Saturday, October 24, 2015

Bích câu kỳ ngộ


Trong cố gắng duy trì nền văn-học của quê nhà, tôi dùng quyển "Bích câu kỳ ngộ" của nhà xuất bản Tân-Việt, 235 Phan thanh Giản, Sài-Gòn. Theo như quyển sách trên, thì Thi-Nham Đinh-Gia-Thuyết đã đính chính những chỗ sai, và chú-thích những chữ khó. Trước nhất tôi chỉ lo đem phần thơ văn vào mạng lưới. Khi có thì giờ tôi sẽ lo phần chú thích những chữ khó như trong tác phẩm "Đại Nam quốc sử diễn ca"

Chú-thích: Hiện nay không biết tác-giả của quyển "Bích câu kỳ-ngộ" là ai.
Truyện này kể một sự tích ở nước ta, tức là việc một người học trò tên Trần-tú-Uyên gặp một nàng tiên ở đất Bích-câu, bởi thế mới đặt tên truyện là "Bích câu kỳ-ngộ" (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích-câu).
Bích-Câu (ngòi biếc) trước thuộc làng Yên-Trạch, tổng Yên-hoà, huyện Thọ-Xương, tỉnh Hà-Nội; nay là phố Cát-Linh. Hiện còn đền thờ Tú-Uyên, bên cạnh nhà Văn-Miếu, là cái di tích của câu chuyện hoang đường này.

Lược truyện: Truyện này gồm 648 câu, có thể chia làm 4 hồi:(Tôi đã đánh máy phần này từ quyển "Việt-Nam thi-văn hợp tuyển" trước khi nhận được quyển "Bích -câu kỳ ngộ"_ quyển này chia làm 6 phần)
I- Tú-Uyên gặp Giáng-Kiều, về ốm tương-tư (1 - 272):
Trần-tú-Uyên, một người học trò nghèo, thường hay đi chơi những nơi thắng-cảnh; một lần đến đất Bích-câu, thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc-Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh-từ Hà-Nội). Chiều đến, sắp về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ý ghẹo mình. Trông ra cửa Tam-quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo, đến Quảng-văn-đình (nay là chợ cửa Nam Hà-Nội) thì chợt người ấy biến mất. Từ đấy, Tú-Uyên sinh ra ốm tương-tư.
II- Tú-Uyên kết duyên cùng Giáng-Kiều (273 - 428):
Sau Tú-Uyên đến đền Bạch-mã (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm thần bảo ông sáng hôm sau ra đợi ở Cầu Đông (nay ở phố hàng Đường) thì gặp người con gái ấy. Hôm sau ra đợi mãi đến chiều, chỉ gặp một ông lão bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đã gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông rình ở một chỗ, thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, thì người ấy nói tên mình là Giáng-Kiều ở trên cung tiên xuống, xin kết duyên cùng ông. Giáng-Kiều làm phép biến chỗ nhà của ông thành nguy nga tráng lệ.
III- Giáng-Kiều giận Tú-Uyên bỏ đi, sau lại trở về nhà (429 - 558):
Tú-Uyên lấy Giáng-Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn, ông không nghe, lại còn đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi. Đến lúc tỉnh, ông đi tìm đâu cũng không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; chợt nàng Giáng-Kiều hiện ra, ông bèn từ tạ, hai bên đoàn tụ như xưa.
IV- Tú-Uyên và Giáng-Kiều lên cõi tiên (559 - 648):
Từ bấy giờ Tú-Uyên đối đãi tử-tế với Giáng-Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân-Nhi. Nàng Giáng-Kiều bèn khuyên ong nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi đã dặn dò Chân-Nhi ỏ lại cõi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cõi tiên.
Bốn hồi trên có thể chia ra làm 29 đoạn:
1/ Mở đầu
2/ Cảnh Bích câu
Thơ văn đoạn trên
3/ Trần công tử Tú-Uyên
4/ Nỗi buồn của Tú-Uyên sau khi cha mẹ mất
5/ Tú-Uyên nổi tiếng thi-hào
6/ Tú-Uyên đi xem hội chùa
7/ Tú-Uyên gặp mỹ nhân
8/ Tú-Uyên đối thoại với mỹ-nhân dưới cây đa
Thơ văn đoạn trên
9/ Sự nghi-hoặc của Tú-Uyên sau khi mỹ-nhân biến đi
10/ Tú-Uyên trở về mang bệnh tương-tư
11/ Hà-Sinh đến thăm bạn, Tú-Uyên kể rõ sự tình
12/ Hà-Sinh nhắc lại chuyện Le-Thánh-Tông gặp tiên
Thơ văn đoạn trên
13/ Hà-Sinh khuyên bạn không nên mơ-tưởng hão
14/ Tú-Uyên xem bói thẻ và nằm mộng
15/ Gặp người bán tranh, Tú-Uyên mua về treo
16/ Tú-Uyên với bức tranh tố-nữ
Thơ văn đoạn trên
17/ Tố-nữ trong tranh hiện thành người thực
18/ Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều chuyện trò
19/ Giáng-Kiều dùng phép tiên biến hoá
20/ Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều kết duyên
Thơ văn đoạn trên
21/ Tú-Uyên say sưa rượu chè, Giáng-Kiều can không được
22/ Giáng-Kiều bị ngược đãi, giận bực bỏ đi
23/ Sau khi tỉnh ra, Tú-Uyên hối hận
24/ Hà-Sinh khuyên-giải Tú-Uyên
Thơ văn đoạn trên
25/ Tú-Uyên toan tự-ải, Giáng-Kiều bỗng hiện về
26/ Sau khi tái-hợp, vợ chồng Tú-Uyên sinh Chân-Nhi
27/ Giáng-Kiều khuyên Tú-Uyên tòng tiên
28/ Giáng-Kiều thuyết về tiên đạo, Tú-Uyên tỉnh ngộ dần
29/ Sau khi trao nhận tiên phù, hai người cùng cỡi hạc lên tiên
Thơ văn đoạn trên
1.- Mở đầu (câu 1- câu 8)

Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hoá-nhi
Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa gì cõi Tây.
Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn; sau này Bùi-Trương.
Kìa ai mê giấc đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang-đường biết đâu?

2.- Cảnh Bích-câu (câu 9 - câu 16)

Thành Tây có cảnh Bích-câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen thu cúc, xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông,
Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước quỳnh-giao,
Phất-phơ gió trúc, dặt-dìu mưa hoa.

3.- Trần công-tử Tú-Uyên (câu 17 - câu 34)

Triều Lê đương hội thái hòa,
Có Trần công-tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân-huyên,
So trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình.
Trải xem phong cảnh hữu tình,
Lâm-toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giủ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim,
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy-hoắc đâu bằng.
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen.
Khắp so trong cõi ba nghìn,
Yên-hà riêng nửa, lâm-tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui,
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao.

4.- Nỗi buồn của Tú-Uyên sau khi cha mẹ mất (câu 35 - câu 50)

Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương.
Não người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai còn đôi gánh thâm tình,
Bầu Nhan đã sạch-sành-sanh còn gì!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây.
Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ-thơ nửa mái thảo-đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong-quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.


Chú thích:
hoá-nhi: hóa:tạo-hóa, trời. Nhi:trẻ con.Trời oái-oăm như trẻ con, nên gọi là hóa-nhi, cũng như trời khéo-léo như tay thợ nên gọi là hóa-công.

cơ-duyên: nhân-duyên khéo khuôn-xếp như có then máy. Có bản chép là lầu duyên. Vì trong bản Nôm, chữ cơ có thể nhận lầm ra chữ lâu là lầu, nhưng lầu duyên là vô nghĩa; cũng có bản chép: "Có duyên ngẫm lại suy đi."

trời Nam:bởi chữ Nam thiên, cõi Tây bởi chữ tây-phương cực lạc thế-giới, ý nói nước ta với cõi Phật chẳng xa-xôi gì.

kỳ-ngộ: gặp-gỡ lạ-lùng.

Lưu, Nguyễn : Lưu:Lưu Thần; Nguyễn:Nguyễn Triệu người đời Hán bên Tàu, trong ngày tiết đoan-ngọ vào núi Thiên-thai hái thuốc, gặp tiên-nữ kết duyên, nửa năm trở về, đã có cháu đời thứ bảy.

Bùi, Trương:Bùi: Bùi Hàng người đời Đường bên Tàu, thi hỏng đi chơi phiếm, gặp tiên-nữ bảo là có duyên với Vân Anh. Sau Bùi qua Lam-kiều, quả-nhiên gặp Vân Anh cưới làm vợ, rồi cùng lên cõi tiên. Còn Trương chưa rõ Trương nào?

