Gạo đắng
FRIDAY, OCTOBER 23, 2015
Phim "Gạo đắng", số phận nông dân Việt Nam ở vùng Camargue
NĂM 1941, TRONG KHI CHÍNH PHỦ VICHY PHẢI TRÔNG CẬY VÀO NGUỒN NHÂN LỰC NHẬP
CƯ TỪ CÁC THUỘC ĐỊA, HÀNG CHỤC NGÀN LÍNH THỢ ĐÔNG DƯƠNG ĐƯỢC TUYỂN MỘ ĐỂ TỚI
PHÁP, KHÔNG PHẢI ĐỂ CHIẾN ĐẤU TRÊN NHỮNG CHIẾN TUYẾN MÁU LỬA, MÀ ĐỂ THAM GIA
VÀO VIỆC SẢN XUẤT VÀ CANH TÁC NHẰM CỨU SỐNG ĐẤT NƯỚC KHỎI THIẾU THỐN VÀ ĐÓI
NGHÈO.
“Gạo đắng” là câu chuyện kể lại quá trình người Việt Nam trồng lúa gạo tại
Camargue, vùng Midi của Pháp, trong Đệ Nhị Thế Chiến. Bộ phim tài liệu được
Alain Lewkowicz chuyển thể dựa trên một tác phẩm của Pierre Daum dưới tựa đề
“Cưỡng ép nhập cư, những người lao động Đông Dương tại Pháp” (NXB
Actes Sud).
Trước khi được chiếu trên kênh truyền hình quốc gia France 3 vào
tháng 06/2015, với đề xuất của nhóm hữu nghị Pháp-Việt của Nghị viện Pháp, bộ
phim đã được chiếu tại Hạ viện ngày 05/05 dưới sự bảo trợ của chủ tịch Hạ viện
Claude Bartelone với mục đích sửa chữa sự lãng quên và bất công mà những người
lao động Đông Dương đã phải chịu đựng.
Camargue
Đi tìm sự thật bị che giấu…
Câu chuyện bắt đầu vào cuối năm 2002, khi Lê Hữu Thọ, hiện đã qua đời, từng
là một phiên dịch của một nhóm “Công binh”
Đông Dương tại Camargue, tới thăm Bảo tàng Lúa gạo do ông Robert Bon quản lý tại
Le Sembuc. Tại đây, ông ngạc nhiên nhận thấy bảo tàng không trưng bày bất kỳ một
hình ảnh, hay một tư liệu nào liên quan tới những người đồng hương, từng cày cấy
trong vòng 2 năm, 1941-1943, tại vùng Camargue.
Sau nhiều cuộc trao đổi qua điện thoại với người quản lý bảo tàng, Lê Hữu
Thọ viết :
“Để tiếp nối cuộc nói chuyện điện
thoại ngày 11/12/2002, tôi xin gửi tới ông một số tài liệu liên quan đến nguồn
gốc lịch sử của ngành trồng lúa gạo tại Camargue cho phép ông sửa lại một lỗi lầm
lịch sử trong bản tưởng niệm (la mémoire) tại bảo tàng của ông. Đáng tiếc là
ông đã che giấu ký ức về những người nông dân chính của ngành sản xuất lúa gạo
tại Camargue. Đây là công trình của những người lao động, thuộc quân đoàn 2
nhân lực Đông Dương vào năm 1941, khi đang bị phát xít Đức chiếm đóng.
Những người tự cho hiểu biết Lịch Sử sau Đệ Nhị Thế Chiến
đều ngạc nhiên khi biết rằng có 20.000 người lao động và 15.000 lính Đông Dương
(hay còn gọi là Việt Nam) bị trưng bắt trong những năm 1939-1940 để hỗ trợ cho
cuộc chiến của nước Pháp trong Thế Chiến. Phần lớn trong số họ là những nông
dân giỏi tại Việt Nam. Sau khi Đình Chiến vào tháng 06/1940, 20.000 người Việt
Nam đã sống tám năm lưu vong trên đất Pháp (1940-1948).
Trong thời gian này, nhiều người trong số họ đã có đủ thời
gian tháo cạn những bãi đầm lầy của vùng Camargue và trồng lúa tại đây. Từ đó,
ngành trồng lúa trên mảnh đất vùng Provence đã được khai sinh...”.
Kèm theo bức thư, ông gửi rất
nhiều tài liệu liên quan, cùng với những bức hình chụp người nông dân Việt Nam
đang làm việc ngoài ruộng hay đang nghỉ giải lao. Robert Bon hiểu rằng Lê Hữu
Thọ hoàn toàn đúng.
