Thượng kinh ký-sự
Tôi phải nói ngay đây không phải là công tình sưu tầm của tôi. Trên trang nhà viết theo kiểu chữ VPS tôi có điểm nối sau:
Thượng kinh ký sự (Ông tổ cùa ngành Y Viet-Nam)
Độc giả phải dùng kiểu chữ VPS thì mới đọc được. Tuy vậy đó không phải là lý do buộc tôi đem về trang của tôi và đổi ra hai kiểu chữ VISCII, và VNI.
Tôi tiếc nhất là trang Văn-học Việt-Nam của anh Trần-văn-Trác ở:
Văn-học Việt-Nam
Đây là trang nhà đã gợi ý cho tôi để làm trang nhà của tôi. Hiện nay trang của anh Trác không còn nữa, tôi tiếc lắm. Không thể nào liên lạc để biết anh ấy đã dời đi đâu?
Tôi sợ việc trên sẽ sảy ra cho tác-phẩm Thượng-kinh ký sự, nên muốn tìm cách giữ trên mạng luới càng lâu càng tốt. Tôi cũng tìm cách liên-lạc bằng E-mail với người chủ của trang Thượng kinh ký sự để xin phép mà cũng cùng tình trạng như với anh Trác. Vì vậy tôi phải bấm bụng làm việc này. Xin các bạn ghé trang nguyên-thủy để thưởng thức thêm những truyện khác.
Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia
và danh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê. Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá,
huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông
thuộc dòng dõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoa. Cha và chú đều đỗ tiến
sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20
tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp
nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đang ở trong quân ngũ,
ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay
người anh thứ năm phụng dưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh
dai dẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữa. Từ đó, ông quyết định rời bỏ quan
lộ, dốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng. Ông mở trường dạy y
học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ :
Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo dài đến năm 1802 mới chấm dứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút "Thượng Kinh Ký Sự". Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791.
Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo dài đến năm 1802 mới chấm dứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút "Thượng Kinh Ký Sự". Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791.
Trong văn học lịch triều, đây là một thiên tùy bút hiếm có. Các
nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong cuốn này, tác giả đã không ngại để
cái "Tôi" đóng một vai trò quan trọng. Ngoài ra, ông còn ghi lại
những bài ngâm vịnh cùng nhiều danh sĩ tại kinh đô. Vào năm 1924, bản dịch của
Nguyễn Trọng Thuật đã được đăng trong Nam Phong Tạp Chí. Chúng tôi xin trích
nhiều đoạn trong bản dịch của Ứng Nhạc Vũ Văn Đình (Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà
Nội, 1993). Cuốn sách được viết theo thể nhật ký, không chia chương mục. Chúng
tôi xin lược bỏ nhiều bài ngâm vịnh và chia cuốn Thượng Kinh Ký
Sự thành những chương sau đây :
Lên Đường
Đó là về năm Nhâm Dần (1782), tháng Mạnh Xuân,
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43. Buổi ấy ánh sáng xuân sáng dịu, hoa cỏ đua tươi.
Tôi ở trong nhà U
trai; trước sân vài ba cây
trổ hoa, kết quả, ngậm hương mang tuyết, ánh mặt trời chiếu xiên ngang, tạo nên
những bóng hình tựa các bà phi nơi sông Tương (Tương
phi) ngồi quỳ. Những con
rắn mối đuổi nhau chạy từng đàn. Thỉnh thoảng mùi hương lạ bay qua. Chốn tây
viên, trong ao phẳng lặng, cá nhởn nhơ nhô lên lặn xuống mà hớp lấy bóng trăng
hoặc nuốt lấy làn sóng. Những con chim oanh hay hót, do chân tính của trời phú
cho, thời thường tới những chỗ có bóng mát mà nhảy nhót tung tăng. Lúc ấy tôi
dắt tiểu đồng trèo lên núi, đưa mắt ngắm khói mây, biết bao hứng thú ! Lại thả
câu ở đình Nghinh Phong, hoặc gảy đàn cầm trong nhà "tị huyên", hoặc
đọc sách ở đình "Tối quảng", hoặc chơi cờ ở nhà "Di chân" rồi
ngủ tại đó. Tùy ý tìm thú vui, ngày ngày thuờng say sưa mới quay về.
Ngày 12 tháng ấy, thấy
hai người dịch mục của quan thự trấn bản xứ sai tới. Vừa mới vào trước sân họ
đã nói rằng : "Bản quan kính mừng." Tôi chưa biết là việc gì, mở giấy
ra coi thì thấy hai đạo văn thư.
Bức thư thứ nhất là bản
sao tờ chỉ, truyền rằng nội san bình phiên Trạch Trung Hầu vâng chỉ truyền cho
quan thự trấn Nghệ An là Côn Lĩnh Hầu hãy tìm hỏi tính danh người con của tiền
thượng thư họ Lê ở huyện Đường Hào, xã Liêu Xá; người con đó là Lê Hữu Trác,
tục gọi là Chiêu Bảy, hiện ngụ quê mẹ ở huyện Hương Sơn, xã Tình Diễm.
Chỉ còn truyền cho trấn binh tức khắc đón về kinh đợi mệnh.
Chỉ truyền năm Cảnh Hưng
thứ 42, tháng 11 ngày 29.
Bức thứ hai do chính
quan thự trấn viết, tỏ lời mừng, đại lược nói rằng kẻ sĩ ở chốn hoang vu một
sớm danh thấu Cửu trùng, hẳn cái tiến trình vạn lý sẽ nhẹ bước khôn kể, còn
thêm rằng Vương mệnh
không đợi thắng ngựa, nột trong ngày phải lên đường đi trấn Vĩnh Hưng, nơi
đây trấn binh đều đã sẵn sàng chờ đón để ra đi. Người mang thư còn nói riêng
rằng : "Việc này do quan Chính Đường đề
cử để coi bịnh Đông
cung Vương Thế tử bị đau nặng từ lâu; việc chẳng nhỏ, ngày đêm phải
gấp đường m à đi". Tôi nhận thấy cơ sự này rất lợi hại, lấy làm kinh
hãi, người như ngốc như si giờ lâu. Người nhà nghe thấy vậy, kẻ hiểu tôi vì tôi
mà lo phiền, kẻ không biết tôi thì mừng cho tôi. Sự ồn ào nhất thời bất tất nói
làm gì.
Nguyên bốn, năm năm về
trước, quan Chính Đường vâng mệnh ra trấn đất Hoan Châu, từng mời tôi đến bắt
mạch, chữa bệnh, đãi tôi như thượng khách, ngồi liền chiếu, ăn uống lấy lễ đãi
rất hậu. Sau ông dẹp giặc biển có công, về triều tước vị đến tam côngđược tin dùng
không ai bằng. Việc này tôi nghe biết từ nhiều năm, lòng lo âu như đeo nặng một
việc gì, thầm có sự ưu phiền sâu xa, thường than với môn nhân rằng :"Ắt có
một phen ta phải nhọc nhằn vào kinh, lăn lộn trong cái phồn hoa đất đô hội, phụ
tình hoa cỏ chốn non xưa". Sự thể ngày nay là giận mình chẳng vào ở sâu
thêm trong núi. Tuy nhiên vị này có tài như Cơ công, thường kính
nhường hậu đãi kẻ sĩ trong thiên hạ, huống hồ đối với mình sao ?". Có kẻ
vì tôi giải muộn mà rằng :"Ông dày công thâu thái, hiểu rõ cái học về tính
mạng con người, chẳng làm lương tướng thì cũng làm lương y chẳng sai đâu; giữ
gìn vẻ quý, che giấu đức tốt, cố nhiên là thái độ cao thượng. Nay cửu trùng tri
ngộ, bốn bể nghe danh, há chẳng phải là việc xứng đáng của kẻ trượng phu sao
?". Lúc đó lòng tôi bứt rứt thâu đêm chẳng ngủ, tôi thầm nghĩ :"Thuở
thiếu thời mài gươm đọc sách, mười lăm năm trôi giạt chốn giang hồ, chẳng nên
một việc gì. Khi đã gạt bỏ công danh rồi, làm nhà ở Hương Sơn, nuôi mẹ, đọc
sách, chuyên chú vào các sách Hiên Kỳ, gìn giữ sức
khoẻ mình, cứu giúp kẻ khác, tự lấy làm đắc sách. Bỗng một sớm lại vương vào
cái hư danh".
Đến đó tôi lại tự an ủi
:"Lòng ta hăng hái tự lực cực nhọc trong việc học thuốc đã 30 năm rồi, nay
mới soạn thành Bộ Tâm Lĩnh, mà chẳng dám giữ làm của riêng mình, tự đem truyền
thụ, muốn nó thành của chung thiên hạ, chỉ hiềm sức mọn, việc lại trọng đại,
khó mà tự mình làm trọn được. Quỷ thần thành cảm sẽ giúp mình chuyến đi này có
chỗ gặp gỡ nên hay, cũng chưa thể biết được". Nghĩ đi nghĩ lại, bất giác
mừng rỡ, mặt mày hớn hở. Tôi liền tiếp đãi sứ giả, phúc thư quan bản trấn. Ông
này vốn chơi thân với tôi, muốn thay tôi làm tờ khải, tôi phải kêu là tôi tuổi
giàmình yếu, kính xin châm chước mà miễn cho. Chẳng được mấy ngày quan bản trấn
lại sai thuộc nha đưa khẩn đến một bức văn thư nói là bản trấn đã chu biện một
cái đò dọc dùng để di chuyển đến trạm, nếu trì hoãn sợ có liên lụy. Những con
cháu trong nhà cũng hết sức khuyên nhủ tôi. Tôi liệu thế chẳng ở lại được, tức
thì báo tin cho đạo
đồ hay mà tập hợp lại. Vào ngày 14 thành tâm làm một lễ lớn cúng tiên
thánh tiên hiền, ca xướng náo nhiệt một phen. Đến ngày 16 thấy tôi phải đi xa,
bọn ấy lại tổ chức một buổi hát xướng nữa. Ngày 17 đồ thư nửa gánh, gươm đàn
một bao tôi bước lên thuyền theo đường thủy, nhắm huớng Vĩnh Dinh mà tiến
phát. Bấy giờ tân khách đầy nhà, kẻ xin thuốc, người tiễn chân, dùng dằng trèo
kéo. Mặt trời đã ngả về tây mới động mái chèo. Tôi ngồi trong thuyền, tình
riêng đối cảnh, nỗi khách bâng khuâng, khôn cầm lòng, miệng đọc mấy vần thơ
rằng :
Nước chảy sao mà lẹ
Người đi những muốn thư Non chia đôi ngạn chuyển Mái rẽ đám sương mờ Vịt bãi theo đưa tiễn Cá sông dõi lững lờ Mây che Huơng lĩnh khuất Quá nửa đã chiều tà |
Đêm hôm ấy người đi
trong bóng trăng sáng, thôn xóm bên sông đều yên lặng; chó sủa mỗi khi thuyền
bơi qua. Một vầng trăng bạc chiếu dòng sông, đôi bờ hải trào nghênh đò khách.
