Người Pháp Gốc Việt
dimanche 24 novembre 2013
Người Pháp Gốc Việt
Vô Danh
Thân gửi Làng tài liệu về
Người Pháp Gốc Việt , để tham khảo .
Người Pháp Gốc
Việt là nhóm người có tổ tiên xuất xứ từ Việt Nam nhưng sau định cư ở Pháp .
Đây là một trong những cộng đồng người Việt Hải Ngoại lớn nhất thế giới . Vì
Chính phủ Pháp không làm thống kê với dữ liệu về chủng tộc của công dân Pháp
nên không có con số nào chính xác để biết về số Người Pháp Gốc Việt . Số người
Việt tại Pháp được ước tính từ khoảng 200 000 đến 250 000 người ( 2002 ) . Con
số này tăng thành khoảng 300 000 vào năm 2013 .
Lịch sử
Trước 1945
Hoàng
Tử Cảnh tại Pháp ; tranh của Maupérin ( 1787 )
Phan
Thanh Giản , hình chụp tại Paris khi đi sứ năm 1863 .
Một nhân vật
người Việt đặt chân lên đất Pháp vào cuối thế kỷ 18 mà lịch sử nhắc đến nhiều
là Hoàng Tử Nguyễn Phước Cảnh khi theo Giám Mục Bá Đa Lộc cầm đầu phái đoàn
sang Pháp cầu viện . Cậu bé 3 tuổi này chỉ ở lại Pháp vài năm rồi lại hồi hương
nhưng để lại ấn tượng tốt trong dư luận Pháp .
Gần 100 năm sau người Việt mới
bắt đầu sang định cư tại Pháp . Sứ bộ Phan Thanh Giản khi trong chuyến Tây du để
chuộc lại Nam Kỳ đã ghi nhận sự có mặt của người Việt tại Pháp [ 4 ] . Tuy
nhiên con số đó chỉ là những người có quan hệ gia đình nên phải sang Pháp .
Mãi đến đầu thế kỷ 20 cộng đồng
người Việt mới tăng lên con số đáng kể . Nguyên nhân chính là tình hình khó
khăn tại Pháp trong Đệ nhất Thế chiến bắt buộc chính phủ Pháp phải tìm tuyển
nhân công để sung vào các xưởng sản xuất trong khi dân Pháp chính gốc phải dồn
vào phục vụ chiến cuộc . Cùng lúc đó Pháp cũng mở cuộc tổng động viên để bổ
sung quân đội .
Lệnh tuyển lính bản xứ tại
Đông Dương thuộc Pháp được ban hành vào tháng 11/1915 . Sang tháng 01/1916 ,
triều đình Huế cũng có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông Dương cho những ai nhập
ngũ .
Đến năm 1918 khi có lệnh
đình chiến thì đã có 48 922 lính gốc Đông Dương (Việt) trong quân ngũ tại Âu
châu cùng Bắc Phi và 51 000 thợ (ouvriers non
spécialsés , viết tắt là ONS ; tiếng Việt gọi là «lính thợ» hay «công binh» ) gốc
Việt trong các công xưởng của Pháp .
Trong số đó có 1 548 người tử
vong . Số người Việt lưu trú tại Pháp sau giảm nhiều vì đa số chọn hồi hương .
Số ở lại chỉ khoảng 3 000 người . Có người ở lại vì kết hôn với người Pháp
nhưng phần lớn vì lý do giáo dục và công việc .
Tờ bạc 100 đồng
Đông Dương
Vì tình hình khó khăn kinh tế
ở Pháp vào thập niên 1920 ảnh hưởng đến giới lao động , một số hội đoàn của người
Việt xuất hiện với mục đích tương tế, tương trợ như Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des compatriotes) , Association Amicale
des Travailleurs Indochinois , Association de Laqueurs , Association des
Cuisiniers Indochinois , và Association Mutuelle des Travailleurs. Đến
năm 1928 thì có Comité de Défense des Travailleurs Annamites ra đời để bảo vệ
quyền lợi của công nhân gốc Việt .