Đài Dương: có lẽ là Dương-đài, một quả núi ở phía nam huyện Hán-xuyên, tỉnh Hồ-bắc bên Tàu. Vì ở phương nam là hình núi như cái đài (đền) nên gọi Dương-đài. Sở Tương-vương nằm mộng gặp người con gái tự xưng là thần nữ, sớm làm mây chiều làm mưa ở Dương-đài. Thơ của Trần Đoàn có câu: Xử-sĩ bất tri vu giáp mộng, không giao thần nữ há Dương-đài, tức là tích chuyện này.

hoang-đường: viển-vông không đâu.

bích câu: (nghĩa là ngòi biếc):tên một phường của thành Thăng-long, sau thuộc làng Yên-trạch, huyện Thọ-xương tỉnh Hà-nội. Khi Hà-nội làm thành-phố thì Bích câu đã lọt vào thành-phố Cát-linh, có đền Tú Uyên và hồ Tú Uyên, Sau binh lửa năm 1946, đền đã bị phá, chỉ còn trơ có bức tường. Nay Hà-nội đã có một phố mang tên là phố Bích-câu tức là phố Graffeuil trước.

thu cúc, xuân đào: hai câu này tả cảnh hoa-quả đủ bốn mùa: thu cúc, xuân đào, hạ lựu, đông mai
mục: mục là mục-đồng:kẻ chăn trâu..

tiều: tiều là tiều-phu người hái củi.

quỳnh, giao:hai thứ ngọc quí, người ta quen dùng chữ ấy để ví với thứ gì quí giá. Non nước quỳnh-giao cũng như nói non sông gấm vóc.Có bản chép "non nước đìu-hiu".

Thái-hòa: thịnh-vượng,yên-lành,lúc thịnh-trị.

công-tử: con nhà quan, Tú Uyên là con quan họ Trần.

xuân huyên:(cũng đọc là thung):một loài cây, quen dùng ví với cha; huyên một loài cỏ quen dùng ví với mẹ

đồng-ấu:lúc trẻ nhỏ

cửa Trình:bởi chữ Trình-môn cửa họ Trình. Trình Gi hiệu là Y-xuyên, một bậc danh nho đời Tống bên Tàu, học trò là Giu Thù và Dương Thi mới đến học, thấy Trình lim dim mắt ngồi im, hai người cứ đứng chờ không dám động. Khi Trình biết đến, thì ngoài cửa tuyết dày đến 3 thước. Nhân tích ấy người ta dùng chữ Trình-môn lập tuyết để ví người học-trò theo thầy chăm học. Ta có câu "cửa Khổng sân Trình" cũng do tích này.

lâm-toàn: (hay tuyền):rừng, suối, nói về cảnh đường rừng.

lầu thơ:bởi chữ thư lâu, nhà đọc sách.
thừa hư:nhân lúc rỗi; đàn suối: tiếng suối nghe như tiếng đàn, Ca chim: tiếng chim hót như điệu ca. Có bản chép :Phách suối ca chim.

huy-hoắc: phung-phí.Có bản chép:lưu-loát.

hoa cúc: có hàng kho như kho vàng, hoa sen có từng đống như đống tiền, ý nói có nhiều hoa đẹp.

trong cõi ba nghìn: bởi chữ tam thiên thế giới, tiếng nhà Phật.

Yên-hà:khói và ráng, trên tầng không.

bốn bạn thêm vui:câu này có bản chép:"...buôn-bán thêm vui" có bản chép:"...bè-bạn thêm vui", có bản chép:"...bốn bạn thêm vui ", có lẽ câu thứ ba đúng hơn : bốn bạn bởi chữ văn-phòng tứ hữu chăng ? Xin kính chất cùng thức-giả.

bể thánh: cũng như bể học, nơi chứa đựng lý-thuyết của thánh hiền; rừng tao : chỗ tụ-tập các tao-nhân mặc khách (làng văn).

sương sao:Ý nói năm tháng thay-đổi.

bóng dâu:bởi chữ tang du mộ cảnh.

huyên già ngại sương:cha mẹ mất,

tang-thương:tang điền (ruộng dâu), thương :thương hải (bể cả) do chữ thương hải biến tang điền (bể cả hóa ruộng dâu) ý nói cuộc đời thay đổi.

mây trắng:bởi chữ bạch vân do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường bên Tàu, đi làm quan xa quê nhà, trông thấy đám mây trắng trên núi Thái-hàng, than rằng "nhà bố mẹ ta ở nơi đó ". Câu này nói tưởng-nhớ cha mẹ.

thâm tình:bởi câu phụ tử tình thâm, tình cha con sâu-xa thấm-thía.

bầu Nhan:ông Nhan Uyên (học-trò giỏi của đức Khổng-tử) nhà nghèo, nhưng vẫn vui với giỏ cơm bầu nước. Chữ "bầu Nhan" đây là nói cảnh nghèo.

thảo đường:nhà tranh.

ao tù:ao nước tù hãm. Có bản chép "ao nhàn" thì vô nghĩa. Phải bản gỗc chữ tù trông giống chữ nhàn, người ta dịch âm sai.


5.- Tú-Uyên nổi tiếng thi-hào (câu 51- câu 70)

Sinh từ gặp bước gian-truân,
Vinh khô gọi nếm mùi trần chút chơi.
Cùng thông dù mặc có trời,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.
Lôi thôi cơm giỏ nước bầu,
Những loài yến-tước biết đâu chí hồng.
Thề xưa đã nặng với lòng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
Tây-hồ tiên-tích mấy nơi phẩm bình.
Thi-hào dậy tiếng Phượng-thành,
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào.
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi.
Châu ken chữ, gấm thêu lời,
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền.
Đã người trong sách là duyên,
Mấy thu hạt ngọc Lam-điền chưa giâm.
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm,
Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng.

6.- Tú-Uyên đi xem hội chùa(câu 71- câu 90)

Ngọc hồ có đám chay tăng,
Nức nô cảnh Phật, tưng-bừng hội xuân.
Dập dìu tài-tủ giai-nhân,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai.
Thưởng xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Mảng xem cây phạm thú mầu,
Vầng kim ô đã gác đầu non tê.
Tiệc thô ai nấy cùng về,
Gió chiều lay bóng hoa lê la đà.
Bân cầu đàn lũ năm ba,
Thần tiên trưóc mắt ai là kẻ hay!
Sinh vừa tựa liễu nương cây,
Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần.
Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy giòng chũ viết ba vần bốn câu.
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ây ai thả lá doành câu ghẹo người.
Vừa toan họa lại mấy lời,
Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn.

7.- Tú-Uyên gặp mỹ-nhân (câu 91- câu 108)

Thấy người trước cửa tam-quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
Lạ lùng con mắt người thơ,
Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương.
Rành rành xuyến ngọc thoa vàng,
Quần Nghê tha thưót, sóng Tương rượm rà.
Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời.
Gần xem vẻ mặt thêm tươi,
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình.
Vốn mang cái bệnh Trương-sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao?
Đưa tình một nét sóng đào,
Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người.
Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Từ-lang chưa dễ lạc vời non tiên.

8.- Tú-Uyên đối thoại với mỹ-nhân dưới cây đu (câu 109 - câu 142)

Dù mặt lạ đã lòng quen,
Cả liều đến gốc thu-thiên ướm nàng:
"Quá vui nên trót sỗ-sàng,
"Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa."
Khách rằng: "Trong hội Vô-già,
"Cửa không, ngàn giác đấy là từ-bi.
"Gió bay những tiếng thị phi,
"Trót lầm thôi có trách gì đến ai"
Giọng kiều nghe lọt vào tai,
Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình.
Thưa rằng: "Chút phận thư-sinh,
"Đèn từ soi đến tấm thành với nao!
"Chi-viên nỡ hẹp-hòi sao,
"Mở đường phương tiện chút nào được chăng?"
Răng: "Đây về đạo kim-thằng,
"Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.
"Bến từ có hẹp chi ai,
"Giốc đem thuyền giác độ người bến mê.
"Ngán cho bên cõi bồ-đề,
"Phải đưòng ong bướm đi về đấy sao?
"Đoá hoa sẵn nhạc vàng treo,
"Tiếng oanh chỉ để lao-xao trên cành."
Lặng nghe lọt đến giọng tình,
Lòng tham quanh cả bên mình mỹ-nhân.
Rằng: "Đây lầm xuống mê tân,
"Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
"Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
"Nhờ tay kim-tướng, đưa duyên xích-thằng.
"Gậy linh mượn phép cao-tăng,
"Phá thành sầu-khổ cho bằng mới cam.
"Chày sương đợi khách cầu Lam,
"Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu.
"Nước bèo dù có duyên sau,
"Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây."

Chú thích:
sinh: tiếng gọi những hạng người văn-học. Sinh đây chỉ vào Tú Uyên,Trần Sinh.

vinh khô: tươi;khô:héo, ý nói người có lúc sung-sướng lúc khổ-sở, cũng như cây có lúc tươi lúc héo.

cùng thông: cùng:cùng kiệt, quẫn bách; thông:thông đồng, thanh thản.

cơm giỏ nước bầu:bởi chữ đan tự biều ẩm, cảnh nghèo của ông Nhan Uyên(đã chú-thích ở trên).

yến-tước biết đâu chí hồng :câu này bởi chũ "Yến-tước an tri hồng hộc chí", loài ri-sẻ biết sao được chí khí của loài chim hồng, chim hộc (chim to).

tang bồng : bởi chữ tang bồng hồ thỉ cung gỗ dâu, tên cỏ bồng.