Xa xa vẳng tiếng chuông chùa, mờ mờ sương phủ lùm cổ thụ. Mấy nơi đèn chài lạnh
lẽo rọi sáng, hai con hải âu sóng đôi nghỉ ngơi. Bọn học trò đi theo đều uống
rượu, mượn chén giải sầu. Tôi nhân ngâm một bài thơ để dãi lòng :
Nước mây sông phẳng lặng
Nỗi khách chốn quan hà Gió mạnh buồm đưa gấp Sương dày nhạn lượn qua Núi sâu vang tự khánh Cảnh tối nay như thế Mai đây biết chăng là ? |
Gà gáy đến Vĩnh Dinh,
nghỉ ngơi chốc lát trong thuyền đậu ở đầu bến. Sáng ngày mười tám rời thuyền
lên bờ vào yết kiến quan thị trấn. Ông này đã nhiều ngày chờ đón tôi, nay nhân
có giỗ tổ đã trở về bản quán, chỉ dặn thuộc viên sắp sẵn lính bản doanh với năm
quan tiền để làm lộ phí. Người này nói : "Quan tôi có tiên kỵ, phải về
quê, chẳng kịp diện đàm, có chút lễ mọn gọi là tỏ tình". Quan thị trấn còn
phái quan văn thư (các phủ viên) đem quân bản đạo là 20 người, đầy đủ quân nhu
đi hộ tống. Ngày hai mươi, viên quan này thu xếp hành trang lên đường, nhưng
binh lính tùy tùng, vì cớ lương ăn chưa sắm đủ, đều phải đi vay mượn. Sau giờ
ngọ mới ra đi, tối đến ngủ trọ tại xã Kim Khê (hiệu Quán My). Quan văn thư làm
một lễ tạ ơn tại cái miếu xã này, tổ chức một màn ca vũ, có mời tôi tới dự. Lúc
này thần linh vừa giáng phụ vào một đồng nữ ngồi trên xập; cô đồng này vừa lắc
lư vừa đàm thoại. Có kẻ bảo tôi rằng : "Thánh mẫu linh hiển báo ứng không
sai, ngày nay lão sư tiến kinh nếu có thỉnh nguyện điều chi hãy tới lạy
xin". Tôi đáp rằng :"Phàm làm người tất cầu điều đắc, há
có ai cầu điều thất. Lòng tôi vốn không nguyện đắc thì còn có gì mà
cầu nữa !", Đồng nữ nghe vậy thì hơi mỉm cuời. Quan văn thư cũng nhìn tôi
mà cả cười. Nửa đêm tiệc tan, mọi người đều về nghỉ. Ngày 21 khởi hành thật
sớm. Gặp khi mưa dầm tình cảnh bọn hành nhân thật buồn thảm. Trước mặt là hàng
ngàn ngọn núi mọc đứng thẳng, đuờng đá thì gồ ghề. Cũng vì bạt thiệp gian nan, bất giác tôi ngâm lên rằng :
Trông về nam núi non đen
tối
Buồn cho ai lặn lội đường xa ..
Buồn cho ai lặn lội đường xa ..
Hướng về Cẩm Sơn mà đi,
sang đò Cấm Giang thì
đến Thiết Cảng.
Toàn là hơi khói trên non, sương mù ngoài biển, hang động thì mờ ảo. Đây chính
là 106 ngọn núi, có tăng già đi lại mà chẳng biết từ xứ nào vậy. Trong năm bước
không nom rõ được người hoặc vật, chỉ nghe vượn hót chim kêu trong mây; một màu
hơi khói, một thú sơn lâm khiến người xúc cảnh sinh tình. Tôi thầm nghĩ : Trải
30 năm nay, một trường danh lợi phó dòng nước xuôi, chỉ vui chơi cảnh suối
rừng, lấy cái nhàn làm đắc sách; ai có hay lòng đã không thiết tha với danh lợi
mà cái thân lại vướng mắc vào danh lợi. Chẳng qua mình đã không đạt được cái
chân độn nên mới đến nỗi này.Nhân cảm hoài mà tự thuật trong một bài thơ :
Học thuốc xa người để dưỡng chân
Phú không hay biết biết chi bần Ba sinh rừng núi mong tròn đạo Vạn lý khâm thừa dám tiếc thân Nửa cõi khói mây chồn bước ngựa Đầy non hạc vượn tiễn hành nhân Hư danh đã bỏ không mơ ước Sơ kháng còn lo đối thánh quân ! |
Tối hôm ấy đến chợ Đông Lũy (hiệu Suy Gian) để trọ. Tôi sắp đi nằm thì thấy một người áo
mũ chỉnh tề, bưng một mâm tôm biển đặt ở trước sân, rạp đầu chào bái. Tôi hỏi
đến có việc gì. Y nói : "Tôi là lính trong nha của quan thị trấn, làng này
là quê của vợ tôi. Tôi có đứa con vừa được tám tuổi, bị hàn nhiệt đã mấy tháng
nay, hiện bệnh cũng đã thuyên giảm.Gặp lúc đêm tối ra ngoài thềm đi tiểu tiện,
bỗng ngất đi bất tỉnh. Các thày thuốc cho là ngộ gió, đã chữa trị rồi. Lúc này
chân tay đã co ruỗi được, chỉ hiềm nhiệt quá, hôn mê chẳng biết ai nữa, mắt
dương, môi sưng,mong tôn sư đem từ tâm cứu giúp cho". Tôi biết đứa trẻ ấy
âm khí chưa toàn, từ lâu lại nóng lạnh âm dương đều bị thương tổn, phong tà
cũng do bệnh "hư" mà phát sinh; đã không biết bồi đắp cái cỗi rễ, lại
chuyên dùng thuốc chữa phong, nên âm càng hao thì hỏa càng bốc, cho nên mắc
phải bệnh hen, gân khô đi khiến mắt mở to. Tôi bảo dùng lục vị làm thang, bỏ
trạch tả mà thêm ban long, sao mạch môn lên mà trị bệnh. Đến sáng người ấy trở
lại nói rằng :" Sau khi dùng hết tễ thuốc, nhiệt đã giảm, thần thức tỉnh
táo dần, kêu đói nên đã cho ăn cháo loãng". Y còn nói trong làng một số
thuộc danh gia thấy con y được lành bệnh, cũng muốn đến xin thuốc. Tôi sợ vướng
mắc trong việc này bèn dùng phuơng bảo vị
khí để điều dưỡng. Tôi
sai người đến báo cáo với quan văn thư xin được đi trước và hẹn đến chợ Hoàng Mai thì nghỉ lại. Ông ta cũng vì có việc công chưa hoàn tất,
phải lưu trú ở đây nên ưng ngay. Ngày 22 bọn chúng tôi tiến bước. Khi đi đến mé
tây núi chúng tôi mói nhận ra một dãy cao phong, chỏm núi trùng điệp, ẩn ẩn
hiện hiện trong mây trắng; bên đường đi mấy ngọn mọc tách ra để lộ những hang
hốc nhỏ. Trời về chiều đồng ruộng nom chỗ trắng trắng chỗ vàng vàng. Đến Long Sơn thấy nhiều cổ thụ xanh um, một cung đất dâm mát, cảnh thật
đáng yêu. Lại có những tấm đá mọc rải rác như những cái bàn thấp bé, hàng lối
chỉnh tề. Tôi cho đỗ cáng lại để du ngoạn chốc lát, rồi để một bài thơ trên
vách đá :
Chùa tựa sườn non dựng
Chuông kế vách đá treo Mùa xuân tươi cỏ sớm Ráng đỏ phủ thông chiều Chim hót trong rừng rậm Người ca buổi bóng xiêu Ra đi vâng chiếu chỉ Ông Lãn cũng cần lao ! |
Đề xong, rảo bước đi,
chiều đến trọ tại chợ Hoàng Mai, vẫn chưa thấy quan văn thư tới. Sáng hôm sau
tôi cùng bản doanh khởi hành. Sau giờ
ngọ thì ông ta đến,
nói rằng : "Tôi sợ số lính đi chẳng đầy đủ. Bản trấn tuy vâng mệnh, đã
truyền lấy lính ở các huyện thành, số người vẫn chưa đủ lệ, tôi rất muốn có
thêm người nữa để giúp vào việc khuân vác mà đi cho được trang trọng". Tôi
đáp rằng : "Những gói bọc lương tiền cũng nhẹ, hà tất phải để tâm nghĩ
ngợi". Sáng ngày 23 chúng tôi đi về cầu Kim Lan Mạn, tất cả đều đi xuống
cái đền thờ ở bờ biển, đứng xa xa mà bái vọng. Viên quan nọ bảo tôi rằng :
"Vị thần này ở Nghệ An linh thiêng vào bậc nhất, tôi từ xa đến chưa tường
sự tích". Tôi đáp : "Năm xưa tôi từng qua chốn này, có hỏi cố lão,
lời truyền tụng quả đà sai lạc. Xét sử nhà Tống, người nước Kim dùng chiến
thuyền đánh phá. Quân thua, Trương
Thế Kiệt mang Bính Đế chạy
ra biển gặp sóng gió, vua tôi đều bị chết đuối. Hoàng hậu cùng hai con bám được
vào đồ vật mà nổi trên mặt nước, trôi dạt vào bờ, nơi có thôn xóm. Người trong
làng trông thấy, liều mình cứu thoát. Sau người ấy có tư tâm, Hoàng hậu nghiêm
nghị cự tuyệt. Người ấy xấu hổ nhảy xuống nước mà chết. Hoàng hậu than rằng :
"Ta nhờ người này mà sống, người này vì ta mà chết. Có lẽ nào ta tham sống
lấy một mình".Rôi bà đâm đầu xuống biển mà tự ải. Hai người con gái quá bi
thương cũng nhảy theo xuống biển. Sau này bà hiển linh, người miền duyên hải
tôn làm thần mà thờ phụng, đến nay hương khói vẫn còn. Tôi nhân ngâm một đối
liên :
Cơ đồ nhà Tống nghìn thu
hận
Vũ trụ trời Nam tứ quý xuân
Đại Tống cơ đồ thiên cổ hận
Nam thiên vũ trụ tứ thời xuân.
Vũ trụ trời Nam tứ quý xuân
Đại Tống cơ đồ thiên cổ hận
Nam thiên vũ trụ tứ thời xuân.
Ngâm xong, mọi người cứ
phải đi quanh co mãi, rồi đến khe Lãnh Thủy (nơi đây
là phân giới Thanh Hóa và Nghệ An) thì thấy một nhóm người đứngbên đường, hướng
về tôi mà vái chào. Đó là mấy người ở ấp gần đó, từ kinh đô trở về. Tôi cũng
dừng cáng đáp lễ. Một lát sau họ mới ra đi. Khi này tình quê nỗi khách dào dạt,
tôi ứng khẩu đọc một bài thơ để tả tâm trạng :
Hoan Ái phân
cương địa
Quần sơn hỗ tống nghênh Tiều ca vãn lộ xuất Điểu ngữ cốc phong sinh Phục thạch đương đồ lập Dao thiên đoạn bích hoành Hành nhân thuyết hương tứ Duy ngã thượng thần kinh. |
|
Hoan Ái chia đôi vực
Nghênh tống núi bên đường Tiều hát trong mây ngút Chim ca đáy cốc vang Trời xanh màu loé rạng Lối nghẽn đá nằm ngang Ai kể tình nhà đó ? Về kinh trải dặm trường. |
Ngày hôm ấy khí xuân ấm
áp, đường đi thảnh thơi, chiều đến chợ Thổ Sơn đỗ lại ngủ trọ; trong chợ có đồn
binh (trấn Thanh Hóa có một cánh quân tuần phòng ở đây) binh khí khá nhiều. Họ
ngăn bọn tôi lại mà xét hỏi.Đến khi biết là phụng mạng mà đi thì họ xúm lại xin
lỗi rồi lui ra. Ngày hai mươi bốn lên đường thật sớm. Mây đen khắp trời, suơng
khói che đất;gió rét căm căm, mặc áo ấm dầy cũng thấm lạnh. Đi mấy giờ nữa thì
đến bờ biển Hào Môn, trông ra chỉ thấy vạn khoảnh nước sóng mênh mông không bờ
bến.
Nhớ xưa Tần Hoàng, Vũ Đế
hao tổn tâm tư về chuyện "Tiên thạch vân nang",
rốt cuộc nửa bóng Bồng Lai cũng chẳng được trông thấy. Điều đó chẳng là lầm lạc
lắm ru ? Người xưa rõ ràng đã lo lắng cho rằng kẻ làm quan lặn lội trong bể
hoạn, phải gánh chịu cái nguy cơ nổi chìm. Mắt trông ra xa chỉ thấy khói sóng
mịt mù, miệng ứng đọc một bài thơ như sau :
Trông biển lòng ai sợ
Khí thu tỏa khắp miền Ba đào xua cá vực Vân vụ mấy tầng thiên Trời tắm ngàn trùng sóng Gió đưa một lá thuyền Hoạn đồ người thuở trước Thăng giáng ý lo phiền. |
Hôm ấy quan văn thư sai
trấn binh chọn lấy ba chiếc thuyền mành để qua cửa Cự Nham (tên xã) là chỗ cửa
biển, rồi lên bờ đến chợ Hàng Cơm mà tạm trú. Ngày 25 noi đường thượng đạo mà
đi (đường hạ đạo qua Thần
Phù), qua vài nơi có tôn
lăng đều rời cáng đi bộ. Chiều tìm đến chợ trú ngụ. Ngày 26 dậy đi sớm, sau giờ
ngọ đò qua bến Đài
Sước, đến chợ huyện nghỉ
ngơi ăn cơm trưa. Bỗng thấy một người khăn áo thầy tu, tay chống gậy trúc đang
đi tới, phiêu nhiên có dáng xuất trần. Tôi lấy làm lạ hỏi người chủ quán, y đáp
rằng :"Ông ấy vốn là sư trụ trì tại sơn tự, tinh thông nghề bói
toán". Tôi sai duợc đồng mời sư đến nhà, phân ngôi chủ khách. Tôi nói :
"Được biết ông am tường về Dịch lý, muốn hỏi một quẻ về tiền trình được
chăng ?". Nhà sư không chối từ, đáp ngay rằng :"Quan nhân năm nay bao
nhiêu tuổi, muốn hỏi việc gì, nên thành tâm cầu xin, tự nhiên sẽ có linh
nghiệm". Tôi liền nhất nhất nói rõ. Nhà sư suy nghĩ giây lát, rồi nói to
lên rằng :"Đẹp thay ! Tốt thay ! Đúng là có việc phi thường rồi !".