Con số thợ thuyền , sinh
viên , học sinh đó là hạt mầm của cộng đồng Người Pháp Gốc Việt.
Khi Đệ Nhị Thế
Chiến sắp bùng nổ thì chính quốc Pháp lại có lệnh tuyển mộ người Việt sang làm
lao công thuộc địa (viết tắt tiếng Pháp MOI : main-d'oeuvre indigène) , nhưng lần
này với dạng cưỡng bách . Năm 1939 đã có 93 000 người , cả lính thợ lẫn lính
chiến , bị đưa sang Pháp sung vào quân ngũ hỗ trợ chính quốc theo «Kế hoạch
Mandel». Riêng ở Baumettes khoảng 20 000 người bị giam giữ để phục dịch trong
các công xưởng với mức lương 1/10 lính Pháp . Một số đã định cư ở Pháp , nhất
là vùng Camargue (tỉnh Bouches-du-Rhône) , mở mang nghề trồng lúa và làm muối.
1945-1975
Số người Việt
sang Pháp định cư tăng thêm vào những thập niên 1940-1960 sau Đệ Nhị Thế Chiến
và cuộc chiến Đông Dương tiếp theo . Khi chính thể bảo hộ của Pháp trên 3 xứ Việt
, Miên , Lào cáo chung, đại đa số Pháp Kiều, trong đó kể cả những người Việt
mang quốc tịch Pháp đã rời bỏ Đông Dương để hồi hương về Pháp. Sau 1954 , khoảng
50 000 người mang quốc tịch Pháp tại Đông Dương đã hồi hương, trong đó có 12
000 người bản xứ.
Chính phủ Pháp
đưa một số về Noyant d’Allier , một thị trấn nhỏ thuộc Allier, Auvergne, có
truyền thống khai mỏ than nhưng vào thập niên 1950 đã bị bỏ hoang .
Bốn trăm gia
đình , tổng cộng khoảng 2 000 người được đưa đến đây lập nghiệp.
Số khác định
cư ở Sainte-Livrade-sur-Lot ( 1600 người ), thuộc Lot-et-Garonne, Aquitaine gần
Bordeaux miền tây-nam nước Pháp.
Nơi cư trú
mang tên « Trung tâm tiếp quản Những người Pháp Đông dương » (tiếng Pháp :
Centre d'Accueil des Français d'Indochine , CAFI)
Nơi đó có cấu
trúc giống như một ngôi làng truyền thống ở Việt Nam với đình , chùa.
Trại CAFI ở
Sainte Livrade tồn tại đến năm 2008 thì chính quyền địa phương có phá đi để hoạch
định lại . Phần lớn đã được tân trang riêng có sáu căn là giữ nguyên dùng làm
di tích cuộc di cư và để lưu trữ các hiện vật lịch sử ghi dấu.
Sinh viên du học
của Việt Nam Cộng Hoà thì tập trung ở Paris , thành lập Tổng Hội Sinh Viên Việt
Nam , hoạt động từ năm 1960. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà có cơ sở bán thức ăn số
80 đường Monge , quận V , cũng được gọi là Foyer Monge , thuộc toà đại sứ quản
lý cho các sinh viên tụ tập . Tính đến đầu năm 1975 cộng đồng ở Pháp là cộng đồng
người Việt lớn nhất ở Hải Ngoại.
Sau
năm 1975
35 Vietnamese
Boat People
Đợt người Việt đông nhất
sang định cư ở Pháp là vào thập niên 1970-1980 với nạn thuyền nhân vượt biển.
Chỉ riêng trong 4 năm 1975-1979, Pháp đón nhận 51 515 người tỵ nạn sang định
cư, tức là quốc gia đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và Úc về số lượng tiếp nhận người tỵ
nạn [ 19 ]. Trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1989, Pháp đón nhận khoảng 150
000 người tỵ nạn, và theo một số nghiên cứu, số người tỵ nạn chiếm khoảng 80 %
cộng đồng Người Pháp Gốc Việt đầu thập niên 1990.