Tây-hồ tiên tích : vết tích ở hồ Tây.

phẩm bình:Chung Vinh đời Nam-bắc-triều bên Tàu, sọan 3 quyển thơ, liệt các bài ngũ-ngôn từ đời Hán đời Ngụy 103 nhà, theo sự phê bình hơn kém mà chia ra làm ba phẩm : thượng, trung, hạ . Sau người ta quen dùng hai chữ "phẩm-bình" để nói chuyện thơ. Chữ phẩm bình trong câu này cũng chỉ là nói về ngâm vịnh.

thi hào:hào trưởng trong làng thơ.

Phượng-thành:CaoBiền đời Đường, một nhà giỏi địa-lý bên Tàu, xem đất Hồ Tây Hà-nội, cho là kiểu đất "Phượng-hoàng uống nước". Bởi thế nên người ta gọi Hà-nội là Phượng-thành; cũng có bản chép là Long-thành. Vì Hà-nội thời Bắc-thuộc gọi là Long-biên, cũng gọi là Long-độ, đến đời Lý đóng đô thì gọi là Thăng-long, cái tên Long-thành do đấy mà ra.

Lý, Đỗ, Tô, Tào:Lý:Lý Bạch, Đỗ:Đỗ Phủ đều người đời Đường, Tào:Tào Thực, người đời Tam-quốc là những nhà thơ hay (thi-bá) bên Tàu. Còn Tô:tức Tô đông Pha. Có bản chép Tôn,Tào,Tôn, phải chăng Tôn-Sước, người đời Tấn, có bài phú Thiên-thai, quán quân các văn-sĩ tài-hoa lúc bấy giờ nhưng chưa dám chắc; xin thức giả chỉ giáo.

phong-tao:phong:phong-nhã, tao: ly-tao là những tiếng dùng để chỉ về sự văn-học.

châu ken chữ, gấm thêu lời:châu ken chữ: do câu "thi thành châu ngọc tại huy hào", gấm thêu lời do chữ "cẩm tâm tú khẩu" nói thơ hay lời đẹp như gấm vóc. Cả hai câu này đại ý cũng như câu " lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" của truyện Kiều.

người trong sách là duyên:câu này do câu chữ nho "thú thê mạc hận vô lương môi, thư trung hữu nữ nhan như ngọc", (lấy vợ đừng sợ không mối tốt, trong sách có gái đẹp như ngọc).

Lam-điền:Lam-kiều: tên một cái cầu ở Trường-an, nơi Bùi-Hàng đời Đường gặp tiên-nữ.

Ngọc-hồ. Chay tăng:Ngọc-hồ: tức chùa Bà Ngô ở phố Sinh-từ Hà-nội bây giờ .Chay tăng :đám chay của các nhà sư.

Dập dìu tài-tử giai-nhân:Có bản chép: đầy thềm tài-tử giai-nhân, nhưng Bích-câu có trước truyện kiều, tưởng nên để dập dìu hay hơn.

Mã tích xa trần:vết ngựa,bụi xe.

thưởng xuân:vui dạo cảnh xuân.

cây phạm:cây phướn nhà chùa.

Kim-Ô, non tê:Kim Ô:quạ vàng, trỏ mặt trời. Non tê :bởi chữ tê-sơn, tê ta quen đọc là tây, nhưng chính là tê mới đúng vần chữ Hán.

lá hồng :tức chiếc lá có đề bài thơ

Ba vần bốn câu:một bài thơ tứ tuyệt.

thả lá doành câu:bởi tích Vu Hựu đời Đường nhặt được chiếc lá đỏ trong ngự câu (ngôi nhà vua trôi ra, có đề bài thơ rằng: "lưu thủy hà thái cấp, thâm cung tận nhật nhàn, ân cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân-gian .Nghĩa là nước chảy sao vội quá, trong cung sâu trôi suốt ngày, ân cần từ giã chiếc lá đỏ, mày đi tới nhân-gian cho tốt. Vu Hựu cũng đề một bài thơ vào chiếc lá khác thả trên giòng nước cho trôi vào cung. Cung-nữ là Hàn-thúy-Tần nhặt được cất đi. Mười năm sau nhà vua có dịp thải cung nữ, tình cờ Vu Hựu cùng Hàn Thúy-Tần kết duyên với nhau, cùng đem chiếc lá đỏ có đề thơ khi trước ra coi, té ra chiếc lá đề thơ là người mối. Thuý-Tần có thơ rằng: Nhất liên thi cú tuỳ lưu thuỷ,
thập tải ưu-tư mãn tố hoài,
kim nhật đô thành loạn phượng hữu,
phương tri hồng diệp thị lương môi.
Nghĩa là một tập câu thơ theo nước chảy, nỗi nhớ thầm chứa chất trong lòng mười năm, ngày nay đều thành bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là người mối tốt.

tam quan:ba cửa, cửa chùa.

con hoàn:bởi chữ liễu-hoàn, con ở gái, thị nữ, thị-tỳ.

người thơ:bởi chữ thi nhân.người văn thơ, thi-sĩ, văn-sĩ.

Quần Nghê:bởi chữ Nghê-thường, thứ xiêm của nàng tiên. Sóng Tương : sóng nước sông Tương, tục truyền hai bà Nga Hoàng, Nũ Anh vợ vua Thuấn, khóc chồng ở bên bờ sông Tương, vẩy nước mắt vào cây trúc, đọng thành giọt óng ánh như ngọc. Giọt rơi xuống nước thành những đám thủy-ba.

Cá chìm nhạn sa:bởi chữ ngư trầm lạc nhạn, nói bóng về sắc đẹp.

làn thu:bởi chữ thu thủy, nói bóng con mắt sắc và sáng như nước mùa thu.

nhăn chút lông nheo:Tây Thi, con gái nhá bán củi xóm tây thôn Trữ-la nước Việt, người đời Xuân-Thu, có nhan-sắc tuyệt trần, mỗi khi bị đau nhăn mặt ôm bụng lại càng đẹp. Câu này nói mỗi cái nhăn lông mày (đuôi nheo) của người đẹp, cũng đủ làm cho tình-tứ não-nùng. Có bản chép: khôn người gọi chút bấy nhiêu cũng tình.

Trương-sinh:có lẽ là Trương Quân-Tụy dan-díu với Thôi Oanh-Oanh trong Mái Tây (Tây-sương-ký). Đây nói bóng về kẻ si tình.

nghiêng nước nghiêng thành:câu này do câu chữ "nhất tiếu khuynh nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc" : một cười làm nghiêng thành, hai cười làm nghiêng nước. Nói bóng về sức mạnh của sắc đẹp, chỉ một vài cái cười cũng đủ nghiêng đổ thành quách quốc-gia của người ta.

sóng đào:câu này do chữ thu ba tống tình.

Từ-lang:tức Từ Thức, người Tống-sơn (Thanh-hóa) đời nhà Trần làm tri-huyện, huyện Tiên-du, đi xem hội mẫu-đơn ở chùa Phật-tích (Bắc-ninh), gặp một nữ-lang lỡ tay bẻ gãy một cành hoa, bị nhà chùa giữ lại bắt đền, Từ thương tình cởi áo ra chuộc cho về. Sau Từ thôi quan về quê, qua núi Nga-sơn lại gặp nữ-lang tức tiên nữ Giáng Hương. Nay ở Nga-sơn còn có một cửa động gọi là động Từ Thức, tương truyền là nơi Từ Thức gặp tiên.

thu-thiên:cây đu

khách:đây trỏ vào mỹ-nhân.

Vô-già:tên một hội ở chùa. Có bản chép : trong hội thuyền già.

cửa không:do chữ không môn. Theo thuyết nhà Phật thì thế-gian cái gì cũng không cả, nên thế-tục cho cửa Phật là cửa không.

ngàn giác:do chữ giàc ngạn. ĐạoPhật là chính giác, noi theo đạo Phật là bước lên cái bờ giác-ngộ.

từ-bi:hiền lành, thương-xót, khẩu-hiệu của nhà Phật là từ-bi lân mẫn chúng-sinh.

thị-phi:phải trái. Câu này ý nói dù phải hay trái cũng không chấp.

giọng kiều:giọng nói của người con gái.

thư-sinh:học-trò, người đọc sách.

đèn từ:ngọn đèn từ-bi, ý nói đèn nhà Phật.
tấm thành: có bản đề là tâm thành, nhưng tấm thành có lẽ ổn hơn. Tấm thành là lòng thành, do chữ nhất phiến thành tâm, mới là lời nói nhún.