20.000 lao động Việt Nam sang giúp Mẫu Quốc khó khăn
20.000 lao động Đông Dương bị tuyển mộ cưỡng bức theo một sắc luật ngày
29/08/1939. Họ làm nghề nông, xuất thân chủ yếu từ các vùng nông thôn nghèo ở Bắc
và Trung Kỳ. Bị chụp ảnh rồi đánh số, 20.000 lính thợ Đông Dương phải tuân thủ
kỷ luật quân đội.
Ông Nguyễn Ngọc Châu, nhân chứng còn sống cuối cùng, nhớ lại : “Trước năm
1939, người ta nhìn thấy những tấm áp phích ghi rằng :
“Mẫu Quốc đang gặp nguy. Nghĩa vụ của bạn là giúp đỡ Mẫu
Quốc”.
Điều này khiến mọi người xúc động. Vì tôi học trường Pháp,
nên tôi chấp nhận ra đi. Hơn nữa, với chúng tôi, đó là cơ hội để nhìn thấy nước
Pháp. Tôi gia nhập với tư cách là giám thị-phiên dịch.
Chúng tôi, những người phiên dịch, cùng với các quan chức
địa phương, tới nhiều ngôi làng khác nhau để mộ phu. Ví dụ một làng có 20 hộ
gia đình, thì phải tuyển đủ 20 người. Đúng kiểu bắt buộc. Nhiều gia đình có 3,
4 con. Trong trường hợp, ví dụ, người con trai cả, 35 tuổi, đã có gia đình và
có 3, 4 người con, thì người con thứ hai hoặc thứ ba phải đi thay. Nếu gia đình
không có con trai thứ nào để thay thế, thì người con cả, dù đã có gia đình và
con cái, vẫn bị bắt buộc đi. Chính vì thế, trong thời kỳ đó, trong đoàn của
chúng tôi, có nhiều người đã khoảng 30-35 tuổi”.
Được đưa lên trên 14 con tàu giống nhau, trong khoảng thời
gian từ giữa tháng 10/1939 tới tháng 05/1940, 20.000 người thợ Đông Dương rời cảng
Hải Phòng lênh đênh trên biển và cập cảng Marseille, miền Nam nước Pháp. Mỗi
chuyến đi kéo dài tới 48 ngày, khiến nhiều người ốm và say sóng vì lần đầu tiên
đi biển.
Tất cả lính thợ trên con tàu của ông Lê Hữu Thọ được chuyển tới tạm trú tại
nhà tù cũ Baumette ở Marseille, nơi duy nhất có đủ chỗ chứa mọi người. Ông Nguyễn
Ngọc Châu nhớ lại, mọi người đều không biết trước đó là nhà tù, mãi sau này họ
mới được biết. Vì bên trong nhà tù đã được tu sửa sạch sẽ để mọi người có thể ở
tạm trong thời gian ngắn. 20.000 lính thợ từ Viễn Đông tới được gọi là “nguồn nhân lực Đông Dương”, M.O.I. (main
d’oeuvre indochinoise) được chia thành nhiều nhóm để gửi tới 73 công ty phục vụ
cho ngành quốc phòng, trong đó có các nhà máy sản xuất vũ khí trên khắp nước
Pháp (Bayonne, Toulouse, Saint Chams, Bourges, Tours, Rennes, Oissel, Bergerac
...). Từ đây, những người thợ Đông Dương bắt đầu khám phá thế giới công nghiệp
với cường độ làm việc nặng nhọc.
Ngày 02/06/1940, nước Pháp thất bại trước phát xít Đức.
Những người thợ Đông Dương phải tập trung hết trong Vùng Tự do (Zone libre).
Ngày lịch sử này cũng đánh dấu chính quyền thuộc địa Pháp mất Đông Dương. Các
chuyến tàu thuỷ tới vùng đất xa xôi có rất nhiều nguy cơ bị tàu ngầm Đức quốc
xã bắn hạ. Pháp không nhận được gạo từ Đông Dương nữa. Nước Pháp đói ! Nước
Pháp đầy người thất nghiệp !
Bất công cho những người nông dân “bất đắc dĩ”...
Chính lúc này, chính quyền Vichy đã đưa ra một quyết định
vô cùng quan trọng : Sử dụng nguồn nhân lực Đông Dương đang có tại chỗ để thích
nghi giống lúa nước tại Pháp. Ý tưởng bắt nguồn từ Henri Maux, một kĩ sư cầu đường
và là công chức vừa mới từ Đông Dương trở về sau 10 năm sống và làm việc tại
đây. Sáng kiến của ông hoàn toàn đúng thời điểm và làm thay đổi hoàn toàn vùng Camargue.