Tôi nói : "Người quân tử hỏi về điều dữ, chẳng hỏi chi về điều lành. Xin
tiên sinh đừng có giấu giếm gì cả". Nhà sư đáp :"Tôi bói được
quẻ Nguyên
thủ, đó là cái tượng vua
sáng tôi hiền, Chu
tước ngậm thư rất
vượng, Thanh long ở giữa, Bạch hổ ở cuối, Quý
nhân gặp bản
mệnh, Dịch
mãứng với hành niên, quả
là ứng vào việc trưng triệu, ba lần truyền đều có nhật can thời chi Lục hợp. Cá nước vui duyên, giao long gặp mưa. Đó là cái triệu toàn cát
toàn mỹ. Tuy nhiên cái điều phải lo ngại là Bạch hổ nhập tù, đến Kinh sẽ mắc
bệnh". Tôi nghe nói thầm nghĩ rằng : Người này học thuật tinh vi, hình mạo
nham cổ, ắt có cái hiểu biết hơn người, chỉ tiếc là khi gặp được thì đã muộn,
làm sao tìm biết được hết cái văn kiến súc tích của người ta. Tôi đem đầu đuôi
việc mình nói thật cả ra, lại bảo rằng :"Tôi ở nơi cùng sơn tuyệt lĩnh,
mây đầu non trăng mặt biển, một thú u nhàn mến tiếc chẳng rời, không biết khi
nào mới được quay trở về đánh bạn cùng lũ hươu nai, chuyện trò mỗi chiều tà với
bọn ngư tiều".Nhà sư nghe nói vậy thì than thở mãi mà rằng :"Đồ cao
lương làm cho phủ tạng con người ta phải đam mê; sao những kẻ khác đều mê cả mà
riêng ngài lại tỉnh sao ? Duy quẻ này ứng vào việc chủ khách cát vượng, trên
dưới sinh hợp, nên ngày trở về của quan nhân chưa thể biết được". Tôi nghe
nói than dài mấy tiếng, sai dược đồng mang lại một món tiền lớn để hậu tạ. Nhà
sư nhất mực từ chối mà rằng : "Trong chuyến đi này của quan nhân, bần đạo
chỉ nguyện được uống mấy chén kinh
tửu là đủ rồi".
Tôi sai kẻ tùy tùng đến quán rưọu mua một chén thật ngon. Ông ta vui vẻ hai tay
đón nhận, chẳng hỏi đồ nhắm, đổ rượu đầy một bát, há mồm như rồng hút sóng,
nuốt một hơi hết sạch, nhổ một bãi nưóc bọt dưới chỗ ngồi, khen ngon, đoạn chắp
tay vái chào mà từ biệt.
1.
U
trai : nhà ở sạch sẽ và tĩnh mịch để học hay để tu luyện.
2.
Tương
phi : Nga Hoàng và Nữ Anh là hai bà phi của vua Ngu Thuấn. Sau
khi vua Thuấn băng, hai bà ở đất Thương Ngô, rồi đến sông Tương, khóc lóc thảm
thiết, gieo mình chết.
3.
Hương
Sơn : tên huyện thuộc tỉnh Nghệ An ở phía nam sông Cả, tức là
sông Lam Giang (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
5.
Quan
Chính Đường : Chỉ Huy quận công Hoàng Đình Bảo, trước
tên là Đăng Bảo, sau đổi là Tố Lý, lại đổi là Đình Bảo; người xã Phụng Công,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay; cháu của Hoàng Ngũ Phúc, đậu hương
tiến, lại đậu tạo sĩ, lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Năm 1777, làm trấn thủ Nghệ
An; năm 1778, được Trịnh Sâm cho coi việc phủ chúa và lĩnh chức trấn thủ Sơn
Nam. Sau khi Trịnh Sâm mất, giữ chức phụ chính, sau bị quân Tam Phủ nổi loạn
giết chết (loạn Kiêu Binh).
6.
Đông
cung thế tử : tức Trịnh Cán, con Trịnh Sâm và Đặng Thị
Huệ.
7.
Lợi
hại : điều lợi và điều hại. Nghĩa bóng : quan hệ, ghê gớm.
8.
Tam
công : ba chức quan lớn trong triều đình, tức Thái sư, Thái phó
và Thái bảo.
9.
Cơ
công : chỉ Cơ Đán tức là Chu Công, chú vua Thành Vương nhà Chu,
có công dẹp loạn miền đông nam, trở về cải định quan chế, sáng chê lễ pháp; sau
lại đóng đô ở Lạc Ấp, gọi là Đông Đô.
10.
Hiên
Kỳ : Hiên Viên hoàng đế và Kỳ Bá, hai người có công trong y học
thời cổ.
11.
Đạo
đồ : học trò theo học thuốc.
12.
Đồ
thư : tranh và sách. - Gươm đàn : thanh gươm và
cây đàn, đồ dùng của người học trò xưa.
13.
Vĩnh
Dinh : một địa điểm ở vùng Vinh.
14.
Bạt
thiệp : đi trên cỏ và lội trong nước, có nghĩa lặn lội khó nhọc.
15.
Cấm
Giang : sông ở vào hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An.
16.
Thiết
Cảng : có nghĩa cửa Sắt ở đông bắc huyện Hưng Nguyên và phía nam
huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.
17.
Chân
độn : việc ẩn náu được tiến hành đúng mức và đúng ý nghĩa của
nó.
18.
Dưỡng
chân : nuôi dưỡng cái tính thành rất mực.
19.
Ba
sinh : do chữ Hán tam sinh có nghĩa là ba lần
sinh ra ở đời để trả cho hết duyên nợ (duyên nợ ba sinh).
20.
Đông
Lũy : tên làng thuộc huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.
21.
Vị
khí : cái khí trong dạ dầy.
22.
Hoàng
Mai : tên xã thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
23.
Long
Sơn : tên núi ở làng Nhân Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
24.
Giờ
ngọ : khoảng thời gian từ 12 giờ đến hết 14 giờ ngày nay.
27.
Hoan
Ái : Nghệ An và Thanh Hóa.
28.
Hỗ
tống nghênh : thay đổi nhau mà tiễn đưa và nghênh đón
(nói về hình trạng núi non).
29.
Tiên
thạch vân nang : sự tích Tần Thủy Hoàng muốn xây một cái
cầu bằng đá ngoài biển để tiện đường đi về phương đông. Một đạo gia học được
phép đưa đá ra biển, lấy roi đánh vào những hòn đá, đá cũng phọt máu, rồi dùng
bao bỏ đá mà quẩy đi.
30.
Thần
Phù : tên cửa biển cũ ở chỗ giáp giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh
Thanh Hóa (địa hạt huyện Yên Mô và huyện Nga Sơn). Cuối đời Lê, cửa ấy bị ẫát
bồi lấp hết. Nay ờ huyện Yên Mô có một cái tổng tên là Thần Phù.
31.
Đài
Sước : tên đèo. Nghĩa đen, đèo kinh hoàng.
32.
Nguyên
thủ : vua một nước. Ngày nay bất luận quân chủ, dân chủ, người
nào làm thủ lãnh toàn quốc đều gọi là nguyên thủ.
33.
Chu
tước, Bạch hổ : hai trong sáu vị thần thuộc Hắc đạo
trong tháng. Ở phương nào và ngày nào những vị thần ấy xuất hiện, người ta
kiêng việc làm đất cát, nhà cửa, dời chỗ ở, đi xa, làm giá thú, xuất quân.
34.
Thanh
long : một trong sáu vị thần thuộc Hoàng đạo. Sáu vị thần ấy là
Thanh long, Minh đường, Kim quỹ, Thiên đức, Ngọc đường, Tư mệnh. Ngày nào trong
tháng gặp vị thần ấy thì nên làm mọi việc, tránh được các điều hung ác.
35.
Quý
nhân tức là Thiên ất Quý nhân, chia ra Dương quý và Âm quý; thần
này có được sự hòa bình của âm dương phối hợp, nên khiến người gặp những điều
tốt đẹp.
36.
Dịch
mã : vị thần ảnh hưởng thích hợp cho việc phong tặng quan tước,
đi xa, dời chỗ ở, v..v..
37.
Lục
hợp : tên thần lúc nhật nguyệt nhập hội (nhật nguyệt hợp tú chi
thời). Ngày có Lục hợp nên hội tân khách, kết hôn nhân, lập khế khoán, hợp giao
dịch.
Đến Kinh Thành
Tôi bước xuống đò mà đi. Đêm nay đến một cái
điếm, trú tại đó. Quan văn thư đến tận điếm mà bảo tôi rằng :"Chuyến đi
này can hệ dến việc công khẩn yếu. Bọn ta đi một ngày chẳng vượt quá năm
mươi dặm đường. Trước kia được lệnh ngày mùng mười
thì đến Vĩnh Dinh, nay sắp hết nửa tháng rồi mà đường dài còn phải đi sáu, bảy
ngày nữa. Nếu việc phải tấu trình thì sự đẳng đãi này thực đáng sợ, mong lão sư
đị nh đoạt, chọn những kẻ khoẻ mạnh cho đi theo, cứ ban ngày thì đi, đêm khuya
mới dừng để nghỉ, gấp đường mà tiến, bọn yếu đuối thì cho ở lại sau." Tôi
cười mà đáp rằng :"Quý huynh bất tất phải quá lo ! Tuy có chỉ truyền ngày
mồng mười thì đến nhà tôi, nhưng tôi bận chữa bệnh phương xa, đi tìm về đã mất
mấy ngày, vả trong lúc đi đường còn gặp gió mưa cản trở. Như vậy tưởng rằng
ngày nay dẫu mọc lông mọc cánh vị tất sẽ đến nơi đúng kỳ hạn được". Ông ta
vừa cười vừa nói :"Cái thế tất phải như vậy". Trò chuyện uống trà
xong, ai nấy về nhà trọ. Ngày 27 gà gáy đã vội khởi hành. Bên đường đi núi non
đứng sững, bao bọc lấy nhau, khói mây mịt mù che khắp mặt đất. Hươu nai nghe
bước chân đi thì vội chạy tán loạn; chim chóc nghe tiếng người nói bay vút lên
đầu non (hiệu Ba
Dội). Ánh hồng ban mai mới
dâng cao, màn sương đêm giá tan chừng nửa. Bọn hành nhân áo quần ướt át phải
dừng bước nghỉ ngơi trên núi, trong một cái quán bỏ không. Chúng đốt lửa, hơ
áo, ngồi sưởi cho ấm. Tôi sai người lau sạch cái thạch bàn, tựa lưng vào một
cành cổ thụ bên thạch bàn ấy. Dược đồng pha trà, sửa soạn bữa ăn sáng. Tôi cho
mời quan văn thư đến, cùng nhau uống rượu. Trèo lên cao mà trông ra xa, mới cảm
thấy cái thú vị man mác là dường nào. Tôi đọc mấy câu thơ của cổ nhân để giải
phiền trong lòng, bất giác thốt lên rằng :
Tần Lĩnh mây nhà che
khuất bóng
Lam quan tuyết phủ ngựa chồn chân
Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại ?
Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền
Lam quan tuyết phủ ngựa chồn chân
Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại ?
Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền
Ngâm xong dường như quá
bị xúc cảm, tôi thẫn thờ chẳng nói năng gì. Quan văn thư thấy tôi buồn bã hiện
ra sắc mặt thì cười mà rằng :"Trăm khóm hoa cỏ, một khoảnh càn khôn, dường
có cái phong vị của Hương Sơn. Lão sư xúc cảnh sinh tình, có vẻ không
vui". Ông ta lại tiếp :"Lão sư lầm rồi ! Kẻ sĩ quân tử có hai đường :
xuất và xử. Xử (đi ở ẩn) thì giữ đạo làm vui; xuất (ra
làm quan) thì đem dùng đạo giúp đời. Lão sư che giấu tung tích chốn núi sâu,
một sớm cửu trùng biết tên, đại thần trọng đãi, thực là cuộc gặp gỡ lạ kỳ, ngàn
năm mới có, cớ gì lại thế !". Tôi cười, đáp rằng :"Quan lớn khen quá
lời, khiến người phải hổ thẹn. Người xưa tài cao học rộng, uẩn súc kinh luân, xử thì
trau giồi vẻ quý, cất giấu đức sáng, xuất thì phò vua giúp nước. Còn như tôi
học hành thô kém, tài hèn trí thiển, đối với đời thật là vô dụng; học được cái
nghề mọn tùy thân đã là may mắn rồi, tưởng đâu một sớm đến được thế này, khác
chi áo mặc không xứng
đức, sao gọi là điều hạnh được !". Quan văn thư nói rằng :"Tôi
từng được nghe quan tôi trong những lúc nhàn đàm, ý giả lão sư muốn cao ẩn mà mượn cái
danh là làm thuốc đó thôi". Tôi cười mà rằng :"Há lại có cái lý ấy
sao ?". Quan văn thư lại tiếp :"Chí lão sư như vàng đá, tôi chẳng dám
dài lời, được biết lão s ư ngâm vịnh rất nhiều, nguyện được nghe lời vàng, rồi
tôi cũng xin nối điêu để
dâng cười mà giải muộn được chăng ?". Tôi mừng rỡ mà rằng :"Kẻ ôm đàn
khổ tâm vì không bạn tri âm. Câu cao sơn lưu thủy hẳn ông đã
biết rồi vậy". Tôi gọi tiểu đồng mang bút mực lại. Tôi đọc trước m ột bài
như sau :
Tam cấp leo trèo đá với mây
Núi trăm lẻ sáu khí suơng đầy Khói ngàn trầm lục dăng trời bắc Đá núi phù thanh khuất bể tây Nấu nước sương hoa lìa phấn rã Nghe thơ chim núi hót ai hay Chẳng qua ngâm vịnh vì yêu cảnh Bịn rịn giờ lâu suối lội chầy. |
Đề xong đưa bài thơ cho
ông ta coi để họa vần. Ông xem đi xem lại đến bốn lần, rồi nói rằng :"Thơ
của lão sư giống như những bàiBạch
Tuyết Dương Xuân khó
mà họa được, xin để tôi bòn nhặt trong khúc ruột khô trong mấy đêm nữa rồi mới
dám bày cái xấu của mình ra". R ồi cùng dắt tay nhau xuống núi mà đi. Ngày
hôm ấy, chiều tối thì đến chợ Vân
Sàng trọ lại. Ngày 28
đến Khương Kiều đỗ lại. Ngày 30 trọ tại Thịnh
Liệt Kiều. Quan văn thư bàn với
tôi rằng :"Trong tờ khải có nói ngày mấy thì tiếp chỉ truyền, ngày mấy
khởi trình, ngà y mấy thì tới nơi, xin xem qua thể thức trong tờ khải để tiện
đệ bẩm", rồi đư a tờ khải cho tôi coi, lại cười mà nói rằng :"Nhất
nhất đều y theo sự định đoạt của lão sư ở dọc đường; tuy nhiên, vào chiều ngày
hôm sau, mọi người nên đến dinh quan Chính Đường xem có công việc gì không
?". Ước định xong xuôi, ai nấy về đi nghỉ. Sáng ngày hôm sau quan văn thư
noi đường bên tả, đi đường tắt thôn Nhân
Mục đến đường Hoàng Mai, theo Cầu
Triền mà tiến vào thành.
Lúc ấy có tên Thuần là học trò đi theo nói với tôi rằng :"Năm trước tôi có
người bạn tâm giao, con một người Tàu, y tên là Sự, cư ngụ tại quê mẹ là Lai Trào
Ngung tức là Hiến Nam Cung; nay y dời cư đến cửa tây Khương Đình làm nghề thày
thuốc. Tôi thấy y chân thành hiếu hữu, có cho y một bộ Tâm Lĩnh của thầy. Từ
ngày đó y ngày đêm học tập, tay chẳng rời sách, học thuật ngày tiến bộ, trong
kinh th ành nhiều người biết tiếng, Y thường than rằng : Vạn dặm xa xôi, chẳng
thể đến chỗ cung
tường, chỉ chiêm ngưỡng mà
thôi, muốn đến Hư ơng Sơn bái yết, nhưng vì còn mẹ già, chẳng thể bỏ đi xa. Y
có thiết lập một sở
tự để thờ sinh vị thày, sớm tối đè n nhang để báo đức. Ngờ đâu trời cũng chiều
người, cho y được thân đến bái tiếp. Vả lại từ nhà y vào thành chỉ hơn vài dặm;
đường đi vào thành so với đường Cầu Triền dài ngắn bằng nhau, tôi muốn đi trước
báo cho y hay, chẳng biết có được không ?". Tôi thấy con người có nghĩa
nên cũng ưng thuận. Tên Thuần được lệnh bèn đi trước. Tôi noi đường bên tả mà
đi, vượt hơn vài dặm đã thấy y ra đón ở bên đường cái quan. Y thấy tôi thì lấy
làm mừng rỡ, mời vào nhà bái tạ, kể lể cái tình khao khát bấy lâu. Y mời lưu
lại ngủ một tối, khoản đãi rất hậu. Tôi nói rằng :"Hà tất phải như thế ! Tôi
cùng quan vệ tống (tức quan văn thư) đã ước hẹn ngày hôm nay thì cùng gặp nhau
ở dinh quan Chính Đường; việc này thật khẩn cấp. Trong lúc đi đường đã bị gió
mưa cản trở, nay mới tới được đây, không thể chậm trễ được. Có điều tôi quen ở
trong núi, nên đường đi lối lại trong đô thành đều quên mất cả, ông nên vì tôi
đi trước đưa đường". Uống trà xong, đứng dậy, tên Sự dẫn đạo, cùng đi theo
cửa Vũ Quan,nhắm cửa thành mà vào. Tôi thấy một cái thổ thành không cao lắm, kề
bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tuờng ngựa đi được; phía ngoài là hàng rào
tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là mười phần
kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có quân lính
đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết. Lính giữ cửa
thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến khi biết rõ đầu
mối, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn đất Nghệ An, mới để cho đi. Chúng tôi
tạm nghỉ ngơi. Nguyên tại đất này thuở nhỏ tôi tùng du học và trú ngụ. Tôi mới
chống gậy, thủ bộ tứ phía, du ngoạn nơi đất cũ. Tuy hồ sơn vẫn như trước mà
Phật điện, đình đài, quan xá, quân cư nhất nhất không còn hình dạng thuở xưa.
Người qua kẻ lại như nêm, ngựa xe rộn ràng, khiến lòng cảm khái, nhân làm một
bài thơ giãi lòng :
Phiêu bạt giang hồ mấy chục niên
Chiếu vời một sớm đến Trường Yên Lâu đài đình quán bên trời ngất Văn vật y quan giữa cõi truyền Sơn dã buông tuồng quen tính tục Ngọc đường lui tới thẹn cung tiên Đất này thuở nhỏ từng du hí Khác lạ ngày nay đã hiển nhiên ! |
1.
Dặm : một đoạn đường dài 135 trượng = 540 m
(là hơn nửa cây số ngày nay).
2.
Ba
Dội : vùng núi giáp
giới tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Ninh Bình, cũng gọi là núi Tam Điệp.
3.
Uẩn
súc kinh luân : chứa đựng tài
trị dân giúp nước (kinh luân là sợi dọc và sợi xe, nghĩa bóng nói về tài chính
trị).
4.
Có câu y phục xứng kỳ
đức, nói cách ăn mặc tương xứng với cái đức của mình.
5.
Cao
ẩn : giấu mình nơi
hẻo lánh mà không dự vào việc đời.
6.
Vàng
và đá : Nghĩa bóng nói
lời nguyện ước gắn bó với nhau vững bền như vàng và đá. Ở đây nói chí của Lãn
Ông không thay đổi.
7.
Nối
điêu : do câu tục ngữ
"Điêu bất túc, cẩu vĩ túc", có nghĩa là đuôi con điêu thiếu, lấy đuôi
con chó thế vào. Nghĩa bóng : lời nói khiêm, lấy cái không hay của mình mà tiếp
vào cái hay của người.
8.
Dương
Xuân Bạch Tuyết : khúc ca thời cổ.
9.
Vân
Sàng : thuộc tỉnh lỵ
tỉnh Ninh Bình ngày nay.
10.
Thịnh
Liệt : tên làng thuộc
ngoại ô Hà Nội ngày nay.
11.
Nhân
Mục : thường gọi làng
Mọc, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Đông.
12.
Cầu
Triền : thường gọi Ô Cầu
Dền.
13.
Hoàng
Mai : tên làng, nay là
ngoại ô Hà Nội.
14.
Cung
tường : nhà bốn bên có
tường, chỗ ở và miếu thờ đều ở trong, tường về phía Nam có cửa để thông xuất nhập.
Sau người ta dùng hai chữ ấy để gọi sư môn (cửa nhà thầy dạy).
15.
Sở
tự : nơi thờ phụng.
16.
Sinh
vị : bài vị thờ người
sống.
17.
Trường
Yên : kinh đô nhà Tây
Hán, nay là tỉnh Thiểm Tây, tác giả mượn để chỉ kinh đô nhà vua.
18.
Ngọc
đường : đền nhà vua, chỗ
các quan văn học lui tới làm việc.
Chẩn Bệnh Thế Tử
Ngâm xong tôi lên cáng mà đi, tử cửa cung Khánh
Thụy qua đình Quảng Minh, rồi qua cửa Đại Hưng, theo đường phía hữu đi hơn nửa
dặm nữa thì đến dinh quan Chính Đường. Cửa dinh cao lớn, voi đi lọt, hai bên có
dựng điếm túc
trực bày đồ nhung trang
mười phần nghiêm chỉnh; quân lính canh ngày đêm, tra xét bọn người tạp nhạp.
Tôi vào trọ trong phạn điếm. Bọn tòng nhân đi sắm sẵn áo mũ để tôi vào sảnh đường.
Bấy giờ chuông lầu đã điểm canh tư. Trên sảnh bài thiết nghi trượng sáng bóng,
chói cả mắt. Trước sân bọn lính đi lại như chợ. Tôi đứng đợi giờ lâu mới hỏi
viên dịch trưởng trực nhật. Y nói :"Có phải lão sư là thày thuốc ở Hương
Sơn tên là Lãn Ông chăng ?". Tôi đáp :"Chính phải đó ! Nhưng sao quan
nhân biết tôi ?". Người ấy nói :"Thời thường từng thấy thượng quan
đàm đạo, lại nghe có Thánh chỉ tuyên triệu, nên mới biết việc đó; lão sư nên
đợi một lát, Thượng quan vào chầu qua đây, đón xe mà yết kiến, thật thuận
tiện". Tôi theo lời ngồi đợi một lúc, quả thấy Thượng quan đi ra. Mọi
người đều tránh né, im hơi. Trong sân có đặt một cỗ kiệu. Trước và sau kiệu,
những người mang nghi trượng phân ban ra mà đứng chỉnh tề. Tôi rảo bước tới
trước sân bái kiến. Vị thượng quan truyền cho chước miễn, lại kêu đến trước
mặt, cười mà rằng :"Ngày nào thì khởi hành ? Ngày n ào thì đến kinh
?". Tôi thưa lại đầy đủ. Thượng quan quay lại, nói sẽ mấy câu với một vị
quan nhỏ còn trẻ tuổi, rồi bước lên xe vào triều.
Tôi còn chưa hiểu ra sao
thì viên quan này đến mời tôi về tư thất. Bấy giờ tôi mới biết thanh niên ấy là
trưởng tử của thượng quan, tuổi ước trên dưới hai mươi, tướng mạo đẹp như ngọc.