Ngoài chính sách của chính
phủ cho người tỵ nạn nhập cư, giới nhân sĩ Pháp như triết gia Jean-Paul Sartre,
Michel Foucault, Raymond Aron còn tổ chức nhóm vận động «Un bateau pour le Vietnam» ( « Một con tàu cho Việt Nam
» ) kêu gọi gia tăng số người tỵ nạn nhập cảnh. Chính nhóm này cùng
với Bernard Kouchner, sáng lập viên tổ chức Médecins Sans Frontières ( Y Sĩ
Không Biên Giới ) đã tài trợ con tàu Ile-de Lumière ( « Đảo Ánh Sáng » ) ra
khơi cứu giúp người vượt biển . Chính giới Pháp như Jacques Chirac và François
Mitterrand cũng bảo trợ một số gia đình người Việt Tỵ Nạn.
Văn
Hoá
Món phở xuất
hiện với bước chân người Việt ở Paris
Hệ thống giáo
dục tại Pháp, khác với Canada và các quốc gia Châu Âu khác, không chủ trương
xây dựng một xã hội đa văn hoá. Vì thế, mặc dù Người Pháp Gốc Việt thuộc thế hệ
thứ nhất cố gắng giữ gìn văn hoá Việt Nam và sử dụng tiếng Việt trong cộng đồng,
những người thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba sinh ra và lớn lên tại Pháp biết rất
ít về quốc gia và văn hoá của tổ tiên họ. Về ngôn ngữ họ cũng không sử dụng tiếng
Việt .
Trong một cuộc
thăm dò ý kiến vào thập niên 1990, 41 % người trẻ từ 11 đến 30 tuổi nói rằng họ
được gia đình dưỡng dục theo truyền thống Phật Giáo, và 28 % nói rằng họ được dạy
dỗ theo truyền thống Công Giáo .
Những ngày lễ
văn hoá được cộng đồng Người Pháp Gốc Việt duy trì gồm có Tết Nguyên Đán, Vu
Lan, và Tết Trung Thu.
Ngoài ra, những người ủng hộ
nhà-cầm-quyền Hà Nội còn tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc Tế Phụ nữ ( 08/03 , gần
trùng với ngày lễ Hai Bà Trưng vào Tháng Hai Âm Lịch ), 30/04, và 02/09.
Một trong những
cơ sở tôn giáo lâu đời nhất của Người Pháp Gốc Việt là Chùa Hồng Hiên xây từ
năm 1917 ở Fréjus, Var, thuộc Provence-Alpes-Côte d'Azur. Chùa có một thời bị bỏ
hoang phế nhưng từ thập niên 1970 trở đi đã hoạt động trở lại. Tính đến năm
2000 ở Pháp có 38 ngôi chùa của người Việt. Cũng theo chiều hướng phát triển,
Người Pháp Gốc Việt đã cho xây cất chùa Khánh Anh ở Évry ngoại ô Paris. Vào thời
điểm dự tính hoàn thành năm 2011-2012, ngôi chùa này được coi là ngôi chùa lớn
nhất Châu Âu của người dân gốc Việt.
Chùa Khánh Anh
tại Évry , Essonne
Dưới mắt người
Pháp, Người Pháp Gốc Việt sống tương đối bình yên và hoà nhập vào xã hội Pháp,
không gây nhiều vấn nạn như những nhóm thiểu số khác tại Pháp. Tuy không năng động như các cộng đồng
người Việt Tỵ Nạn tại Mỹ hay Úc, Người Pháp Gốc Việt cũng có những sinh hoạt
chính trị như vinh danh 60 Năm Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ở Paris cùng Voisins Le
Bretonneux và Montigny Le Bretonneux .