Chi-viên:tên một khu vườn của đức Phật. Ngày xưa Tu Đạt Đa trưởng-giả muốn sửa một nơi tinh-xá (nhà tinh-khiết) để đức Phật ở, xét chỉ có vườn của Chi-Đà Thái-tử rộng 80 khoảng, nhiều cây sầm-uất, bèn nói với Thái-tử, Thái-tử bảo đem vàng giải khắp vườn sẽ cho. Tưởng là nói đùa, không ngờ trưởng giả làm thực, rồi dựng thành tinh-xá thỉnh đức Phật đến ở, gồm 1300 khu. Vì là vườn của Chi-Đã Thái-tử nên mới gọi là Chi-viên.

phương-tiện:tùy phương nhân-tiện, tiếng nói của nhà Phật, cũng như nói tùy-tiện không bắt-buộc.

kim thằng:dây vàng, dây buộc kinh của nhà Phật.

trăng hoa:tức là trêu hoa ghẹo nguyệt : chuyện trai gái. Có bản chép Phong-hoa : bởi chữ phong-hoa tuyết nguyệt : cái thú vui-vẻ thỏa-thích của trần-gian-e không đúng.

bến từ:bến từ-bi của nhà Phật. Có bản chép bến Thiền.

giác:bởi chữ chính-giác, dạo Phật lấy sự giác-ngộ làm tông-chỉ chính; thuyền giác nghĩa là con thuyền chứa đầy sự giác-ngộ. Có bản chép : Sá đem thuyền giác dộ người si-mê.

bồ-đề:tiếng Phạn, cũng như nói chính-giác.

mê tân:bến mê

tiền duyên:duyên trước
kim thân:thân đời nay.

ba sinh:bởi chữ tam sinh, ba đời luân chuyển, kiếp này sang kiếp khác.

mười nguyền:bởi chữ thập đại nguyện (mười điều nguyện-ước lớn), chữ nhà Phật.

kim-tướng:bởi chữ kim tướng ngọc chất, tướng vàng chất ngọc, nói về bậc cao-quí thiêng-liêng. Có bản chép Kim-hạnh.

Xích-thằng:dây đỏ, lấy tích Vi Cố đời Đường đi cầu hôn, gặp ông già ngồi tựa cái túi vải hướng về mặt trăng soạn sổ. Hỏi sổ gì thì nói là hôn-nhân. Hỏi trong túi có vật gì, thì nói có dây đỏ để buộc chân những người có duyên nợ vợ chồng, dù xa cách hay có thù hằn gì, khi đã xe dây thì không thể tránh được.

gậy linh:bởi chữ linh trượng, gậy thiêng, nghi-trượng của nhà chùa

cao-tăng:nhà sư cao tay. Sư giỏi.

Cầu Lam:Lam-kiều, nơi Bùi-Hằng đời Đường gặp tiên nữ.

nước bèo:bởi câu bình thủy tương phùng, tận thị tha hương chi khách (bèo nước gặp nhau, đều là khách lạ quê người cả.

9.- Nỗi nghi hoặc của Tú-Uyên sau khi mỵ-nhân biến đi (câu 143- câu 160)

Người còn cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh.
Ngóng theo đến Quảng-văn đình,
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng lâu tử các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Ơn lòng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không.
Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, tình rơi cõi trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,
Hồn chưa đến chốn non thần đã mê.

10.- Tú-Uyên trở về mang bệnh tương tư (câu 161 - câu 190)

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hoè chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương-tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao-ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
Tương-Như lòng ấy, Văn-Quân lòng nào.
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy.
Hơi men chưa nhấp đã say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương.
Ỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cãnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
lòng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh-thiều cho nao !
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru !

11.- Hà-Sinh đến thăm bạn, Tú-Uyên kể sự tình (câu 191 - câu 218)

Đồng song có gã họ Hà,
Ướm tình mới hỏi lân-la gót đầu.
Cớ sao chuốc não mua sầu,
Bữa thường ngao-ngán như màu nhớ ai?
Bấy nay vắng vẻ thư-trai,
Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Hoạ may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người.
Song mà tình chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
Tình chung chẳng ở vòng này hay sao?
Nói dù nghe cũng thế nào,
Lặng dù, nghe cũng nao-nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san-sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.

12.- Hà-Sinh nhắc lại chuyện Thánh-Tông gặp tiên (câu 219 - câu 244)

Hà nghe nói hết căn nguyên,
Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên-phi,
Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
Ngọc-Liên nghe có Hoa-tiên,
Thánh-Tông thủa trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp môt người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
Còn di tích đó là lầu vọng tiên.
Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.


Chú thích:
Quảng-văn đình: nay là chợ cửa Nam Hà-nội

hồng lâu tử các: lầu hồng gác tía, trỏ về phụ-nữ nhà phú-quí.

Non Ngọc: bởi chữ Ngọc-sơn. Sơn-hải kinh: Ngọc-sơn là nơi ở của Tây Vương Mẫu. Có bản chép :tới non Vu dễ ai nào bỏ qua !

sắc sắc không không: tiếng nhà Phật.Sắc, nói về hết thảy những cái có hình-tượng hiện rõ ra ngoài. Không là hư không chẳng có gì cả.

xe loan:bởi chữ loan xa, đó là môt thứ xe có đeo chuông nhạc để đi cho có nhịp, êm-ái đều đều, vì là xe chở các phi-tần của nhà vua. Chữ xe loan đây chỉ vào xe tiên-nữ.

dộng-bích: bởi chữ bích động nơi tiên ở,

năm thức mây: bởi chữ ngũ sắc vân.Từ-nguyên "ngũ sắc tường vân, tiên nhân sở ngự" : năm thức mây đẹp là nơi tiên ở.

giấc hòe:bởi tích Hòe-an mộng. Thần Vu Phần say rượu ngủ dưới gốc cây hòe, nằm mộng thấy vua nước Hòe-an vời cho làm quan ở quận Nam-kha, khi tỉnh dậy, thấy gốc cây có lỗ sáng vừa bằng cái giường, có con kiến rất to, đó là vua, lại có một lỗ về phía nam cành cây, đó là quận Nam-kha. Sau người ta nói bóng về chiêm bao thường gọi giấc hòe hay giấc Nam-kha cũng thế.

hoài nhân:nhớ người, do câu "ta ngã hoài nhân" trong Kinh Thi lời bà Hậu Phi nhớ Chu Văn-Vương.

cầu hoàng:khúc đàn cầu hôn (tìm vợ) của Tư-Mã Tương Như.

Tương Như::tức Tư Mã Tương Như, một bực văn tài đời Hán gẩy đàn rất hay, Trác văn Quân là một gái đẹp góa chồng nghe khúc cầu hoàng của Tương Như phải lòng đi theo.

đoạn trường:đứt ruột

sông Tương:vua Thuấn mất ở Thương-Ngô, hai vợ là Nga Hoàng, Nữ Anh cùng thương-khóc thảm-thiết ở trên sông Tương-giang, bởi đấy người ta mượn chữ sông Tương để ví với nước mắt, cũng như nói hạt châu hay hàng châu.

trận nhàn:bởi chữ nhạn trận, hàng chim nhạn.

nỗi riêng, riêng biết, dã-dề với ai:có bản chép: Nỗi lòng ta biết đi về cùng ai. Có bản chép...tả đề với ai.

Ả Hằng:bởi chữ Hằng Nga, người đẹp trong cung trăng.

tinh-thiều:cái xe của sứ-giả thông tin.

đồng song:cùng cửa sổ, bạn cùng học một thầy.

thư-trai:phòng đọc sách.

cố nhân:người cũ, bạn cũ

nói dù, nghe cũng thế nào,:có bản chép :nói ra nghe thấy thế nào. Lặng yên thì cũng nao-nao chẳng đành.

bệnh-căn:gốc bệnh.

hương trời:bởi chữ thiên-hương.

Thần-nữ, tiên phi:chỉ về bậc phụ-nữ thần tiên.

lá hồng:bởi chữ hồng-diệp, đã chú-thích ở trên.

chỉ hồng:bởi chữ xích-thằng, đã chú thích ở trên.

Thánh-tông(1460-1497:vua thứ bốn đời Hậu Lê, một ông vua có tài văn thơ, thích ngâm vịnh, rất lưu-tâm về văn-học nước nhà.

bài quốc-âm:tương truyền Lê Thánh-tông ngự chơi chùa Ngọc-liên nghe thấy một ni-cô ngâm câu kệ rằng;" Ở đây mến cảnh mến thầy, tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng trần". Ngài truyền ni-cô làm thơ mà đầu bài lấy ngay câu ấy. Ni-cô ứng khẩu ngay. trong bài thơ có câu rằng; "Gió thông đưa kệ tan niềm tục, hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời ".

tú khẩu cẩm tâm: (miệng thêu lòng gấm) nói văn-chương tươi-đẹp như gấm vóc. :

lầu vọng tiên: tương truyền sau khi vịnh thơ, Lê Thánh-tông khen là tài nữ, cho ni-cô ngồi cùng xe đem về cung, đến nửa đường bỗng biến mất. Ngài nhớ tiếc mãi, truyền dựng lầu trông-ngóng. Nay phố Hàng Bông Hà-nôi, chỗ cây đa cửa quyền còn có Vọng tiên quán, phải chăng di-tích tự bấy giờ ?

Én bắc nhạn nam: bởi câu "cô nhạn nam phi hồng bắc khứ" (nhạn lẻ bay về nam, chim hồng bay về bắc). Ý nói không dính-dáng gì với nhau.

cánh hoa mặt nước: bởi câu 'lạc hoa lưu thủy lưỡi vô tình ", hoa rụng nước trôi hai bên không có tình gì cả.