Vị này mời tôi ngồi cùng chiếu, tôi cố từ hai ba lần, vẫn cứ không nghe, một
mực khiêm tốn, kế đó chia ngôi chủ khách mà ngồi. Quận hầu mở đầu rằng
:"Nghe lão sư bão học hoài tài, nhởn nhơ nơi núi hang, cây đàn chén rượu
làm vui, lại có lòng cứu giúp người, từng thấy cha tôi nhiều lần khen rằng hiện
nay về nghề thuốc không ai ở trên lão sư. Tôi một lòng ngưỡng mộ đã lâu, may
thay một sớm được thừa nhan, thật là tam sinh hữu hạnh". Tôi cảm ơn, nói
rằng :"Tôi là kẻ sơ
cuồng chốn sơn lâm, dám đâu sánh với đời. Quận hầu ban cho
tiếng khen ấy làm tôi sợ hãi vô cùng". Quậ n hầu sai người đến dinh quan
Trung Kiên truyền lính gác nhà quét sạch sân và nhà, kê giường trải chiếu, hẹn
giây lát hồi báo. Người này đi chẳng bao lâu trở lại thưa rằng các việc đã xong
xuôi cả. Quận hầu nói rằng :"Dinh này huyên náo không tiện, nhà chú tôi có
một nơi tuy chẳng rộng rãi nhưng mát mẻ đáng yêu. Hiện nay chú tôi có công vụ
phải qua trấn Sơn Tây cho nên mới để không cái dinh ấy, mời lão sư đến đó nghỉ
ngơi". Nói đoạn, đứng dậy dắt tôi đi qua nội sảnh ước độ vài mươi bước,
theo cửa nhỏ mà vào, thì thấy ngoại sảnh, trung đường, phòng ngủ, nhà bếp đều
có ngăn nắp. Quận hầu vào trung đường cùng tôi ngồi nói chuyện. Lúc đầu tôi tưởng
đây cũng là công tử vương tôn sinh trưởng nơi phú quý, quen tập nhiễm thói phồn
hoa; sau mới biết ông là người học vấn uyên bác, hiểu rõ những điều phải trái
xưa và nay, phàm nhân tình thế vị đều đã nếm đủ, hơn nữa có tính khiêm tốn,
tuyệt nhiên dung mạo không chút chi kiêu hãnh. Tôi thấy vậy lại càng kính phục.
Trời gần tối ông mới cùng tôi cáo biệt. Tôi sai bọn theo hầu thu dọn hành trang
để đi yên nghỉ. Còn bọn trấn binh đi hộ tống thì cho trở lại trấn cũ, khỏi nói
đến nữa.
Tháng hai ngày mồng một,
tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi sai người mời khách vào thì thấy một tên
lính hầu thở hổn hển bước tới. Đó là kẻ dịch mục của quan Chính Đường. Y thưa
với tôi rằng :"Có thánh chỉ tuyên triệu lão sư, quan truyền mệnh còn đợi ở
trụ sở của quan lớn tôi. Tôi vâng mệnh chạy đến báo lão sư biết và đã lấy lính
bản dinh đem cáng đến đón ngoài cửa rồi, mời lão sư vào chầu trong phủ
ngay". Áo mũ chỉnh tề, tôi bước lên cáng đến cửa phủ. Lúc ấy dịch mục đi
trước hét đường, còn cáng thì đi vùn vụt như thể ngựa chạy. Tôi bị một phen đưa
đẩy, sốc sác lấy làm mệt nhọc. Khi đến cửa phủ thì được người dẫn đi qua hai
lần cửa nữa rồi rẽ theo đường bên trái mà tiến bước. Tôi ngẩng đầu lên coi thì
bốn phương tám mặt, nơi nào cũng cây cối um tùm, chim kêu hoa nở, gió thoảng
hương đưa. Những hành lang, những bao lơn bước bước đều liên lu, nơi nơi đều
cân đối. Kẻ gác cửa có việc gì thì truyền báo, kẻ công dịch qua lại như mắc
cửi. Tôi thầm nghĩ :"Mình vốn là công gia tử đệ, sinh trưởng ở kinh đô,
mọi chốn trong Cấm thành đều thông thuộc; duy sự thể trong phủ chỉ được nghe
nói thôi, mới hay cái giàu sang của nhà vua chẳng phải tầm thường vậy".
Tôi ngâm mấy câu để ghi nhớ :
Đi ước vài trăm bước qua
mấy nơi khuê
môn mới đến cái điếm
hậu mã quân túc trực. Điếm ở bên một cái hồ lớn, trong hồ có cây kỳ đá lạ,
trong điếm cột và câu lơn đều gẫy gọn, thể chế khéo lạ. Quan Chính Đư ờng mỗi
khi thoái triều thì nghỉ ngơi ở đấy. Thấy tôi đến, ngài bảo quan Truyền chỉ
rằng :"Chiều hôm trước,tôi đã tâu với Thánh thượng để ông này vào chầu,
cho mạch cho Đông cung thế tử". Ông cùng với quan Truyền chỉ cùng đi, bảo
tôi đi theo, có mấy tên tiểu hoàng môn nối gót. Khi đến một cái cửa lớn, lính
thị vệ thấy tôi ăn mặc hơi khác lạ, vội lại ngăn trở. Quan Truyền chỉ nói rằng
:"Có Thánh chỉ tuyên triệu", chúng mới để cho đi qua. Qua dẫy hành
lang về phía tây thì đi dến một ngôi nhà lớn, vừa cao vừa rộng, hai bên để hai
cỗ kiệu ngự, những đồ nghi
truợng đều chạm trổ thiếp
vàng; ở gian giữa kê cao một cái sập ngự cũng thiếp vàng; trên sập treo một cái
võng điều. Trước sập và hai bên sập có kê kỷ án, đồ đạc chẳng thường thấy ở
nhân gian. Tôi chỉ liếc mắt trông qua, cúi đầu mà đi. Lại đi qua một cái cửa
nách nữa thì đến một cái gác cao rộng. Trong gác những giường cột t ừ trên
xuống dưới đều sơn son. Tôi hỏi quan Truyền chỉ thì ông đáp: "Ngôi nhà lớn
vừa đi qua mà có cuốn cỏ bồng gọi là Tử
các. Nay Thế tử ở đó ngự
trà, nên cũng gọi là phòng trà (thuốc mà gọi là trà, ý kiêng nói đến
thuốc)". Lúc ấy trong phòng trà có tám chín người, thấy quan Chính Đường
đi tới, đều đứng dậy. Quan Chính Đư ờng ngồi ghế trên, rồi mọi người theo thứ
tự mà ngồi. Ông truyền cho tôi vào giữa hàng những người ấy. Mới đầu tôi còn
chưa hiểu, sau mới biết những người ấy là lương y của sáu cung hai viện được dự
hầu "trà" ở đây, ngày đêm tức trực. Thấy tôi mọi người nhìn nhau, có
kẻ cúi đầu nói nhỏ. Quan Chính Đuờng cười mà rằng :"Ông này là con ông
Liêu Xá, Đường Hào, ngụ tại Hương Sơn, nghề thuốc nổi danh trên đời, nay vâng
Thánh chỉ mời vào kinh". Lúc ấy trong bọn có một người đầu đội khăn nhiễu
Tàu, cười mà bảo tôi rằng: "Lão s ư có nhận biết tôi là ai không ?".
Tôi thưa: "Tôi ở chốn sơn dã, mà nay đư ơng buổi thịnh triều, các quan
đông đảo, sao mà quen biết được ?". Người ấy nói: "Tôi là người An
Việt La Sơn, lúc còn ở nhà từng nghe đại danh mà chưa gặp". Tôi mới biết
ông là giáo quan ở An Việt, tên là Chức. Nhờ có quan trấn là Nguyễn Kiêm ở Tiên
Điền đề cử làm thị y dược, được cai quản thuộc viện của Bộ binh, giữ chức Tham
đồng. Tôi nói: "Chỗ ở quan lớn với chỗ ở của tôi không xa cách lắm, nhiều
lần muốn được yết kiến, nhưng sợ tới mà không duyên do". Câu chuyện chưa
dứt thì quan Truyền mệnh đến nói nhỏ với quan Chính Đường. Vị này đứng dậy bảo
tôi rằng: "Hãy tạm lui đi ăn sáng". Tôi theo ông đi đường cũ đến điếm
Hậu mã. Ông nói: "Thánh Thuợng nghỉ ngơi tại đó, phi tần đứng hầu chung
quanh, chưa dám tiến kiến, cho nên tạm ra ngoài". Ông san sẻ dồ ăn cho
tôi. Trong lúc ăn uống tôi thấy chén bạc mâm v àng, các món ăn đều quý lạ, mới
hay phong vị của đại gia là thế. Ăn vừa xong đã thấy quan thị cận chạy hộc tốc đến triệu quan Chính Đường vào nghe lệnh. Tôi
đi theo ông, đến trước phòng "trà". Ông sợ tôi lạc lối, bảo đi sát
đằng sau ông, chợt thấy một nơi kia màn gấm mở ra, vào bên trông thấy đen tối,
không biết đâu là cửa ra, màn trướng thì hết lớp này đến lớp khác, mỗi lớp đều
có thắp một ngọn nến để dẫn đường. Đi qua chừng bốn năm lớp trướng gấm thì đến
căn nhà rộng, vào trong thấy một vị ngồi giữa chiếc sập thếp và ng, độ năm sáu
tuổi, mặc áo lụa hồng, tả hữu có mấy người đứng hầu, một cây nến lớn đốt cháy,
cắm trên cây đèn đồng. Bên sập đặt một cái long
kỷ sơn son vẽ vàng,
mặt kỷ có đệm gấm. Ngang sân trư ớc có treo một trướng gấm, phía trong cung
nhân đứng xúm xít với nhau, nến sáng lụa che, mặt phấn áo hồng, lóng lánh mọi
vẻ; mùi hoa thơm chan hòa khắp nhà.
Nguyên Thánh Thượng ngự
trên long kỷ đã tạm lui vào trong trướng để cho tôi xem mạch cho được tinh
tường. Lúc ấy tôi nín thở, đứng ở một bên xa xa để đợi lệnh. Quan Chính Đường
truyền cho tôi ra phía trước cúc cung lạy bốn lạy. Thế tử cười rằng:
"Người này lạy khéo". Quan Chính Đường lại truyền rằng: "Già
yếu, cho ngồi mà coi mạch!". Tôi liền cúi người xuống đến trước sập ngự,
ngồi mà chẩn bệnh. Chẩn xong, nghe trong trướng có lời nói se sẽ: "Cho xem
cả hình trạng nữa". Một viên nội thần đứng đó đi tới bên sập ngự bẩm xin
thế tử đứng dậy cởi áo đứng cạnh sập để cho xem. Tôi coi kỹ môt lượt lưng,
bụng, chân tay, thân thể. Quan Chính Đường lại truyền bái tạ mà cho lui; tôi
liền đứng dậy, lạy bốn lạy. Có lệnh sai một tiểu hoàng môn dẫn tôi ra phòng trà
mà ngồi. Một lát sau quan Chính Đường mới bước ra, bảo tôi rằng: "Lão y
xét mạch tình ra sao, ứng dụng phương thuốc gì, nhất nhất đều kê ra để tiến
nạp." Ông còn bảo tôi rằng: "Mang bệnh đã nửa năm rồi, trước kia gầy
lắm, bây giờ mới thêm da thịt, coi đó thì biết sở bẩm không đầy
đủ, lại bệnh đã lâu không bồi bổ gì được, nếu dùng dương dược bụng nóng không
chịu nổi, mà dùng âm dược thì trệ mà thêm bực dọc. Nay phải dùng những vị phát tán mới ổn
đáng". Rồi ông sai Viện Tả quan đem những đơn thuốc đương được dùng để tôi
xem xét. Nguyên ông đã tiến cử tôi, nên mới có những nghị luận ấy mà ông cho là
hợp ý nhau. Vả lại ông vốn am tường y học, tuy vậy cái hiểu biết của ông còn
chưa được thuần hòa, mỗi lúc đàm luận ông đều có ý công phạt. Ông thường
nói rằng: "Có bệnh thì phải chữa bệnh, rồi uống thuốc bồi bổ là chí
pháp". Nhưng theo tôi chỗ tôi thấy thì vì ở chỗ màn trướng vây bọc, ăn no
mặc ấm, phủ tạng mềm
yếu, lại thêm mang bệnh đã lâu thì tinh huyết hao kiệt, khô khan, mặt không
nhuận sắc, bụng lớn gân xanh, chân tay khẳng khiu, chẳng qua cái gốc đã bị tổn
thương nhiều, lại còn lạm dụng đường lối công phạt sắc bén, không biết rằng cái
hao kiệt ngấm ngầm làm cho cái hư cà ng thêm hư vậy. Cái kế sách ngày nay không
bổ còn đợi gì. Chỉ sợ dùng nó chẳng được lâu, thảng hoặc thành công mau lẹ, tất
nhiên sẽ rơi vào vòng cương tỏa, không có ngày trở về núi; bất nhược dùng
phương pháp hòa hoãn, chẳng trúng thì không quá sai lệch. Tôi lại nghĩ rằng:
"Tổ phụ nhà mình đời đời chịu ơn nước, mình nên tận tình nối cái chí giữ
điều trung của tổ phụ".