Người con gái của Henri Maux thuật lại:
“Một
lần, ông tháp tùng một Bộ trưởng tham dự hội thảo về trình trạng thất nghiệp diễn
ra tại Marseille. Lần đầu tiên trong đời, ông không đi tàu hoả, mà đi bằng máy
bay. Từ trên cao, ông nhìn được khu vực vùng Camargue. Ông thắc mắc tại sao nơi
này lại không được khai thác trên diện rộng ? So với Nam Kỳ ở Đông Dương, vùng
này còn đi sau tới 50 năm. Từ đó, ý tưởng trồng lúa nước tại Camargue được hình
thành”.
Henri Maux cùng với một số đồng nghiệp cũ tới các khu tập
thể của người lao động, và đặc biệt chú ý tới những người thợ Đông Dương. Do thất
nghiệp và vẫn không thích nghi được với điều kiện thời tiết tại Pháp, rất nhiều
người bị ốm hay mắc bệnh ung thư và sống trong tình trạng nghèo khó. Henri Maux
đưa những người này ra khỏi khu tập thể, hoặc để dạy nghề cho họ, hoặc để họ
làm việc ngoài đồng ruộng. Trên tổng số 20.000 lính thợ Đông Dương, 500 người được
đưa tới trồng lúa tại Camargue.
Do không phải nộp bất kỳ khoản đóng góp xã hội nào nên
nguồn nhân lực này rất rẻ. Tiền công một ngày làm việc của người lao động Đông
Dương chỉ tương tương khoảng 1/10 lương của một người lao động Pháp thời đó. Tiền
lương hàng tháng được chia thành hai phần. Một phần được trả hàng tháng cho người
lao động. Phần còn lại, theo yêu cầu của chính phủ, được giữ lại và chỉ trả cho
người lao động khi họ trở về Đông Dương.
Hoàn toàn tin tưởng vào chính sách của nhà nước, Henri
Maux hy vọng, ngoài kinh nghiệm tiếp thu được tại Pháp, người lao động Đông
Dương sẽ có được một khoản tiền tiết kiệm khá lớn nhờ công sức lao động. Nhưng
trên thực tế, không ai biết khoản tiền tiết kiệm này đi đâu, và không một người
lao động Đông Dương nào được thanh toán khoản tiền này.
Được phỏng vấn trong bộ phim, ông Bernard Vinay, một cựu
quan chức hành chính, từ chối cho biết tỷ lệ giữa khoản tiền lương và khoản tiền
bị giữ lại, với lý do quá lâu nên không nhớ. Mất một khoản tiền mồ hôi nước mắt,
giới chủ không thực hiện các nghĩa vụ đóng góp xã hội, nên người lao động Đông
Dương không được hưởng bất cứ quyền lợi gì.
Năm 1991, Bộ trưởng Bộ Ngân sách Michel Charasse, cũng đã khẳng định điều
này, trong một bức thư trả lời bác sĩ Jean-Michel Krivine, phát ngôn viên của Uỷ
ban Ủng hộ Cựu Lao động, như sau: “Vào thời kỳ
tuyển mộ, người lao động Đông Dương không được đăng ký chế độ bảo hiểm xã hội,
vì vậy, không được hưởng chế độ trợ cấp, tuổi già, hay các chế độ đền bù khác”.
Sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc, rất nhiều người lao động
Đông Dương trở về quê hương. Một số người ở lại, lập gia đình như trường hợp của
Lê Hữu Thọ và Nguyễn Ngọc Châu.
Công dã tràng...
Lúa tiếp tục giúp những nhà sản xuất ở vùng Camargue trở
nên giàu có. Chất lượng gạo vùng này nổi tiếng, thậm chí còn vượt trội gạo của
Ý và Tây Ban Nha. Thế nhưng, công lao của người nông dân Đông Dương dần bị xoá
mờ trong tâm trí của người dân địa phương và các hợp tác xã. Sau khi chiến
tranh kết thúc, trên những cánh đồng lúa, thay thế người lao động Đông Dương là
người Ý và Tây Ban Nha, được tuyển dụng có hợp đồng lao động và được trả lương
một cách tử tế. Từ đó, không ai nghĩ tới những người nông dân Việt Nam đã viết
lên những trang đầu tiên của ngành nông nghiệp trồng lúa tại Camargue. Để rồi đến
một ngày hình ảnh những người nông dân Việt Nam, làm việc trong khoảng 10 năm
trên đất Pháp, biến mất hoàn toàn.