Chính
trị tại Pháp
Đầu thập niên 1980, tỷ lệ nhập
tịch của người Việt tại Pháp là khoảng 5 %, một trong những tỷ lệ cao nhất
trong các cộng đồng người ngoại quốc tại Pháp (so với khoảng 0,25 % cho cộng đồng
người Algérie, cộng đồng lớn nhất). Điều tra dân số năm 1999 cho thấy khoảng 75
% người từng có quốc tịch Việt Nam đã vào Pháp tịch.
Mặc dù Người Pháp Gốc Việt
có tỷ lệ nhập tịch khá cao, họ ít quan tâm đến chính trị tại Pháp và hiếm khi
tham gia vào các cuộc bầu cử cấp địa phương và toàn quốc. Họ thường nhập tịch
vì lý do kinh tế thay vì lập trường chính trị. Tuy không thiết tha với biến
chuyển trên chính trường tại Pháp, họ rất quan tâm đến tình hình chính trị ở cố
hương, và trong quá khứ từng đóng vai trò rất quan trọng trong các phong trào
chính trị tại Việt Nam vào thế kỷ 20.
Năm 2009 thì một
số người Việt tại Pháp đứng ra thành lập Hội Người Việt thuộc đảng Cộng Hoà (
tiếng Pháp : Union des Vietnamiens Républicains , viết tắt là UVR ) để tạo tiếng
nói chính trị cho cộng đồng , trong đó có Bùi Kiệt Sĩ ( Alain ), Mai Quốc Minh
. Tổ chức này của Đảng Cộng Hoà Pháp ( Parti républicain ) hoạt động với mục
đích dần tiến tới tranh cử Hạ Viện Pháp năm 2012 và các hội đồng thành phố ở
các địa phương năm 2014.
Quan
điểm chính trị đối với Việt Nam
Sau 1975, cộng đồng Người
Pháp Gốc Việt chia thành hai nhóm rõ rệt: một nhóm ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội
và một nhóm chống Cộng [ 20 ] & [ 30 ]. Hầu hết các tổ chức và hội đoàn của
người Việt, kể cả các tổ chức tôn giáo và kinh doanh, đều ngả theo nhóm này hay
nhóm kia. Những người ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội tự nhận là « di dân » trong khi những người chống Cộng tự
nhận là « Người Tỵ Nạn ».
Hai nhóm này có những mục tiêu chính trị trái ngược nhau
và những thành viên của mỗi nhóm ít có quan hệ với thành viên nhóm kia.
Nhóm ủng
hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội
Những người ủng hộ nhà-cầm-quyền
Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Hội người Việt Nam tại Pháp ( UGVF , Union
Générale des Vietnamiens de France ), có tổ chức quy mô hơn và được nhà-cầm-quyền
Việt Nam công nhận. Những người trong nhóm này là những người đến Pháp trước
1975 và con em của họ; vấn đề mưu sinh của họ khá ổn định, và họ được xem là
thành phần ưu tú trong cộng đồng gốc Việt. Nhiều thành viên UGVF cũng là đảng
viên Đảng Cộng Sản Pháp và một số khác là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam [ 33
] ( nhà hoạt động chính trị Nguyễn Khắc Viện từng là Chủ Tịch UGVF .
Trước 1975 , mục tiêu của
UGVF là chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội. Sau 1975, nhiều thành viên UGVF dự định hồi hương để đóng
góp trong công cuộc xây dựng đất nước, nhưng chính phủ Việt Nam lại xem giới
trí thức có nền giáo dục phương Tây là một mối đe doạ. Những người được đào tạo
tại Liên Xô được trọng dụng hơn vì họ được xem là có quan điểm chính trị thích
hợp hơn. Khi họ trở về Việt Nam, những Việt Kiều Pháp thường không tìm được việc
làm tương đương với công việc của họ tại Pháp.Từ đó, họ ủng hộ thành lập một cộng
đồng người Việt ly hương lâu dài tại Pháp. Mục tiêu của UGVF cũng vì đó thay đổi
, chú trọng đến việc giữ gìn di sản văn hoá Việt Nam cho các thế hệ sau. Chính
phủ Pháp xem UGVF là một tổ chức Cộng Sản và các hoạt động chính trị của tổ chức
không được công khai cho đến năm 1981, khi được chính phủ Đảng Xã hội công nhận.
