chỗ nào cũng có uế
khí, thậm chí có kẻ trước mặt công chúng mà đi tiểu đại. Các cầu dọc theo sông,
không luận ngày đêm đàn ông đàn bà, cứ ra nơi ấy mà phóng uế, quen lấy làm thường... Ở
phương Tây, phàm những người nào bỏ rác làm nhơ đường đều bị phạt cả vì việc ấy
bất nhã mà có mối hại chung. Ta cũng là người như họ, lại không biết xấu hổ
sao?
Đến như gạch vỡ, ngói hư, cây nhành khô lá rụng, rác và tro than các nhà loại
ra, người nước khác đều thu nhặt làm đồ vật hữu dụng. Mà người mình thì vứt ra
cùng đường, ném xuống ao vũng, hoặc đổ ra ngoài hào quanh thành, chất đầy cả bến
sông.
...Dinh thự các quan, tường vách xiêu đổ Ngoài đường thì bùn lầy, vườn tược
thì rác bấn, trước sân thì cỏ mọc. Ngoài hào thì nơi lồi nơi hủng , các nhà
trong thành hai bên đường gần nhà chỉ theo giới hạn mà quét dọn. Những đường bên vách tường đó, mùi
hơi hôi thối, người đi qua phải che mũi đi mau. Như thế thì lòng tu ố(1) ở đâu?
Sao gọi là nước biết giữ lễ nghĩa?
B/ Nói năng thô tục
Nước ta những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người
có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ. Tập thành thói quen, những
tiếng tục tĩu , người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái. Cho đến
câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không
trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tấn, Trương Nghi (2) chiếm giải quán quân.
Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát
lên tay xuống ngón , mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò,nước miếng như bọt giải, tay
cầm dát lia, chân đi cà xiểng, không khác gì người điên. Lại còn một điều xấu nữa,
hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ (4) rất nặng. Thường
hàng ngày cùng giao du với nhau , mà đến lúc bỏ nhau , chất chứa điều bất
bình lâu, thì khí yêu(5) nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia "đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến
đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực". Thật là không còn chút lễ
nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng. Thế giới chưa có
nước nào như xứ mình.
(1) tu ố: ghét điều xấu ở kẻ khác.
(2) các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
(3) phát thệ: thế bồi
(4) chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
(5) tinh thần gian tà bất chính
(6) cũng tức là kịnh bạc với nghĩa cổ" kẻ không biết
tự trọng
(Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)
Dễ học cái dở hơn cái hay
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về
sự dinh dãy (1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi
chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự
bạo (2), mà không thông thái về cách tính toán, về phép thương cổ (3); không có
thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không
làm, còn vụ hại thì thích lắm. Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn
và không học nghề chi cho giới, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(3) buôn bán.
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra
(Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)
Xấu làm tốt dốt làm thông
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước
này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi,
thế mà không làm sao bước tới theo người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt
nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm
tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực
trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một
nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày
càng thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế, thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện
mà chép, mà cũng không bàn làm gì không chép làm gì.
(Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)
Bắt chước vội vã thêm gây hại
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế
cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ
ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần
của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt
chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được
cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (1) lâu ngày nhiễm
(2) lấy được mà hóa (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu
những sự bắt chước chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình.
Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm
điều có ích cho sự tiến hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng
quá lại thành cái độc gây
ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm ra chứ
không bớt đi được.
(1) không phải.
(2) thâm nhập.
(3) thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật
kia sinh ra gọi là hoá.
(4) vọng tưởng: nghĩ lầm
(Nguyễn Đỗ Mục, Đông dương tạp chí, 1914)
Ích kỷ và khôn vặt
Cái tật ích kỷ vốn là một thứ hay lây: Trông thấy những vườn hoa cây cảnh ở
sân nhà trường hay ở nơi đền chùa, hoặc cạnh đường đi lối lại, đã không biết giữ
gìn để làm một cái cảnh vườn chung thì chớ, nhiều người lại còn đang tay bẻ tàn
bẻ hại, để đem về nhà mà chơi thích chí lấy một mình. Cái chứng ích kỷ đã mọc
ra, đến lúc lớn lên thành ra một người đi đến đâu phá hủy đến đấy. Cũng vì lẽ
đó mà dân An Nam không mấy khi có được cảnh vui chung (1), ai có muốn chơi cảnh
thì lại phải xây một vài cái bể cạn hay là bầy mươi lăm cái chậu con để làm một
khu vui riêng mà không chung chạ với ai cả. Dần dần nảy ra một cái tư tưởng
đáng cười, đáng khinh, đáng ghét, đáng sợ là hai chữ ích kỷ, mà một câu
"ăn cỗ đi trước lội nước đi sau" đủ vẽ hết được ruột gan.