Tôi suy nghĩ kỹ càng rồi
thưa rằng: "Vâng coi thánh thể thấy gầy gò mà mệt nhọc lắm, mạch chạy mau,
âm dương sút kém cần phải bồi bổ hai thứ tỳ, thận để củng cố cái căn bản
của tiên thiên,
bồi bổ cái hóa nguyên của hậu thiên, khiến cái chính khí được đầy đủ ở trong,
bệnh tự tiêu ngầm ở ngoài, chẳng trị bệnh mà bệnh khắc hết vậy". Lúc ấy
ông cứ quay đi trở lại bày tỏ ý kiến ông để chỉ dẫn cho tôi, tôi cũng biết thế.
Ông nói rằng: "Ông đã lập kiến mà chẳng
đổi thì kê lời luận bệ nh và đơn thuốc để tiến nạp". Tôi theo lời làm tờ
khải rằng :
Nay vâng xem xét thấy
sáu đường mạch đều chạy mau mà không còn sức, mạch bên hữu thì mạnh mẽ, mạch
bên tả yếu ớt. Đó là tỳ âm hư, vị hỏa quá nhiều, không tàng giữ được dương, âm
hỏa võng hành,
cho nên bên ngoài thấy bụng phình lên, thế là cái tượng trong thì không, ngoài
thì phù. Phải bổ tỳ thổ, làm cho đầy đủ cái lực của khôn nhu thì các trở ngại
tự nhiên được san bằng vậy.
Nay
phụng kê :
Bạch truật
|
1 lượng, gạo rang ba lần, đừng quá
cháy, cốt giữ huơng vị để bổ tỳ khí.
|
Thục địa
|
3 đồng cân, nướng khô, làm cho tỳ
mềm mại và để bổ âm cho tỳ.
|
Càn khương
|
2 đồng cân, sao đen để giúp vận
động mạnh lên.
|
Ngũ vị
|
1 đồng cân để nhuần phế khí, điều
tiết tiểu tiện.
|
Tất cả đều đun cho thành keo, mỗi
lần dâng vào một chén trà, dùng thần thảo làm thang, đun lửa to, dùng vào lúc
còn nửa no.
|
|
Tiểu
thần Lê Hữu Trác phụng kê
|
Tôi viết xong, đệ nạp
quan Chính Đường. Ông xem giờ lâu, dường như có vẻ ngần ngại. Lúc ấy, các y sĩ
ngồi đó đứng dậy để coi đơn thuốc; ông không cho coi, thu tờ khải vào trong tay
áo, cười mà rằng: "Ông này về phương pháp và biện luận so với bọn ta đều
khác biệt rất nhiều". Ông sai một nội thần đem tờ khải dâng nạp. Một lát
sau ông đứng dậy bảo tôi đi theo về trú sở Hậu Mã. Uống trà xong, nghỉ ngơi đôi
chút, ông lại bảo tôi rằng: "Đường dài khó nhọc, tạm về nhà trọ nghỉ ngơi,
nếu có thân bằng đến mời mọc cũng không được rời chỗ ngụ, vì còn phải đợi thánh
chỉ". Tôi buớc ra, lên cáng trở về dinh quan Trung Kiên. Một tuần qua đi,
các thân bằng trong kinh thành đến hỏi thăm tôi, xa cách nhớ nhung cũng là
thường tình.
Hãy nói quan Chính Đường
từ ít ngày nay ở trong phủ chầu chực, không giờ khắc nào trở về nhà. Tôi cũng
chẳng biết bài thuốc mà tôi tiến dâng ra sao nữa. Quận hầu thường đến chỗ tôi
ngụ mấy ngày liền, chuyện trò cười nói có khi canh khuya mới về, tình nghĩa
thật đậm đà. Một ngày kia, dịch mục của quan Chính Đường đến chỗ ngụ truyền
lệnh rằng có thánh chỉ tuyên triệu, tôi phải lập tức vào chầu. Tôi đến ngay
dinh Quận hầu lấy bốn tên lính đi theo, lên cáng vào chầu, đến trú sở Hậu Mã
đợi lệnh. Một giờ trôi qua mà chẳng thấy có truyền báo gì. Mãi sau một tiểu hoàng
môn là gia nhân của quan Chính Đường cầm nến từ cung cấm ra đi, vào bếp dọn bữa
cơm tối, cùng tôi ngồi ăn. Y bảo tôi rằng: "Quan lớn tôi nói rằng : Lão sư
hãy về chỗ trọ, sáng mai trở lại đây". Y ghé bên tai tôi nói kính mừng
nhỏ: "Cung hỉ, cung hỉ. Thánh thượng đã chuẩn ban lương bổng bằng suất hai
mươi lính tùy hành, phán cho quan Câu kè hộ phiên
chiếu lệ thi hành. Ngày mai sẽ nghe lệnh." Tôi nghe nói vậy thì than thầm:
"Lấy cái đó mà nhập vào việc đề cử thì có nghĩa lý gì !". Ăn xong,
tên tiểu hoàng môn lây cái quân phù đi dêm
trong cung Cấm (dài hơn năm thuớc, hai đầu giát bạc, có khắc tự danh Nội Sai)
dắt tôi ra khỏi cửa phủ. Suốt một đêm suy nghĩ, tôi chẳng chợp mắt, nghĩ thầm
:"Có việc đề cử ắt chẳng buông tha, nếu mình thụ mệnh, rốt cuộc không
từ chối được, chi bằng thác bệnh không vào". Ngày hôm sau, tôi sai gia
đồng đem thủ thư đến Quận hầu xin sai nhân vào bẩm với quan Chính Đường rằng:
"Đêm tôi bị cảm hàn, đầu nhức, mình nóng, đứng ngồi lẩy bẩy không vào hầu
được". Lát sau Quận hầu đến vấn an, bảo tôi rằng :"Việc ấy tôi đã vào
trong phủ bẩm với cha tôi rồi, lão sư bất tất để trong bụng, mong sớm được khoẻ
mạnh để vào chầu, chắc sẽ có thăng thưởng". Tôi hỏi: "Sao Quận hầu
biết điều ấy ?". Ông nói: "Trước đây vì có việc công tôi vào trong
phủ, cha tôi nói rằng lão sư kê đơn thuốc trong tờ khải, thì viện y phân vân
thương nghị, chưa dám tiến ngự. Duy Thánh thượng ngự lãm, khen là rất thông y
lý, đã chuẩn định ban thưởng". Tôi nghe vậy thì lo âu hiện ra sắc mặt.
Quận hầu vốn biết tôi có ý muốn được ra về, cười mà rằng: "Lão sư tài lớn,
chẳng chịu nổi việc ngựa kỳ, ngựa ký nặng nhọc kéo cái xe muối, mà chẳng vui
chăng ?". Tôi đứng dậy, hướng về phía trước với dáng vẻ sắp cúi xuống lạy.
Quận Hầu hoảng hốt đứng lên nói rằng :"Từ khi lão sư về kinh đến nay, sớm
hôm tôi được thừa tiếp, có nhiều tiến ích cho tôi. Có việc gì cứ xin nói thực,
tôi nguyện hết lòng giúp đỡ". Tôi nói rằng :"Tôi từ thuở nhỏ có chí
bay nhảy, vì số mệnh và thời cơ ngang trái mới ẩn tích nơi sơn cùng để lo nhàn
dưỡng. Năm nay đã lục tuần, tai điếc mắt chậm, há có cầu tiến; lại vì lắm bệnh
mà học nghề thuốc. Chẳng ngờ một sớm đại nhân đề bạt đến đây, thảng hoặc Quận
hầu có thương, xin giúp tôi một phen; nếu chưa được quay về núi thì cũng có thể
thoát khỏi cái dàm danh, thật là may lắm". Quận hầu cười mà rằng
:"Bệnh nhiệt của lão sư thực không có thuốc gì chữa đưọc. Nên lấy ở Hương
Sơn một chén nước để trị bên trong, một mảnh mây để đồ bên ngoài, tự nhiên khỏi
bệnh ngay". Tôi cười rằng :"Quận hầu đã uống nước thượng trì cho nên
trông được phế phủ như
thế chăng ?". Nói xong hai người cùng cười mà cùng nhau từ biệt. Sáng hôm
sau, Quận hầu sai người mang đến một bức thư nhỏ nói rằng đã thưa với đại nhân,
nhưng chỉ cười mà chẳng đáp, lại dặn riêng tôi nên nằm giường bệnh, đừng liên
lạc thư từ với tân khách. Tôi đáp :"Xin vâng lời dạy". Mấy ngày sau,
tôi thấy Quận hầu đến mặt mày hớn hở. Tôi ngầm hiểu việc tôi đã xong rồi. Ông
nói :"Đã mấy lần tôi cất lời nói, cha tôi như có ý ngần ngại, tôi phải
thật tình cố xin thì cha tôi bảo : Lúc trước chẳng tưởng ông ấy thờ ơ với công
danh, trước mặt nhà chúa ta đã nói nhiều về học thuật của ông ấy, nay đổi giọng
lưỡi thì thật là khó. Chỉ có thể cáo là già yếu mà từ chối. Ta vào chầu rồi thì
báo cho ông ấy ngày mai đến Phủ đợi mệnh". Tôi nghe nói mừng rỡ khôn xiết,
cười mà nói với Quận hầu rằng :"Lúc này quan Chính Đường ý hẳn cũng hiểu
cho tôi rồi". Quận hầu lại nói rằng :"Cứ như ngôn ngữ của cha tôi, tôi
nghĩ lão sư sẽ nối lại lời ước xưa với vượn hạc núi cũ mà chẳng phụ bạc".
Tôi đáp rằng :"Nhờ có Quận hầu cứu giúp, chắc cũng không có gì khó".
Đàm thoại nửa giờ rồi cùng từ biệt. Sáng hôm sau tôi đến phủ đợi mệnh, không
thấy quan Chính Đư ờng đâu cả, tôi hỏi bọn lính gác thì họ đều nói :"Thánh
thượng ngụ tại Đông Cung, quan Chính Đường chầu chực tại đó".
Một người lính thuộc
quyền tôi sai khiến dẫn lộ, chúng tôi theo cửa hữu phủ đường mà đi, quanh co
ước hơn một dặm thì thấy lâu đài đình các, rèm châu cửa ngọc, ánh nước long lanh
thấu từng mây. Quanh lối đi nào kỳ hoa, dị thảo, gió thoảng hương bay, chim
xinh, con hót con nhảy. Chốn bình địa nổi ngọn núi cao, nơi bóng râm tỏa lùm cổ
thụ. Cầu sơn vẽ bắc qua giòng nước, đá sặc sỡ tạo thành lan can. Tôi vừa đi vừa
ngắm, thực chẳng khác cảnh tiên vậy. Sau đến cửa Đông cung, gặp quan Chánh
Đường ở triều về, bảo tôi đến trú sở. Uống trà xong, ông cười mà bảo tôi rằng
:"Ông ở chỗ lâm tuyền phóng dật đã quen, từ lúc vào kinh, ngày đêm chạy
qua chạy lại mới biết nỗi lao khổ". Tôi đứng dậy tạ rằng :"Tôi vốn
người nhiều bệnh, thêm tuổi già yếu đuối, mong đại nhân thương tình cứu giải
cho". Ông nói :"Ngày nọ tôi đã đạo đạt ý của ông, muốn tạm ở xứ ngoài
mà đợi lệnh, đã được chuẩn y rồi, ông nên ở chỗ trọ đợi lệnh, chẳng nên đi chơi
xa, nếu đi đâu cũng phải có chỗ ở nhất định, sợ rằng bất thần có tuyên triệu
đó". Nói chưa dứt lời đã thấy viên nội thần đến triệu quan Chính Đường.