13.- Hà-Sinh khuyên bạn không nên mơ tưởng hão (câu 245 - câu 272)

Hà rằng: "Hương lửa duyên ưa,
"Có khi tình trước còn chờ hội sau.
"Đành rằng ký ngộ nan cầu,
"Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm.
"Biết đâu nhắn cá gửi chim,
"Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành.
"Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh,
"Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là.
"Chuốc mua lấy nợ phong hoa,
"Mối tơ phó mặc trăng già phải nao!
"Xuân sang xuân đã già nào,
"Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu."
Vắt tay ngẵm nghĩ xưa sau,
Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không.
Nói cười tươi tắn thong dong,
Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân-thiên.
Thôi mong khách, lại chờ tin,
Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài.
Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Ngày thường ngắm cảnh am mây,
Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn.
Còn trời, còn nước, còn non,
Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa.
Hoa đào còn đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?
Vù vù gió thổi rèm lau,
Càng như chất mối tơ sầu vào thêm.

14.- Tú-Uyên xem bói thẻ và nằm mộng (câu 273 - câu 290)

Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm,
Tới đền Bạch-mã, giải niềm cầu duyên.
Khấn rồi ra góc tây hiên,
Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to.
Bóng trăng vừa xế cành ngô,
Giấc hoè dìu-dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm,
Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Trước sân sang sảng dạy lời,
Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô;
"Lọ là oanh yến hẹn-hò,
"Cầu Đông sẵn lối, cầu Ô đó mà!"
Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Sao vừa nhàn-nhạt, trời vừa eo eo.
Lòng yêu phải bước chân theo,
Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì.
Nước trong vắt, cỏ xanh rì,
Thạch-kiều thấy đó giai kỳ nào đâu?

15.- Gặp người bán tranh, Tú-Uyên mua về treo (câu 291 - câu 304)

Trông mong đã suốt giờ lâu,
Ôm cây mãi thế, ra màu cũng quê.
Chán chiều thơ thẩn ra về,
Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười.
Bỗng may lại gặp một người,
Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa.
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền-thần một tượng Tố-nga rành rành.
Dịu dàng vẻ đạm màu thanh,
Như người gặp Quảng-văn đình ngày xưa.
Càng nhìn nét bút càng ưa,
Chàng Vương dẫu mạc bao giò cho nên.
Mua về treo chốn thư-hiên,
Như ai đem ngọc giải phiền lại cho.

16.- Tú-Uyên với bức tranh Tố-nữ (câu 305 - câu 327)

Mưa hoa khép cánh song hồ,
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi.
Mâm chung một, đũa thêm hai,
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi hình ảnh cũng là phát phu.
Êm trời vừa tiết trăng thu,
Ngàn sương rắt bạc, lá khô rụng vàng.
Chiều thu như gợi tấm thương,
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình.
Kề bên năn nỉ bày tình,
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa.
Từ phen giáp mặt đến giờ,
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn.
Ấy ai điểm phấn tô son,
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồn đào nửa bước chẳng rời,
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng,
Vén mây mở mặt chi Hằng, chút nao!
Chợt trông mấp máy miệng đào,
Mặt hoa hớn-hở dường chào chúa Đông.

Chú thích:
kỳ ngộ nan cầu: cuộc gặp-gỡ lạ-lùng khó kiếm.

viễn hoài: nhớ người xa.

khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây: câu này nói khi ở trường học, khi đến nhà chùa.

người năm ngoái: câu này do bài thơ của Thôi Hộ:
"Tích niên kim nhật thử môn trung,
nhân diện đào hoa tương ánh hồng;
nhân diện bất tri hà xứ khứ,
đào hoa y cựu tiếu xuân phong".
Nghĩa là năm trước hôm nay trong cửa này, mặt người hoa đào cùng ửng đỏ, mặt người chẳng biết đi nơi nào, hoa đào nguyên vẫn cười với gió.

bốc tiêm: bói thẻ (ở các đền chùa để xem tốt xấu).

Bạch-mã: tức đền Bạch-mã ở hàng Buồm.

giấc hòe: xem chú thích ở trên.

thiết bảng: bảng sắt (gậy sắt).

sông Tô: tức sông Tô-lịch, nay đã bị lấp, di-tích của sông là phố Tô-lịch bây giờ..

cầu Đông: nay ở phố hàng Đường.

Cầu Ô: do chữ Ô-kiều lấy tích mồng 7 tháng 7, chi quạ đi đội cầu qua sông Ngân-hà cho Ngưu Lang Chức Nữ hội kiến với nhau.

trờivừa eo eo: câu này ý nói trời gần sáng, có bản chép: trời đà kiêu kiêu.

Thạch-kiều: cầu đá.

giai kỳ: kỳ hẹn tốt.

ôm cây: do tích truyện trong sách Hàn-phi-tử ; người nước Tống đi cày ruộng, giữa ruông có cụm cây, có con thỏ chạy vấp phải mà chết, người đi cày bỏ cày đên ôm mãi lấy gốc cây, mong lại có con thỏ nữa.

Tố Nga: tức Hằng Nga trong cung trăng, đây nói về gái đẹp.

Vương Ma-Cật: là một danh họa đời xưa.

thư-hiên: hiên nhà đọc sách.

giải phiền: cởi sự phiền-não.

song hồ: bởi chữ chỉ song hay hồ song, nghĩa là cửa sổ phất giấy, nơi đọc sách của học trò nghèo.

họa-đồ: tranh vẽ, tức là bức tranh Tố-nữ mà Tú Uyên mua đem về treo,

phát-phu: tóc và da. Hiếu Kinh có câu : thân thể phát phu thụ chi phụ-mẫu... nghĩa là thân-thể tóc da con người là bẩm thụ bởi cha mẹ. Câu này ý nói hình-ảnh thì coi cũng như người thực.

sông Tương: xem chú-thích ở đoạn trên.

chúa Đông: bởi chữ Đông-quân, tên một vị thần coi về mùa xuân. Chúa Đông cũng như nói chúa xuân .


17.- Tố-nữ trong tranh hiện thành người thực (câu 327 - câu 340)

Cho hay tình cũng là chung,
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc tràng văn,
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng.
So xem phong vị khác thường,
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt-ngào.
Bếp trời sẵn đấy hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi?
Rạng mai cứ buổi ra đi,
Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi.
Sẩy đâu thấy sự lạ đời:
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa,
Này người khi trước, đâu mà đến đây?

18.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều trò chuyện (câu 341 - câu 374)

Nàng đương trang điểm nào hay,
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào.
Vội-vàng đánh tiếng ra chào,
Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình!
Rằng:"Bấy lâu một chữ tình,
"Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường".
Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường,
"Vì mang má phấn, nen vương tơ điều.
"Vốn xưa thiếp khách thanh-tiêu,
"Tiên-thù là hiệu, Giáng-Kiều là tên.
"Ba sinh đã nặng vì duyên,
"Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.
"Nhân duyên đã định ngày xưa,
"Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
"Cũng là nhờ đức tiên-quân,
"Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày."
Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay,
"Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi!
"Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
"Lám chi cho vẩn lòng người lắm nau?"
Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu,
"Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
"Dám đâu học thói yến oanh,
"Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương.
"Gieo thoi trước đã dở dang.
"Sau nên nát đá phai vàng như chơi.
"Mái Tây còn để tiếng đời,
"Treo gương kim cổ cho người soi chung.
"Lạ chi hoa với gió đông,
"Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh.
"Một mai mưa gió bất tình,
Vóc tàn, nên để yến oanh "hững hờ.
"Nghĩ trong thân-phận yếu thơ,
"Làm chi để tiếng sờ-sờ lại sau?"

19.- Giáng-Kiều dùng phép tiên biến hoá (câu 375 - câu 400)

Nói thôi rút chiếc trâm đầu,
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra.
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương.
Giọng tình sánh với quỳnh-tương,
Giả say sinh mớ toan đường lần khân.
Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân,
"Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi.
"Song còn mấy bạn tương tri,
"Bấy lâu chưa có chút gì là đâu.
"Trước xin từ biệt cùng nhau,
"Chữ duyên này trở về sau còn dài."
Nghe lời nói cũng êm tai,
Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây.
Trước sân mừng cuộc tỉnh say,
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa.
Bóng mâ bỗng kéo quanh nhà,
Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài.
Tường-quang sáng một góc trờ,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh-tao,
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai.
Lả-lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân-lang.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ-y thấp-thoáng, Nghê-thường thiết tha.