(1) tức là không có các loại công viên hoặc khu giải trí công cộng
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)
Vụng nói chuyện
Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay
cho cái trí dục của những người đời nay. Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc,
chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được
nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người
nghe. Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý
thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia
biết cát cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu... Ai ăn nói có tư tưởng, có tỏ
học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm
cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt... Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục
là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen cô cát ghét. Ghen là vì ở đâu
đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là
vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.
(1) Hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ
l0 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên
18 tuổi trở lên.
(Phan Bội Châu, Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928)
Học để kiếm gạo
Đi học để kiểm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiểm gạo thời cái mục đích
đã dở hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng, cốt
được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc
hỏng trớt.
(1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền.
(Nguyễn Văn Vĩnh, Nhời đàn bà, Đăng cổ tùng báo, 1907)
Thị hiếu tầm thường
Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm. Kia cái đồng hồ từ tám mươi đời thì
quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây
uốn con phượng. Cầu quán con con, thuyền bé lý tí. Câu đối về tranh hết tứ thời
phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn (1). Thi họa nhỏ nhen, thi chẳng ra thi,
họa chẳng ra họa. Giang sơn treo cửa sổ, sơn thủy để đầu giương. Hoành phi câu
đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (2). Đồ chạm đồ cẩn thì tỷ mỳ con
dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng
khéo. Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề. Nói tóm lại thì người Nam mình chưa
cái gì là cái khéo. Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy
nhiêu. Người mỗi ngày một hay, vi xảo (3) là thông ngôn ông tạo hoá. Ta mỗi
ngày một đổ (4), vi xảo là
cơn hứng chí điên cuồng. Học chẳng phải mà bắt chước cũng chẳng phải. Xảo
nghệ Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hóa nghề lang
lố (6).
(1) cảnh sắc bốn mùa và núi sông. ngàn dặm, các mô-tlp đã trớ thành sáo mòn.
(2) "phẩy mác” là tên gọi hai nét dùng trọng chữ Hán, đây ý nói chỉ có
cái đẹp bế ngoài.
(3) trình độ kỹ thuật.
(4) kém đi hỏng đi.
(5) đây hiểu là quan niệm.
(6) nghĩa như nhố nhăng.
(Phan Khôi, Cái đồng hồ của người Việt Nam, Phụ nữ tân
văn, 1931)
Thời gian phí phạm
Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là „cơm vua ngày trời“, tỏ
ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và
thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ "làm việc quan" là làm việc rồi
(1)… Phải, phàm kẻ làm việc quan không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng
đắn làm kịp thời vụ làm chi! Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ.
Chẳng những vì khoa học không ưa nên không làm được đồng hồ, mà chính vì
cái quan niệm “cơm vua ngày trời” và “làm việc quan" ấy nó choán sẵn trong
đầu rồi, không có sự cần nên không làm đồng hồ được.
Có người đeo cái đồng hồ không chạy, máy ở trong đã hư hết, nhưng vì nó đẹp
nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời
gian là thế nào.
(1) làm qua loa cho xong. “Rồi" ở đây như chữ “rồi” trong “ăn không ngồi
rồi”.
(Lương Dũ Thúc, Báo Nông cổ mìm đàm, 1902)
Không lo xa, dễ thỏa mãn
Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong
lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữ. (…) Người nước của chúng ta, bởi
không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (…) hễ vừa mới động nở nòi ra một
thí(1) thì là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế(2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bới
làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một, thì là trong một xóm ở chừng một
trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm(3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho
vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi, cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì
vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở lại… Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời
sinh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không
thương.
(1) khá giả một tí.
(2) làm dáng, khoe mẽ.
(3) bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ nghĩa bọn khác, kẻ khác.
(Phan Bội Châu, Việt quốc sử khảo, 1908)
Tầm nhìn hạn hẹp
Tục ngữ có câu rằng "cọp chết để da, người chết để tiếng". Xem
câu nói đó thời danh vẫn nên quý. Nhưng tội tình thay! Óc ti ti như óc dơi, mắt
ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the, bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ
sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn. Huống chi vết xấu ở gia đình,
thói hư ở xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm, đoàn thanh niên cho đến
phường tân tiến(1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu,
miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức(2) chưa rời nôi mà ao ước
những mề đay kim khánh. Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Qúy hóa hay sao?