Tôi tạ từ về chỗ trọ. Quận hầu đến hỏi thăm tôi. Tôi đem đầu đuôi câu chuyện kể
rõ một lượt. Quận hầu mừng rỡ nói rằng :"Lời ngạn nói vào cửa hầu sâu tựa
biển, huống hồ ông đi hay ở chẳng do cha tôi tự do định đoạt, biết làm sao bây
giờ ?". Tôi thưa :"Quận hầu là núi Thái sơn của tôi, biết tôi là Quận
hầu, cứu tôi cũng là Quận hầu vậy. Sức người có thể thắng trời. Cái tiền trình
của tôi chưa thể nom thấy trước được". Chuyện trò nửa giờ lâu mới từ biệt
nhau.
Mấy ngày sau, quan Chính
Đường ở triều về, tôi vào bái tạ. Lúc ấy một số quan liêu ngồi giữa nhà, cũng
có người biết cửa nhà, tính danh tôi. Quan Chính Đường đem việc tôi kể cho họ
nghe. Một viên quan cười nói rằng :"Ngư ời ta lấy điều được làm quan là
mừng, ông đây lấy điều mất quan là may, sao riêng khác người ta vậy. Người xưa
có câu rằng : Công hầu đâu có tại nham huyệt, thế mà cái
phong lưu nơi nham huyệt chẳng sút kém cái phú quý của công hầu". Tôi nghe
nói, nghiêm mặt mà rằng :"Kẻ sĩ ở nơi hoang vu được đại nhân tiến cử, một
sớm Cửu trùng biết đến, thực là thiên tải kỳ phùng, tam sinh hữu hạnh. Chẳng
qua vì già yếu, đi đứng đau đớn, nên chẳng dám tham lộc trời, tự cam phúc mỏng,
hối tiếc biết bao !". Một viên quan khác nói :"Thấy ông nét mặtđồng nhan, nghiễm nhiên
như tùng bách dạn
sương, trong phép tu dưỡng ắt có điều sở đắc". Lại một viên quan nữa nói
:"Nếu ai ai cũng là Y-Chu thì ai
là Sào-Do ?".
Quan Chính Đường cười mà nói rằng :"Kẻ sĩ ai có chí của người ấy".
Lát sau mọi người đều đi ra.
1.
Túc
trực : chầu chực ban
đêm.
2.
Sơ
cuồng : không cẩn thận
và rồ dại.
3.
Quận
hầu : tiếng tôn xưng
người có quan tước.
4.
Qua
vàng : dịch chữ kim
qua; qua là cái giáo, tức là thứ khí giới cán dài, mũi sắt nhọn, dùng để đâm.
5.
Sông
Hán : tức là sông Ngân
Hán, tên gọi đường trắng ở trên trời do ánh sáng các tinh tú tạo thành, trông
hình như con sông bằng bạc.
6.
Liêm
mạc : cái rèm và cái
màn.
7.
Khuê
môn : cái cửa nhỏ
trong thành.
8.
Nghi
trượng : đồ trần thiết
trang nghiêm nơi vua ngồi hay lúc đi đường.
9.
Bồng : thứ cỏ cứ đến mùa thu thì khô héo, gặp
gió thì bay tung.
10.
Tử
Các : gác tía.
11.
Thị
cận : trông coi gần,
đây nói các quan hầu cậ n.
12.
Long
kỷ : ghế ngồi của bậc
vua chúa.
13.
Thánh
Thượng : chỉ chúa Trịnh
Sâm.
14.
Sở
bẩm : cũng như nói bẩm
thụ, tức là hình hài và tính chất trời cho mình.
15.
Phát
tán : làm cho cái khí
độc nhiễm trong người tan giải ra ngoài.
16.
Công
phạt : đánh phá, ý nói
dùng những vị thuốc có năng hiệu mạnh mẽ và nguy hiểm.
17.
Phủ
tạng : các bộ phận
trong bụng, trong ngực ngư ời ta. Vị, đảm, tam tiêu, bàng quang, đại tiểu tràng
là lục phủ; tâm, can, tì, phế, thận là ngũ tạng.
18.
Tiên
thiên : những cái bẩm
thụ được trước khi sinh ra. Hậu thiên : đối với tiên thiên.
19.
Lập
kiến : định rõ, nêu rõ
cái quan điểm của mình; ấn định điều gì theo kiến thức của mình.
20.
Võng
hành : đi đông không
trật tự.
21.
Câu
kè : chức quan đời
xưa coi việc tra xét sổ bộ .
22.
Quân
phù : phù hiệu trong
quân làm tin cho các mệ nh lệnh, cũng gọi binh phù.
23.
Thụ
mệnh : nghe theo lời
truyền bảo.
24.
Thượng
trì : ao nước ở nơi
cao tuyết, ý nói phép tiên.
25.
Phế
phủ : phổi và các bộ
phận trong bụng người, các bộ phận này gọi là lục phủ.
26.
Nham
huyệt : núi và hang, ý
nói chỗ ở ẩn.
27.
Đồng
nhan : mặt trẻ con, ý
nói nom mặt thì như ng ười còn trẻ trung.
28.
Tùng
bách : hai loại cây
thông, mùa đông tháng giá cũng không vàng lá rụng cành. Hai chữ tùng bách dùng
để ví với những ng ười có khí tiết vững vàng.
29.
Y-Chu: Y Doãn đời nhà Thương và Chu Công đời nhà Chu,
hai người đều là bầy tôi giỏi.
30.
Sào-Do : cũng thường nói Sào-Hứa. Tức là Sào Phủ
và Hứa Do, là hai người cao sĩ đời Đường Nghiêu. Vua Nghiêu muốn nhường ngôi
cho Hứa Do. Do nghe chuyện ấy, ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai, gặp khi S ào Phủ
dắt trâu đến đấy cho uống nước. Sào Phủ sợ nước bẩn miệng trâu, bèn dắt trâu
lên quãng sông dòng trên cho uống.
Dọn Nhà
Lúc ấy tôi ở trong dinh quan Trung Kiên được hơn
một tháng. Thân bằng đến thăm hỏi, ngày đêm vãng lai nhộn nhịp, mà lính quan
Chính Đường tra hỏi ngáng trở. Kẻ muốn và o phải có người nhận lãnh mới được đi
qua. Tôi nghĩ :"Ở trong dinh ra vào khó khăn. Vả lâu ngày, nào gạo nào
củi, lại hơn mười người theo hầu, lấy đâu ra cho đủ chi dùng. Có lúc Quận hầu
hỏi mình người theo hầu nhiều hay ít, quan Chính Đường muốn cho lẫm cấp, mình
chẳng sa vào dàm khóa của nguời, bền lòng từ chối, nên được miễn. Nay phải tìm
ở chỗ khác ngoài dinh, tiện cho khách và bạn lui tới, rồi phát thuốc để cung
nhật dụng". Sau khi toan tính ổn thỏa, tôi nói với Quận hầu rằng
:"Tôi lưu lạc giang hồ đã hơn ba mươi năm, một sớm đến kinh, thân bằng xa
cách nhớ nhung cũng là thường tình, ngày đêm lui tới thành ra có sự đẳng đãi,
nay xin được ngụ tại ngoài cửa dinh, cậy Quận hầu bẩm với đại nhân để tôi được
tiện khu xử". Lúc đầu ông không thuận cho dời xa. Tôi nài xin mấy lần mới
hứa cho. Tôi sai người dò hỏi một nơi trong quân dinh đội Kinh Hữu. Người chủ
tên là Biện Đồng. Anh này nửa đời rồi mà chưa có con, nghe vậy cho việc gặp gỡ
này là bởi trời, thân hành đến mời mọc. Tôi sai người chuyển vận đồ đạc đến ngụ
tại nhà y. Vợ chồng y hoan hỉ và trọng đãi tôi vô cùng. Từ dinh quan Chính
Đường đến nơi này ước vài ba cung
đường. Cứ ba hoặc năm ngày
một lần, Quận hầu đến chuyện trò với tôi, tình thân ái bất tất nói nữa.
Hãy nói chuyện tôi ở
kinh chưa được nửa tháng mà từ quan viên, binh lính đến người trong phố phường,
phần đông đều biết tôi cả; hoặc đã xin thuốc, hoặc đã xin chẩn bệ nh, cho đơn,
ngày đêm vô cùng huyên náo. Tôi nghĩ thầm :"Lúc mới những nghĩ kiếm sao cho
đủ nhật dụng, chẳng ngờ nay kiếm được gấp bội. Tuy nhiên mình đi chuyến này
không để tâm gì đến phú quý mà lại cầu lợi ư ?". Tôi muốn dời chỗ ở nhưng
chưa tìm được nơi nào. Lúc ấy có quan Quản Thị Nội Tả Cơ là Hàm Xuyên Hầu, thuở nhỏ
theo cử nghiệp đã từng theo trường học ở quận, sau ông theo cha đi đánh giặc có
công nên mới tiến thủ trên đường võ bị. Nhưng nhất sinh ông hay đau ốm, nhiều
lần đến xin chữa bệnh. Ông thấy tôi thường khi không trị bệnh mà bệnh lại khỏi
thì cho là thần dị, mỗi khi có bệnh nguy kịch thì cũng nhờ tôi chữa chạy cho.
Ông xin nhập môn học tôi nghề thuốc. Tôi thấy ông là nguời chân thành nên nhận
lời. Ông biết tôi không muốn ở nơi ồn ào, tức thì lẳng lặng sửa sang một sở
dinh cũ ở cạnh hồ gần bản dinh; từ nhà ngoài, nhà khách, nhà bếp đều tĩnh mịch.
Rồi ông đến mời tôi lại ở. Tôi mừng quá liền dời chỗ trọ. Hai vợ chồng tên Biện
Đồng không bằng lòng như vậy. Chỗ ở mới này cùng với dãy nhà phía sau của Biện
Đồng cách nhau vài ba trăm bước. Tôi cho đục tường mở một cửa nhỏ, sớm tối ân
cần tiếp xúc với nhau.
Kể từ lúc di ngụ tới đây
lòng tôi mới được thư thái. Một đêm kia trăng sáng như ban ngày, ngồi tựa câu
lan tôi thầm nghĩ : Đến kinh đã hơn hai ba tháng rồi, làng cũ ch ưa về thăm
được, cũng chưa từng rời bước đi đâu được. Tính đốt ngón tay trải ba mư ơi năm
rồi, những tưởng không bước vào cái cuộc danh dàm lợi khóa, ngày nay phải cam
làm cái anh Sở tù chăng
? Nghĩ ngợi một hồi, bỗng than dài một tiếng, sai tiểu đồng pha trà uống một
mình rồi đi nằm. Tôi chợt nghe từ bờ hồ bên kia nổi lên một tiếng trong trẻo,
véo von, trong như ve sầu uống hạt móc, dứt dứt nối nối, trắng như hạt móc kết
thành sương. Tôi hốt hoảng trở dậy, ra trước sân nghe ngóng, mới biết là ở tây
dinh có người thổi sáo. Khi này mối sầu mới gợi thêm mối sầu cũ, nhân ngâm một
bài thơ ngắn tả nỗi lòng :
Sáo ngọc thanh nghe vẳng
Đêm trong hứng ngẫu nhiên Thổi về ngàn dặm nguyệt Tan nhập khắp thành môn Vui ấy ai người hưởng Tình này lữ khách buồn Sáo trời dào dạt thổi Trống điểm cấm cung đồn |
Ngâm xong, tôi tản bộ
trước thềm, đêm khuya mới đi nằm, chiêm bao thấy mình ở quê nhà trong núi, mãi
đến khi mặt trời chiếu ngang cửa sổ vẫn chưa trở dậy. Đứa tiểu đồng vội vã chạy
lại lay tỉnh, nói rằng Quận hầu chờ đợi ở ngoài cửa đã lâu rồi. Tôi hoảng hốt
ra nghênh tiếp, mời vào trong nhà cùng ngồi. Quận hầu nói :"Trước đây vài
ba gian quân phòng chật hẹp, cửa trông thẳng ra ngã tư, náo nhiệt khó chịu, nay
đư ợc chốn này thanh nhàn xứng đáng cho cao nhân tĩnh dưỡng". Tôi thưa
:"Cũng là nhờ chủ nhân đây có lòng hậu đãi vậy". Lúc ấy Hàm xuyên hầu
thấy Quận hầu đến, cũng tới nơi hầu chuyện. Tô đưa bài thơ Đêm nghe
tiếng sáora để hai ông bình luận thì đều khen ngợi cả. Quận hầu nói
:"câu cực lạc có do mối cảm kích mà ra chăng ?". Tôi thưa rằng
:"Có". Hàm xuyên hầu nói :"Thái hết thì đến bĩ, suy tán lắm cũng
do thịnh mãn nhiều; cho nên thánh nhân mới giảm cái dư trợ cái thiếu, chính là
nói điều ấy vậy". Trò chuyện nửa giờ rồi, hai ông mới ra về. Sáng ngày hôm
sau, dịch
mục của Quận hầu đưa
đến năm người trai tráng, áo khăn chỉnh bị. Tôi thấy thế ngờ rằng có việc gì
phải đi xa. Người dịch mục nói :"Quan lớn tôi thấy chỗ ở mới của lão sư
rất vắng vẻ, vả lại nơi này có lắm bọn đào tường khoét vách, sợ có điều tai hại
xảy ra, mới bẩm với đại quan truyền lấy năm tên lính ở tiền quân thuộc bản dinh
cho chúng phục dịch ban ngày, canh gác ban đêm". Tôi bảo rằng :"Thân
tôi được nhờ tôn
hầu có lòng tốt chu
toàn, ơn ấy ghi tạc không quên. Còn việc này ông hãy vì ta hết lời từ tạ".