20.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều kết duyên (câu 401 - câu 428)

Yến tân chuốc chén năm ba,
Người còn vui tiệc, khách đà cáo say.
Kẻ ra nương bánh xe mây,
Người vào trong gấm vui-vầy bạn loan.
Lả-lơi cười với hoa-nhan,
Trải chăn thúy-vũ, buông màn phù-dung.
Phòng tiên dìu-dặt chén đồng,
Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao.
Ngẩn-ngơ hé cửa động đào,
Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân.
Mấy vàng đổi được khắc xuân.
Xưa nay tài-tử, giai-nhân lạ gì?
Cho hay thiên tải giai kỳ,
Trăng già xe đã phải thì đào non.
Cũng là môt mốt tơ son,
Năm-trăm năm cũng vuông tròn từ đây.
Đàn cầm từ thủa bén dây,
Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung!
Khi gió mát, lúc trăng trong,
Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây.
Khi tuyết xuống, lúc hương bay,
Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình.
Tài hoa-quốc, sắc khuynh thành,
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên.
Ngươi tao-nhã, khách thuyền-quyên,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời.
Nhà lan sum-họp ban mai,
Đã trong tần-tảo, lại ngoài ty-ca.


Chú thích:
bát-trân: tám thức ăn quí-báu ngon lành. Theo Chu-lễ thì 8 thức ăn là : bột ngào, bánh mỡ, lợn quay, dê thui, chả giả, thịt ướp, nem luộc và gan nướng.

bếp trời: bởi chữ thiên trù, tên một ngôi sao coi việc bếp cho nhà trời.

mày liễu mặt hoa : có bản chép : Rõ-ràng mày liễu mặt hoa.

Đâu mà đến đây : có bản chép : Đào nguyên lạc lối đâu mà tới đây.

Bồ-liễu: một loài cây cỏ mềm yếu. Cố quân Thúc đời Tấn, đồng tuế với vua Giản Văn-đế mà đầu bạc sớm, vua hỏi thì nói : cái tư-chất của loài bồ liễu, hễ thấy mùa thu là rụng- bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc, vì thế người ta quen dùng chữ bồ liễu để ví phái yếu (bạn gái).

thanh-tiêu: mây xanh, bầu trời.

tiên thù : nghĩa đen là nàng tiên đẹp

Giáng Kiều: nghĩa đen là gái đẹp mặc áo mùi.
Hai danh từ trên đây có bả chép là tiên chu và phong kiều có lẽ dịch lầm chữ thù ra chữ chu và chũ giáng ra chữ phong.

tơ trăng: do chữ tơ hồng nguyệt lão dây tơ của bà nguyệt xe duyên vợ chồng.

tiên-quân: chúa tiên.

tác hợp duyên trời: do câu thiên tác chi hợp trong Kinh Thi, nghĩa là trời làm cho kết hợp với nhau. Ý nói nhân-duyên tự trời gây nên.

lắm nau: cũng như lắm thay, tiếng đệm, như câu :"làm chi cho bận lòng này lắm thân" trong truyện Kiều. Có bản chép là "lắm nao".

gieo cầu: do tích Hán Vũ-đế kén phò mã, cho công chúa đứng trên lầu gieo quả cầu xuống dưới, ai cướp được thì trúng tuyển. Sau các nhà quyền-quí cũng bắt chước lối ấy để kén rể.

tấm son: tức tấm lòng.

xanh xanh: do chữ thương thương chỉ vào trời xanh.

gieo thoi: có bản chép : gieo cầu.

Mái Tây: do chữ Tây-sương, Thôi Oanh Oanh tư-ước với Trương Quân-Thụy ở mái Tây chùa Phổ-cứu, sau bị Trương Quân-Thuỵ coi rẻ.

hững-hờ: có bản chép :"Vườn xuân luống để yến-oanh cười khờ".

bình trầm: do chữ hương bình ; chén hà do chữ hà bôi.

quỳnh-tương: nước ngọc, nói về thứ rượu quí.

túc trái tiền nhân: nợ cũ duyên xưa.

tương tri: cùng biết nhau.

đãi nguyệt: đợi trăng.

đối hoa: ngắm hoa, đối diện với hoa.

thảo am: lều cỏ, nhà tranh.

tường-quang: ánh-sáng tốt lành, bóng hào-quang báo điềm tốt lành.

cố-hữu: bạn cũ.

tân-lang: chàng rể mới.

Nghê-thường thiết tha : Đường-thư : Đường Minh-Hoàng lên chơi nguyệt-điện, thấy các tiên-nữ mặc áo cánh chim (vũ-y), đeo xiêm mùi cầu vồng (nghê-thường), hát bài Tây-thiên điệp-khúc. Trở về chỉ còn nhớ mang-máng, nhằm lúc có Tiết Độ-sứ Tây-lương đem khúc hát Bà-la-mon đến hiến, Minh Hoàng truyền đem sửa-sang nhuận-sắc lại và đổi tên là khúc "Nghê-thường vũ-y".

yến tân: đặt tiệc đãi khách.

hoa-nhan: mặt hoa.

thúy-vũ: lông chim trả, chăn dệt bằng lông chim trả.

phù-dung: hoa phù-dung, màn thêu hoa phù-dung .

Rèm tương: cái rèm làm bằng trúc ở sông Tương. Tương truyền hai bà vợ vua Thuấn khóc chồng, vẩy nước mắt vào những khóm trúc, thứ cây sản-xuất ở trên sông Tương, nước mắt đọng giọt, làm cho giống trúc có vằn óng ánh như ngọc, trông rất ngoạn mục, người Tàu quen dùng thứ trúc ấy chế rèm hay mành mành. Kiều có câu :"Mành Tương phất phất gió đàn !"

khắc xuân: câu này bởi câu "Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim" : một khắc đêm xuân giá nghìn vàng.

thiên tải giai kỳ: dịp hẹn tốt, nghìn năm mới có một.

hương bay,: có bản chép : sương bay, e không đúng vì đây là phong, hoa, tuyết , nguyệt.

hoa-quốc: làm vẻ vang đẹp đẽ cho nước, nói về văn-chương.

khuynh thành: do câu nhất tiếu khuynh nhân thành : một cười làm đổ thành, nói về sắc đẹp.

Cầm, kỳ, thi, tửu: cầm : đàn, kỳ : cờ, thi: thơ, tửu : rượu. Có bản chép : Cầm, kỳ, thi, họa ; e không đúng vì trên có câu : Bầu tiên chuốc rượu

tần-tảo: thứ rau ở dưới nước, dùng vào việc cúng tế. Tần-tảo đây trỏ vào người nôi trợ trông coi việc nấu nướng, thờ cúng tổ-tiên.

ty-ca: đàn hát.

21.- Tú-Uyên say đắm rượu chè, Giáng-Kiều can ngăn không nổi (câu 429 - câu 444)

Dần dần năm đã kể ba,
Hạnh và độ thắm, liễu và phần son.
Duyên ai tính đã vuông tròn,
Nào hay nợ trước chút còn dở-dang.
Trần-sinh từ thủa gặp nàng,
Vui-vầy mê-mả nên càng quá xưa.
Môt ngày say mấy canh thừa,
Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều.
Rằng: "Xin gửi một hai điều,
"Thân trăm-năm nỡ bỏ liều thế ư!
"Thiếu gì những chuyện ngày xưa,
"Còn bia miệng đó trơ trơ chưa mòn!
"Ấy ai dỗi gót bên non,
"Bóng trăng Thái-thạch là hồn ai say!
Ví còn lầm trước chưa hay,
"Thì đem gương ấy sau này mà soi."

22.- Giáng-Kiều bị ngược-đãi giận bực bỏ đi (câu 445 - câu 476)

Ngán thay khuyên-nhủ đến lời,
Nưóc kia dội đá có mùi gì đâu.
Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,
Cạn chung Lý-Bạch, nghiêng bầu Lưu-Linh.
Ma men quanh-quẩn bên mình,
Cho đàn trễ phím, cho bình nhạt hương.
Mải-mê say tỉnh tâm-trường,
Liệu bài nàng lại tìm đường van-lơn.
Trái tai vả lại ngứa gan,
Đang tay nỡ dập hoa tàn tả-tơi.
Dây đồng đứt hẳn làm đôi,
Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu!
Nàng càng tầm-tả tuôn châu,
Ngán nhân tình khéo ra màu thắm phai.
Rằng: "Thôi, tôi đã quá lời,
"Xui lòng nghĩ lại một hai kẻo mà..."
Sinh đang vui chén la đà,
Vẩn-vơ tính qủi hồn ma biết gì.
Nói thôi, nói cũng chi chi,
Nghe ra tiếng nặng như chì, giọng say!
Nàng rằng: "Duyên-nợ bấy nay,
"Thương ôinước đổ bốc đầy được đâu
"Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu,
"Doành thu nên để bắc cầu mấy phen!
"Sá chi nữa, cái hoa hèn,
"Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ-càng.
"Đã lòng rẻ thúy chia hương,
"Đành lòng rẫy ngọc, ruồng vàng thì vâng.
"Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng,
"Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi."
Lạy rồi, đứng lại sân ngoài,
Bên bàn say tỉnh mặc người ngồ trơ.