UGVF tổ chức nhiều lễ hội
cho các ngày lễ lớn như Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu. Các sự kiện này luôn
có sự hiện diện của đại sứ Việt Nam tại Pháp. Các thành viên của UGVF còn thành
lập nhiều hội đoàn khác để tranh đua với những tổ chức chống Cộng để giành sự ủng
hộ từ những người tỵ nạn sau 1975.
Tuy nhiên,
các tổ chức này không công bố quan hệ của họ với UGVF vì nhiều người tỵ nạn sẽ
rời bỏ tổ chức nếu họ biết được UGVF đứng sau các tổ chức này.
Mặc dù không hẳn là một bình
phong cho những người Cộng Sản Việt Nam tại Pháp, UGVF là một tổ chức với chủ
trương sát cánh với chủ trương của nhà-cầm-quyền Hà Nội. Nhiều thành viên trẻ
trong UGVF, sinh ra và lớn lên tại Pháp, cho rằng UGVF thiếu độc lập và quá phụ
thuộc vào Hà Nội. Họ cũng đã bắt đầu quan tâm vào các vấn đề trong xã hội Pháp
như nạn bị người Pháp bản xứ kỳ thị .
Nhóm
chống Cộng
LogoTongHoiSinhVienParisHuy
hiệu Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris
Khác hẳn những
người ủng hộ nhà-cầm-quyền Hà Nội, những người chống Cộng không thống nhất dưới
một tổ chức nào tương tự như UGVF, nhưng họ chung một lập trường đối lập với chế
độ Cộng Sản tại Việt Nam.
Trước 1975, những nhóm người Việt chống Cộng hoạt động
tại Pháp rất ít, và chủ yếu là các tổ chức sinh viên như Tổng Hội Sinh Viên Việt
Nam tại Paris.
Sau 1975, với số thuyền nhân tỵ nạn được nhận vào Pháp tăng vọt,
những nhóm chống Cộng mới thật sự lớn mạnh để cạnh tranh với nhóm ủng hộ Hà Nội.
Những nhóm chống Cộng bao gồm chủ yếu những người tỵ nạn đến Pháp sau 1975, vì
thế họ có tình trạng kinh tế kém ổn định hơn nhóm kia.
Trong lúc UGVF
muốn miêu tả cộng đồng Người Pháp Gốc Việt như một cộng đồng đoàn kết ủng hộ
nhà-cầm-quyền Hà Nội, những nhóm chống Cộng hoạt động để nói rõ cho người Pháp
bản xứ biết là trong cộng đồng người Việt có sự khác biệt chính trị sâu sắc. Họ
thường biểu tình phản đối chính phủ Việt Nam, và kêu gọi những người tỵ nạn tẩy
chay những cơ sở kinh doanh có liên quan đến UGVF.
Những tổ chức
của những người chống Cộng cũng gồm những tổ chức sinh viên, lãnh đạo, xã hội,
và văn hoá. Họ có những hoạt động tương trợ những người tỵ nạn mới đến Pháp. Hầu
hết các thành viên hoạt động trong tổ chức Hướng Đạo Việt Nam tại Pháp và các tổ
chức Công Giáo của người Việt đều nằm trong phái chống Cộng. Họ cũng tổ chức
các cuộc lễ hội cho các ngày lễ truyền thống, nhưng với quy mô nhỏ hơn so với
UGVF.
Trưởng Trần
Văn Khắc (phải) , người sáng lập Hướng Đạo Việt Nam và BS Nguyễn Văn Thơ, Hội
Trưởng cuối cùng của Hội Hướng Đạo Việt Nam ( tháng 04/1975 ) chụp hình tại Trại
Họp Bạn Quốc Tế Hướng Đạo Việt Nam « Thẳng Tiến 2 » được tổ chức tại Toronto
năm 1988 .