(1) đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường tân tiến trong xã hội Việt
Nam đấu thế kỷ XX là tớp người đi theo xu thế Âu hóa.
(2) ngực.
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Không biết giữ chữ tín
Không giữ chữ tín thì anh lừa tôi, tôi lừa anh, trăm chuyện sẽ nát, tinh thần
xã hội tan rã (…). Bất tín lớn nhất: một là dối trá. Nhiều người nước ta vụng
trong đường mưu sinh(1) nhưng lại giỏi dối trá giả mạo. Hai là bội ước các quy
chế, chương trình, mà lại làm ra vẻ tuân hành: Nói mười không giữ được hai ba;
Ngay khi ký quy ước đã không cố ý thực hiện, cứ ký bừa, bất kể sau này ra sao.
Cho nên quy ước chưa ráo mực mà như đã bỏ đi: Còn như ước miệng(2) thì chỉ là
"nói láo mà chơi nghe láo chơi" (. ..). Những thói xấu ấy đầy rẫy mà
cứ điềm nhiên không cho là quái gở.
(1) kiếm sống
(2) thỏa thuận miệng
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu.
Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói
giác thể (2) như một nguời Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo
làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lới ấy, chứ không
khi nào đụng toi vốn bao giờ. Họ tính như 100đ (*) mà làm lợi ra 0,30đ (*), dầu
có gian, chủ có hay cũng giám mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ
guốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ (*) đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy
hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0,50đ (*) cũng gian, 0,30đ (*) cũng gian, làm
sao mà không háp tiệm (3) Chuyện gì hồi lãnh coi công việc bần hàn ăn mắm muối,
vợ rách con đói, chứng lãnh việc rổi, vợ đeo vòng con đeo vàng,chồng giầy vợ
dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ,
sắm giường sắm màn riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn
phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không
khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy !
(1) Chệt (có khi viết Chiệc): người tàu, Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ, còn Tây
và Nam, tức người phương Tây và người Việt.
(2) Ví dụ
(3) Cũng như sập tiệm
(4) Liên tục, dồn dập
(5) Chi họ, dòng họ
(*) Các con số này lần lượt là: 1 đồng, 3 hào, 10 đồng, 5 hào
(Ngô Đức Kế, Cảm tưởng trong lúc biên tập, báo Hữu thanh,
1923)
Nhìn đâu cũng thấy sự tầm thường về trí tuệ
Đến với các bậc tân nhân vật (1) để nghe nóng một đôi điều về đường học vấn
thì phần nhiều chỉ nghe bàn đến vấn đề lương ít, lương nhiều, không thì mũ, giầy,
đồng hồ xe đạp, mốt nào khéo, mốt nào mới, mày mua hiệu nào tao gửi bên Tây,
không thì con bé nọ, con bé kia, món này mày, món kia tao, thế thôi. Đến các
nhà buôn bán, thì ra những Công ty to nhỏ thập hiệu (2) lớn, vận hàng chở hóa,
kẻ vào người ra chen vai kề cánh, chẳng hiệu chú khách thì hàng ông Tây, còn
hàng An Nam thì chỉ là buôn lẫn bán quanh, mình cạnh tranh với mình, không những
không cạnh tranh lợi được với kẻ ngoại phương (3), mà lại còn nói dối bán lừa,
chưa khỏi thói mua hành bán tỏi.
Thứ đến các nhà chế tạo (4) thì chẳng thấy khói lên không nghe máy động,
các đồ thủ nghệ cũng có tiến bộ, song các nguyên liệu phải nhờ vào người cung cấp
mà vật chế tạo không chở được ra ngoài dương (5), đồ sản xuất mà có đường tiêu
thụ không, người làm càng nhiều thì nghề càng không, hết mồ hôi nước mắt chỉ đủ
“tay vó miệng lẩm” (6).
(1) tức các nhân vật đào tạo theo kiểu phương Tây
(2) chưa rõ nghĩa
(3) người nước ngoài
(4) các nhà sản xuất
(5) tức xuất khẩu
(6) tương tự tay làm hàm nhai.
Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009
No comments:
Post a Comment