23.- Sau khi tỉnh ra Tú-Uyên hối-hận (câu 477 - câu 516)

Sinh còn đương cuộc nào ngờ,
Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao?
Biết phương nào, biết chước nào.
Có chăng còn lúc chiêm bao họa là!
Non thần mấy dặm đường xa,
Khói mây man-mác dễ mà hỏi, vay!
Cát vàng bụi bạc xa bay,
Mây trên mặt đất, non xây chân trời.
Ngắt chừng bể thẳm doành khơi,
Đường xa bao nả tình dài bấy nhiêu.
Buồn trông quãng vắng đường queo,
Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành.
Buồn trông cửa bể mông-mênh,
Con thuyền thấp-thoáng cuối ghềnh ngổn-ngang.
Buồn trông cuối phố hàng Đường,
Cánh hồng man-mác, hạt sương đầm-đìa.
Buồn trông theo giải Tô-khê,
Chim kêu bụi rậm, trâu về đồng không.
Cảnh buồn như giục tấm lòng,
Lại thêm vấn-vít mấy vòng tơ vương.
Ấy ai phải vía chàng Trương,
Non tiên cách một bước đường nên xa.
Hay là lỗi sổ Hằng-Nga,
Đêm đông vò-võ bóng tà sao thưa.
Nghĩ tình nên những ngẩn-ngơ,
Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai?
Dần dần trăng tối gió may,
Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi-pha!
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Xe dây mỏng-mảnh ỡm-ờ mà chơi.
Cho nên cách trở đôi nơi,
Hoa trôi cửa động, nước xuôi cõi trần.
Nghĩ riêng, riêng những ăn-năn,
Phấn hồ, còn đó, tinh-thần nào đâu?
Càng thêm ngao-ngán trăm chiều,
Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon.
Xác ve ngày một héo mòn,
Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên.
Tả lòng tay thảo mười thiên,
Mấy câu mấy chữ, mấy nghìn câu rơi.

24.- Hà-Sinh khuyên-giải Tú-Uyên (câu 517 - câu 536)

Hà-sinh phải buổi sang chơi,
Xót tình khế-hữu liêu bài giải-khuyên:
"Biết đâu rằng quỉ rằng tiên,
"Một may một rủi thôi phiền não chi.
"Dù tiên duyên đã mãn kỳ,
"Chờ cho duyên hợp châu về mõn hơi!
"Hãy xin gắng-gượng làm tươi,
"Gánh sầu trút cả cho người phải nao!
"Lỡ ra khi đến thế nào,
"Mà cho mắt tục trông vào sao nên."
Rằng: "Xưa trót đã nặng nguyền,
"Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi.
"Cũng đành cho thế-gian cười,
"Còn hơn cam phụ với người tri-âm.
"Duyên xưa âu chẳng xe lầm,
"Bao giờ kéo hêt tơ tằm mà hay!
"Công đâu nghĩ mướn lo vay,
"Dẫu mòn bia đà khôn lay tấc lòng."
Xem chiều nói cũng như không,
Hà-sinh ra ý sượng-sùng cáo lui.


Chú thích:
Thái-thạch: tên một ghềnh đá (vòm câu) dưới núi Ngưu-chử thuộc tỉnh An-huy bên Tàu . Tương tuyền Lý Bạch biệt-hiệu trích-tiên một bậc thi tài đời Đường, có tính phóng-khoáng hay rượu. Một buổi ngồi trên ghềnh đá Thái-thạch, uống rượu say quá, thấy bóng trăng in đáy nước, liền nhảy xuống ôm lấy mặt trăng thành ra chết đuối.

Cạn chung Lý-Bạch: chung : cái hũ. Chung Lý Bạch-hũ rượu của Lý Bạch.

Lưu-Linh: một người nghiện rượu đời Tấn.

Dây đồng : đây là giải đồng tâm.

nước đổ bốc đầy: câu này do chữ phúc thủy nan thu.

vợ chồng Ngâu : do tích Ngưu Lang Chức Nữ. Sau khi lấy chồng Chức Nữ trễ biếng công việc dệt cửi. Ngọc Hoàng cả giận, bắt phải xa nhau mỗi người ở một bên sông Ngân-hà. Ngưu Lang ở bên Tây, Chức Nữ ở bên Đông, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần, tức mồng 7 tháng 7, có đàn quạ đội cầu qua sông cho vợ chồng Ngưu Nữ hội kiến, khi đó đôi bên than khóc thành những giọt mưa tầm-tã, thương gọi là mưa ngâu. Đó là theo tục truyền.

Non thần: đã chú-thích ở trong tích Sở Tương-vương gặp thần-nữ.

hàng Đường: tức chỗ Cầu Đông nơi gặp người bán tranh.

Tô-khê: tức sông Tô-lịch.

trâu về đồng không: câu này tả cảnh buổi chiều, chim về tổ, trâu về chuồng, đồng ruộng vắng-vẻ. Có bản chú-thích là do tích Châu về hợp phố thì ép quá.

chàng Trương: câu này nghe tối nghĩa. Có bản chép ;"Thương ai đứt gánh đoạn trường".

Hằng-Nga: Câu này có bản chép :"Một mình lặng ngắm Tố-Nga".

cõi trần: Câu này bởi câu Thiên-thai :"Hoa lưu động khẩu ưng trường tại, thủy đáo nhân-gian định bất hồi.

Phấn hồ: con bươm bướm có phấn. Nói bóng về giấc mơ, do tích Trang Chu tức Trang sinh nằm mơ thấy mình hóa ra con bươm bướm trắng. Kiều có câu "Ấy là hồ-điệp hay là Trang-sinh".

mười thiên: Tú Uyên nhờ Giáng Kiều viết 10 bài thơ trường-tương-tư.

khế-hữu: bạn bè.

mắt tục: do chữ tục nhỡn, con mắt kẻ phàm.


25.- Tú-Uyên toan tự-ải, Giáng-Kiều bỗng hiện về (câu 437 - câu 570)

Khách đà về chốn tây-trai,
Một mình một bóng đứng ngồi sao yên.
Quyết tìm khắp nước non tiên,
Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh.
Giải là giủ sẵn bên mình,
Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem!
Gió hương đâu bỗng lai rèm,
Bóng hoa đâu đã trước thềm lả-lơi.
Đương khi rằng một rằng hai,
Sịch hài nàng đã tớ nơi bao giờ!
Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ,
Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê.
May sao may khéo đi về,
Chậm chân chút nữa còn gì là ai!
Mắt nhìn chung cả con ngươi,
Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan,
Sinh rằng: "Từ vắng phương-nhan.
"Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu.
"Quản bao bể rộng sông sâu,
"Đã toan quên cả cái cầu tư-sinh.
"Dám đâu riêng phụ với tình,
"Dưới vàng có đất, trên xanh có trời.
"Kể chi những sự đã rồi,
"Sắt son ghi tạc một lời từ đây."
Thưa rằng: "Cầm đã bén dây,
"Có tri âm đó, cuốn dây sao đành.
"Cũng công hương lửa ba sinh,
"Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao."
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
Vườn xuân hoa đã quen ong,
Từng xa-xôi lắm, lại nồng nàn thêm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khoá tình.

26.- Sau khi tái hợp, vợ chồng Tú-Uyên sinh Chân-Nhi (câu 571 - câu 576)

Trên đào vừa thấy tinh oanh,
Gốc giao sớm đã nối cành quế Yên.
Chân Nhi rơi chút dấu tiên,
Một mai dành để dõi truyền thi thư.
Sinh càng chăm-chút sớm trưa,
Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây.

27.- Giáng-Kiều khuyên chồng tòng tiên (câu 577 - câu 608)

Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Thung-dung nàng lại giãi-bày một hai.
Rằng: "Coi cho thấu sụ đời,
"Giam danh khoá lợi, những người thế-gian.
"Trời thu mây hợp, lại tan,
"Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm.
"Gẫm trong tám, chín mươi năm,
"Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru!
"Thịt xương gửi đám Diêm-phù,
"Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng-quân.
"Đố ai vượt khỏi lòng trần,
"Sông mê chìm nổi, thế-nhân đã đầy.
"Anh hùng những mặt xưa nay,
"Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là.
"Dần dần tháng trọn ngày qua,
"Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
"Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
"Ấy nền Đồng-tước, hay lầu Nhạc-dương.
"Chưa đầy một cuộc tang thương,
"Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
"Sao bằng ngày tháng cung tiên,
"Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa.
"Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
"Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu.
"Ra vào kim khuyết quỳnh-lâu,
"Treo tranh yên-thủy, giắt bầu kiền-khôn.
"Đi về tuyết điếm hoa thôn,
"Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.
"Một này trong thú thanh-nhàn,
"Mấy trăm mươn cảnh nhân-hoàn đọ sao!
"Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
"Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?"

28.- Nghe Giáng-Kiều thuyết về tiên đao, Tú-Uyên tỉnh ngộ dần (câu 609 - câu 630)

Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,
Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu?
Thưa rằng: "Đã tiếng trượng-phu,
"Sụ đời vinh nhục chi cho bận lòng.
"Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
"Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời.
"Làm chi cho bạn tiên cười,
"Ai vui viên hạc, ai vui yên-hà,
"Vẩn-vơ trong đám phồn hoa,
"Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?"
Sinh nghe tỉnh chuyện tiền-nhân,
Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê.
Rằng: "Xưa Hoàng-Đế, An-Kỳ,
"Nào phương thoát hoá tu từ sao đây?"
Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay,
"Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao!
"Vả chàng dự bậc thanh-tao,
"Mà xem trong sổ Tiên-tào có tên.
"Học sao cho hết chân truyền,
"Tu sao cho hết tinh-huyền thì tu."