* * *
Di
tích
Phương đình
xây trên nền cũ của Đền Tử Sĩ lính Đông Dương
Trước
năm 1954
Rải rác ở Pháp
có một số di tích ghi dấu chân người Việt. Ở Nogent-sur-Marne trong Jardin
tropicale de Paris, thuộc Bois de Vincennes còn nền cũ ngôi Đền Tử Sĩ tưởng niệm
lính Đông Dương, tức Temple du Souvenir Indochinois. Đây nguyên thuỷ là một
ngôi nhà cất ở Thủ Dầu Một rồi rỡ ra đem sang Pháp dùng cho cuộc Exposition
coloniale de Marseille 1906. Qua năm sau chính phủ Pháp cho chuyển về
Nogent-sur-Marne và đến năm 1917 thì ngôi nhà đó được dùng làm Đền Tử Sĩ có sắc phong ( 1919 ) của Vua Nguyễn Hoằng
Tông. Nhà Vua còn đến viếng ngôi đền này năm 1922 nhân chuyến công du sang
Pháp.
Năm 1984 đền bị
phá huỷ hoàn toàn trong cơn hoả hoạn, nay chỉ còn phần nền với bậc tam cấp tạc
đôi rồng đá. Một phương đình tân tạo nhỏ nay nằm ở vị trí này.
DaiTuongNiemThuyenNhanBSG
Đây là bức tượng
bằng đồng do điêu khắc gia Vũ Đình Lâm thực hiện .
Ngày
12/09/2010 tượng Đài Kỷ Niệm Thuyền Nhân Việt Nam với tên Niềm Mơ Ước Của Mẹ (
tiếng Pháp ): Le Rêve de la Mère ) được dựng ở bùng binh « Rond Point Saigon »,
ngã tư thông lộ André Malraux và đại lộ des Genêts thuộc xã
Bussy-Saint-Georges, thị trấn Marne-la-Vallée [ 47 ] .
Tượng đài này có bốn mục
đích :
- Tưởng niệm
người tỵ nạn thuyền nhân Việt Nam
- Tri ân nước
Pháp
- Ghi ơn bậc
phụ huynh
- Vinh danh
đóng góp của Người Pháp Gốc Việt .
Nhân vật
Yohan Cabaye
François
Trinh-Duc
Yohan Cabaye
mang trong mình dòng máu Việt khi có bà Nội là người Việt Nam .
Yohan Cabaye (
sinh ngày 14/01/1986 tại Tourcoing , Pháp ) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp
người Pháp đang chơi tại Giải bóng đá ngoại hạng Anh cho câu lạc bộ Newcastle
United .
Trong số những
người Việt sống ở Pháp được nhiều người biết đến có thể kể tới nhà toán học Ngô
Bảo Châu, thiền sư Thích Nhất Hạnh; nhà văn Dương Thu Hương; Trần Thị Nam
Murtin, người nhận Bắc Đẩu Bội Tinh Premier Ministre grade Chevalier năm 2008 của
chính phủ Pháp[ 49 ] & [ 50 ]; ký giả Bùi Tín; kỹ sư Trương Trọng Thi; đạo
diễn Trần Anh Hùng; và các nữ diễn viên Phạm Linh Đan, Trần Nữ Yên Khê. Bên cạnh
đó cũng có những người Pháp mang trong mình một phần dòng máu Việt nổi tiếng
như Thanh Tra Cảnh Sát Georges Nguyễn Văn Lộc, LS Jacques Vergès, diễn viên
France Nguyen, và cầu thủ François Trinh-Duc, Yohan Cabaye ...
LS Jacques
Vergès
KS Trương Trọng
Thi được trao huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh
Vô Danh
Publié par Carolfan à
dimanche, novembre 24, 2013
No comments:
Post a Comment