Cho tới ngày nay, ngay tại “Lễ hội Lúa Gạo”
tổ chức vào tháng 9 hàng năm tại Arles, không ai nhắc tới những người nông dân
Việt Nam. Đây là bằng chứng cho sự bất công đối với những người lao động vất vả.
Trong bất kỳ buổi trình diễn hay hoạt động nào, người dân địa phương luôn thể
hiện gạo là tài sản riêng, là bản sắc riêng của vùng Camargue do ảnh hưởng từ
Tây Ban Nha. Tại một vùng luôn quan tâm quảng bá giá trị văn hoá địa phương như
tại đây, hình ảnh người nông dân Việt Nam với tư cách là người sáng lập ra
ngành trồng lúa, khó có thể có được một vị trí trong tâm trí người dân.
Cá biệt hơn, một số người cho rằng, những thông tin và bằng chứng được công
bố là giả, như trường hợp của Pierre Guillot và Yves Smith, cả hai trước đây đều
là nhà sản xuất lúa gạo.
Ông Guillot khẳng định “những
người lao động Đông Dương không biết tới gạo, không phải là nông dân. Họ ở lại
ngắn ngày, Vì vậy, phải dạy họ mọi khâu đoạn. Điều này khá vất vả”.
Ông cũng cho biết, năm 1940-1944, người ta không nghe nói tới gạo tại Camargue,
hoặc không sẽ là gạo nhập khẩu, từ Tây Ban Nha hoặc các nơi khác.
Khi phóng viên cho họ xem một bộ phim tài liệu được chiếu
vào năm 1943 ghi lại hình ảnh những người nông dân Việt Nam thu hoạch lúa với tại
Camargue, ông Yves Smith cho rằng tài liệu này được quay tại Đông Dương thì
đúng hơn. Thế nhưng, làm thế nào để thanh minh cho một nhà kho hiện trong đoạn
phim năm xưa, nay vẫn còn tồn tại ở Camargue ? Hơn nữa, còn rất nhiều đoạn phim
ghi lại hình ảnh thu hoạch vụ mùa của người nông dân Việt Nam trên mảnh đất
này.
“Chúng ta đang ở Camargue, chứ không phải ở Đông Dương. Vụ
mùa đã vượt quá cả dự định. Trên 500 héc ta do người thợ Việt Nam cày cấy đã
thu về được 1.600.000 kg lúa. Sau khi đã tuốt lúa, sản lượng giảm 39% và sau
khi tách trấu thì còn lại 1/2. Nhờ Camargue mà nước Pháp đã được ăn cơm. Đất nước
của chúng ta đã thành công giúp loại lúa khó trồng này thích nghi được với khí
hậu”.
Sau 5 năm đấu tranh với chính quyền địa phương, với những người trồng lúa tại
Camargue và hoàn thiện các thủ tục hành chính, hội Tưởng niệm những người lao động
Đông Dương (association “Mémorial pour les Ouvriers Indochinois”, M.O.I) đã
thành công buộc Lịch Sử ghi nhận sự cống hiến của những con người bị lãng quên.
Chủ nhật ngày 05/10/2014, ước mơ của Lê Hữu Thọ trở thành hiện thực.
Trong sân một chi nhánh thị chính Arles tại Salin-de-Giraud, một bức tượng
bằng sắt tưởng niệm một người nông dân Việt Nam đã được dựng lên. Bài phát biểu
tại buổi lễ của Bertrand Mazel, Chủ tịch Hiệp hội người trồng lúa tại Camargue,
thể hiện một cách đầy đủ và súc tích lòng biết ơn tới những đóng góp của những
người nông dân Việt Nam tại vùng đất này :
“Tới
lượt chúng ta có trách nhiệm tưởng niệm những người lao động tới từ Đông Dương
trong giai đoạn lịch sử đau thương của nước Pháp. Thực tế là phải công nhận sự
mất mát, hy sinh, đau khổ mà họ đã phải trải qua, và phải ghi nhận sự đóng góp
bị rơi vào quên lãng của họ. Đúng là ngành nông nghiệp trồng lúa nợ họ rất nhiều
vì họ đã tham gia vào việc phát triển ngành này sau Đệ Nhị Thế Chiến. Họ đã
truyền cho vùng Camargue kỹ thuật cấy lúa mới mà chúng ta sẽ không bao giờ
quên”.
Posted by Thoi Chinh Chien at 11:31 PM
No comments:
Post a Comment