29.- Sau khi trao nhận tiên-phù, hai người cùng cỡi hạc lên tiên (câu 631 - câu 648)

Tay trao một đạo tiên-phù,
Môt phương hỏa-tảo, một lò kim-đan.
Đường tu sẵn cách khảo bàn,
Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng.
Dần theo gió liễu, trăng đồng,
Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng.
Đương khi lốt trắng điểm vàng,
Tỉnh say Vương-mẫu, mơ-màng Lão-quân.
Mây đưa năm sắc tường vân,
Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người.
Dang tay cỡi hạc cả cười,
Nhủ Chân-Nhi lại nối lời thề xưa:
"Còn kỳ dậy gió tuôn mưa,
"Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!"
Nói rồ thẳng rẽ đường mây,
Trông theo cánh hạc về tây tuyệt vời.
Bồng lai riêng một bầu trời,
Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.

Chú thích:
tây-trai: nơi đọc sách phía tây, cũng như tây hiên.

giai lão: do chữ bách niên giai lão : cùng nhau đến trăm tuổi già. Lai sinh : kiếp sau.

trần tình thử xem: có bản chép :cũng liều trằng nợ phong-tình thử xem.

lả-lơi: có bản chép: Bóng hoa đâu đã trước thềm tả-tơi.

phương-nhan:mặt thơm, mặt hoa (tiếng gọi nịnh).

mây ngàn thiếu đâu: Câu này bởi câu thơ chữ "nhất tâm nguyệt vì thương hải nguyệt, nhất tâm nguyện tác lĩnh đầu vân".Nghĩa là : một lòng mong làm trăng bể cả, một lòng mong làm mây đầu non. Có bản chép : Lòng theo trăng núi...

tất giao: sơn keo.

quế Yên: bởi chữ Yên sơn ngũ quế. Đậu Vũ Xứng đời Tống hiệu là Yên sơn, sinh năm con trai đều phát đạt, người ta khen ví với 5 chồi quế. Đây nói về sinh con trai.

Chân Nhi: tên đứa con trai Giáng Kiều mới sinh . Chân Nhi nghĩa đen là đứa trẻ quí-báu.

thi thư: tên hai kinh trong sáu kinh, người ta quen dùng hai chữ ấy để chỉ vào con nhà nho-học.

rồng chờ tung mây: câu này có ý nói có ý mong-mỏi theo đòi bay nhảy về hội công-danh.

chưa mỏi cánh bay: Có bản chép : Đường trời vừa mỏi cánh bay.

Giam danh khoá lợi: do chữ danh cương lợi tỏa, ý nói người ta bị danh-lợi buộc khóa làm mất tự-do.

Bóng câu cửa sổ: do câu bạch câu quá khích, bóng mặt trời (nhanh như ngựa chạy) qua cửa sổ, ý nói thì giờ nhanh chóng, vụt cái đã hết, chẳng được bao lâu.

Diêm-phù: nơi Diêm-la địa phủ, câu này có bản chép :"nỗi-niềm nghĩ đến mà lo".

hồng-quân: nghĩa đen là cái vòng lớn, trỏ vào sự luân-hoàn xoay-chuyển của tạo-hóa (trời) .Câu này ý nói không tránh khỏi trời !

Sông mê chìm nổi: Có bản chép : Mê song đắm bể ...

cổ khâu: bởi câu thơ
"hiền ngu thiên tải tri thủy thị,
mãn nhỡ bồng cảo thổ nhất khâu .
Nghĩa là người hiền kẻ ngu ngàn năm trước biết ai hay dở, đầy mặt một nắm đất toàn những lau-lách . Đại ý cũng như câu Cung-oán :"Trăm năm còn có gì đâu, chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì".

Đồng-tước: tên một cái đài của Tào Tháo đời Tam-quốc bên Tàu, rất tráng lệ nguy-nga dùng làm nơi dưỡng lão . Di-tích ở tỉnh Hà-nam.

Nhạc-dương: tên một cái lầu do Trương Duyệt đời Đường dựng lên, Đặng tử Kính đời Tống sửa lại Phạm trọng Yên làm bài ký. Di-tích ở tỉnh Hồ-nam bên Tàu cảnh trí rất đẹp.

bốn bể, năm hồ: do chữ tứ hải ngũ hồ.

ba cõi chín châu: do chữ tam giới cửu châu.

kim khuyết quỳnh-lâu: cửa vàng lầu ngọc.

yên-thủy: khói, nước.

kiền-khôn: trời đất.

tuyết điếm hoa thôn: điếm tuyết xóm hoa.

Gà lồng, hạc nội: gà lồng cũng như chim lồng : do chữ lung điểu . Hạc nội do chữ dã hạc . Ý nói chim trong lồng-kẻ bị danh-lợi ràng-buộc-sao bằng hạc ngoài nội-người có tiên cách tự do.

cõi tĩnh: bởi chữ tĩnh-giới, cõi thanh-tĩnh, cõi tiên . Lòng phàm : do chữ phàm tâm, lòng phàm.

túi sách con gươm: do chữ thư-kiếm, biểu hiệu của nam-giới . Câu này ý nói đã trót sinh ra làm kiếp trai.

Sào, Hứa: Sào Phủ, Hứa Do : hai bậc ẩn giả cao đạo, không màng gì đến cuộc đời.

Y, Chu: Y Doãn, Chu Công : một làm tướng nhà Thương, một làm tướng nhà Chu, hết sức gánh vác việc nước.

trượng-phu: đàn ông tài giỏi.

nghìn tứ, muôn chung: bởi chữ thiên tứ vạn chung, nói về hàng quan tư phú-quí có hàng nghìn ngựa tú, muôn chung lương. Nguyên ngày xưa bên Tàu cứ mỗi cỗ xe đóng bốn ngựa kéo gọi là tứ, nghìn tức là nghìn cỗ xe. Mỗi một chung đựng được sáu hộc đấu thóc lương, muôn chung tức là muôn lần số thóc ấy, đủ biết một số lương to và tất phải là quan to.

viên hạc, yên-hà: viên : vượn, hạc : chim hạc, yên : khói, hà : ráng, là những cảnh vật vui thú của tiên nhân.

tiền-nhân: nguyên-nhân từ trước.

Rửa dần bụi tục: có bản chép : Ngán thay cõi tục tỏ dần phép tiên.

Hoàng-Đế, An-Kỳ: húy là Hiên Viên một ông vua phát-minh nghề thuốc . An Kỳ tức An Kỳ Sinh . Tiên-nhân bán thuốc ngoài biển.

Kiều, Tùng: Kiều tức Vương tử Kiều , Tùng tức Xích Tùng Tử : hai nhà học đạo tu tiên trường thọ.

Tiên-tào: bộ tiên của thiên-tào.

chân truyền: truyền trao được đến nơi đến chốn.

tinh-huyền: tinh-vi, huyền-diệu, nói về tiên-đạo rất nhiệm-mầu.

tiên-phù: bùa tiên.

hỏa-tảo, kim-đan: đều là tên những vị thuốc tiên.

khảo bàn,: do câu "Khảo bàn tại giản" (trong Kinh Thi) : gõ cái mâm gỗ nơi khe suối. Tượng-trưng về người ẩn-dật thanh nhàn.

gió liễu, trăng đồng: gió cây liễu, trăng cây đồng, do câu thơ " Nguyệt đáo ngô-đồng thượng, phong suy dương liễu biến": trăng soi trên cây ngô-đồng, gió thổi bên cây dương-liễu.

Vương-mẫu, Lão-quân: Vương-mẫu : tức Tây Vương mẫu một chúa tiên ở Giao-trì. Lão-quân : tức Thái-Thượng lão-quân, ông tổ về đạo Lão.-đạo thần-tiên.

cánh hạc về tây: cánh hạc : bởi chữ hạc-vũ ; tây : bởi chữ tây phương cực lạc thế-giới : phương tây là cõi đời cực vui . Đây nói vợ chồng Tú Uyên cỡi hạc bay về phương tây là cõi thần tiên vui-vẻ xa xăm.

Bồng lai: một ngọn núi tiên trong ba ngọn . Theo Sử ký : Trong bể Bột-hải có 3 ngọn núi tiên là Bồng-lai, Phương-trượng và Doanh-châu, xưa nay chưa ai tới, chỉ có người tiên và hái thuốc bất tử ở đó, các giống chim muông đều trắng, cung-điện thì đều bằng vàng đỏ bạc trắng . Bây giờ ở bên Tàu có huyện Bồng-lai thuộc tỉnh Sơn-Đông.

thiên thành: do trời làm thành ra, nghĩa là tự-nhiên mà thành . Có bản chép thêm hai câu sau để làm câu kết : Rằng tiên hay tục ở mình, Nghìn thu hỏi khách chung tình là ai ?



No comments:

Post a Comment