Người dịch mục không nghe, cho bọn lính cư ngụ tại nhà ngoài. Nguyên lai mỗi
lần tôi đi đâu đều phải mượn lính hầu của Quận hầu. Những quan viên qua lại cầu
thuốc cũng cấp cho tôi lính để sai khiến, được bảy, tám người :
Thị Nội tả quân
|
2 người
|
|
Nhương Trung quân
|
1 người
|
|
Trung Kinh quân
|
1 người
|
|
Hậu Dũng quân
|
1 người
|
|
Tiền Hùng quân
|
1 người
|
Phần đông bọn chúng đều
lười biếng,chỉ có năm tên lính Tiền Dũng là biết sợ pháp lu ật, công việc sai
khiến đều được vừa ý. Như thế cũng đủ rồi; tôi cảm tạ các quan viên và cho bọn
lính kia trở về, chỉ giữ lại một tên của Tiền Ninh, một tên của Trung Kinh, năm
tên của Tiền Dũng, phát lương cho chúng và cho chúng ở nhà bếp phục dịch.
1.
Cung
đường : một thôi đường
đi chừng hết nửa ngày.
2.
Hàm
Xuyên Hầu : tức Đinh Nhạ
Hành, bỏ chúa Yến Đô, phò vua Lê, được làm quản Binh hiệu thị trung, từng vâng
lệnh vua đem quân xuống Sơn Nam hạ chống quân Tây Sơn (Vũ Văn Nhậm). Cuối đời
Chiêu Thống, Nhạ Hành làm đến Chẩn khấu Đại tướng quân, tước Hàm quận công. Năm
Kỷ Dậu 1789, Nhạ Hành đem gia quyến theo vua chạy sang Tàu.
3.
Sở
tù : tù binh do nước
Sở bắt được. Sau dùng để chỉ kẻ ở trong tình trạng quẫn bách mà không có kế gì
để mưu thoát.
4.
Dịch
mục : kẻ đứng đầu mọi
việc sai phái trong dinh.
5.
Tôn
hầu : tiếng tôn xưng
người có quan tước.
Họa Thơ
Hãy nói khi ấy ở trong kinh, khách nghe danh tôi
mà đến nhiều lắm. Nguyên có lời đồn rằng được đại thần tiến cử, có thánh chỉ
tuyên triệu, tôi là bậc kỳ tài nơi núi non, còn y dược là nghề mọn có đáng kể
chi. Từ đó các quan nha đệ tử và những người trong đám nho học ngày ngày kéo
nhau đến hỏi thăm tôi, hoặc nói chuyện thời nay, kể chuyện thời xưa, hoặc bàn
luận cái hay, cái dở trong nghề thuốc. Chỗ ngồi không lúc vắng khách, chén nước
không buổi vơi trà. Trong những ngày ấy cùng người thù tạc thật là bận rộn. Ngày kia Hình quan tên Bật Trực, người ở An Toàn. Giám sinh tên Hằng người ở Nộn
Liễu và hai Huấn đạo,
một tên Dư, một tên Vụ, đều là anh em ở Đông Lũy; cả bốn ông ấy là những dật
sĩ, cùng với Giám sinh Sơn Tây hiệu Thanh Hồ, Sơn Nam Thi Xã hiệu Thúy Anh cùng
mang theo rượu với đồ nhắm đến chỗ tôi ngụ đánh chén. Các ông hỏi tôi rằng
:"Nghe nói tiên sinh đã tinh thông cái học về tính mệnh lại có cái thi tứ
phong lưu của Lý Đỗ, chắc đã soạn thành nhiều bài thơ, xin đừng giấu lời vàng
ngọc mà cho kẻ hậu bối được thăm chốn cung tường, có nên chăng ?". Tôi từ
tạ mà rằng :"Thơ là để nói lên cái chí của mình, cái chí ắt hiện ra ở lời
thơ; chẳng qua cũng góp nhặt những bài cũ kỹ, lời thì tạp nhạp, tiếng thì quê
mùa, há dám múa rìu qua mắt thợ để làm trò cười sao ?". Các ông nói
:"Tiên sinh chẳng nên quá khiêm tốn, chúng ta đều là đồng đạo, ý đã hợp,
hà tất ngần ngại chi". Tôi mới đem bài thơ Cảm Hoài lúc đi đường vâng chỉ
về kinh đệ nạp để các ông coi. Viên Hình công nói :"Đạm bạc mà có ý vị,
hòa nhã mà ra kiêu căng. Chẳng nói đến sang mà nói đến giàu, đúng là ý tại ngôn
ngoại. Ý vị chứa đựng chẳng cùng vậy". Viên Giám sinh nói :"Một giòng
khí vị do cảnh khói mây tạo ra cho thấy rõ ràng ngài là bậc ẩn giả vậy".
Tối đến tiệc tan, mọi người giải tán. Ngày hôm sau, các ông ấy đều sai người
nhà đưa thư đến. Tôi mở ra coi thì là những bài thơ họa lại thơ của tôi, tôi giữ
cả lại để lưu chiểu.
Thơ
họa của Viên Hình
Công và lời dẫn
|
|
Tiên sinh vốn dòng trâm anh, rời
bỏ đến chốn lâm tuyền đã bao nhiêu năm tháng rồi. Kẻ biết thời vụ như tiên
sinh hẳn có điều siêu việt khác người, lánh ẩn tu dưỡng, chơi coi nước non,
đáng là vị lãnh tụ trọng vọng như sơn đẩu, bọn sinh sau thực chẳng noi kịp.
Nay thăm nhà : khăn tẩm sắc khói mây vẩn, lời đượm mùi dược hoa thơm, thật là
vui thích thay ! Lại nghe nói ngón đàn cầm của tiên sinh cũng là một cái thú
cao diệu (lúc đó chỗ tôi ngồi có cái đàn cầm bảy dây). Phong nhã khiến người
mến phục; bất giác tối sập đến, nay xin nối điêu, nếu thơ được thâu nhận thì
lấy làm hân hạnh.
|
|
Thù thị trâm anh khứ luyện chân
Kim sa ngân tuyết bất ưng bần Nhất lung quế truật dược trung vật Vạn trạng yên hà phương ngoại thân Chữ thạch lạc nhiêu tri vị xứ Tiêu đồng hận thiểu thẩm âm nhân Cung tinh thử nhật Hiên Kỳ hội Hảo tế thị dân phụ thị quân. |
Thơ
họa của Nộn Liễu Giám Sinh với lời dẫn
|
|
Nhà lan quyển vàng, giữa hạ gió
mát, đó là cái lạc thú của ông vậy. Nay ông tuổi hạc đã cao mà cái chí cũng
cao. Bữa nọ hân hạnh được ngồi hầu chuyện, ông cho coi bài thơ Thuật
hoài lúc đi đường, đọc đi đọc lại, nhận thấy ý thơ mạnh mẽ, cốt cách cao
quý, tỏ nỗi lưu luyến non xưa với đá trắng mây hồng. Nay trộm nối điêu mà họa
lại.
|
|
Cây vừng củ núi dưỡng thiên chân
Đất tốt dong chơi há chịu bần Sơn dã cầm kỳ vui dật khách Trí nhân non nước được nhàn thân Liêm ngoan tục cải phô tâm tích Cao tễ linh đan cứu thế nhân Đã sẵn sâm linh đem bổ trợ Còn điều ngũ vị giúp minh quân. |
Hồ ma sơn dược dưỡng thiên chân
Sinh địa ưu du bất ngã bần Tục đoạn cầm kỳ sơn dã khách Thong dong thủy thạch trí nhân thân Phong đẳng viễn chí liêm ngoan tục Thảo tiễn linh sa hoạt thế nhân Nguyên bị sâm linh kham bổ tễ Ưng điều ngũ vị tán minh quân. |
Thơ
họa của quan Huấn Đạo
(người anh) |
|
Chẳng đến Hương sơn hỏi giả chân
Hãy coi phu tử chỉ vui bần Núi rừng học đạo thanh nhàn thú Đất nước nghe danh đạo đức thân Người hám lợi danh quen thế tục Ta đâu xu hướng giống thời nhân Già gây sự nghiệp nhờ tài lớn Mới rõ tôi hiền gặp Thánh quân. |
Mạc tựu Hương sơn đính nhạn chân
Chỉ khan phu tử lạc nhi bần Lâm tuyền thúc nhĩ thanh nhàn thú Kinh quốc phiên nhiên đạo đức thân Chỉ kiến thao thao vô tự ngã Cố ưng lục lục bất như nhân Vãn thành khả kiến kinh luân hội Hữu thị thần tư hữu thị quân. |
Thơ
họa của quan Huấn Đạo
(người em) |
|
Cung đàn lý thú dưỡng thiên chân
Hồ dễ giàu sang bức được bần Hoa động bay hương vui dật khách Trăng song vô sắc được nhàn thân Đón nghênh lễ ấy trưng long điển Cầm hạc tình này tựa cổ nhân Thành thị lâm tuyền qua lại khắp Giữ tròn hành chỉ đạo thần quân. |
Nhất khương lý thú lạc thiên chân
Phú quý yên năng bức đắc bần Hoa quật hữu hương cung thắng khách Nguyệt song vô sắc ngụ nhàn thân Cung tinh sa giác phi thường điển Cầm hạc trung thành sự thích nhân Tuyền hác thị thành kinh lịch xứ Thời tai hành chỉ thái thiên quân. |
Thơ
họa của Giám sinh Sơn Tây
|
|
Hạo nhiên khí ấy bởi thiên chân
Ngày tháng tiêu dao xá kể bần Bát trận xưa nay am thể chế Tam tài trời đất thấu tâm thân Tài không Khương-Phó hay yên nước Vọng sánh Kỳ Hoàng từng cứu nhân Ta muốn thay lời Sào Hứa nói : Ba vua Bốn Thánh buổi minh quân. |
Hạo nhiên chính khí đắc
thiên chân
Tuế nguyệt tiêu dao bất kể bần Bát trận cổ kim minh thể chế Tam tài thiên địa hội tâm thân Tài phi Khương Phó năng y quốc Vọng thiếp Kỳ Hoàng lũ hoạt nhân Vị ngã đương vi Sào Hứa ngữ Tam hoàng, Tứ thánh thái bình quân |
Thơ
của Cựu Thi Xã
Thuở thiếu thời tôi từng kết bạn
với hàng chục người ở kinh dô, lập thành một thi xã. Nay tôi trở lại đây thì
người ngưòi đã phân tán, chỉ còn lại vài ba kẻ mà thôi.
|
|
Lãnh đắc trai tâm dưỡng đắc chân
Vô cầu Khải phú học Nhan bần Thanh sơn lạc ngã tam nghi thú Tử tái nhiêu tha bách chiến thân Lộ thượng trần ai hành lữ khách Đình tiền phong nguyệt cố tri nhân Thuyết dư cảm vấn tam sinh kế Tiếu chỉ linh đan cố Lão quân. |
Sau khi đọc những bài
thơ ấy, tôi nói :"Viên Hình công có phong vị nhà thơ. Còn Giám sinh ở Nộn
Liễu, Giám sinh ở Sơn Tây cùng với hai viên Huấn đạo đều có khí vị của nhà nho
mà chưa thoát tục. Đến như thơ của Thúy Anh thì tư tưởng bay bổng tận trời cao,
viễn vông không đâu, thật đáng nực cười". Tôi biên chép tất cả để coi cho
vui.
1.
Thù
tạc : nói chủ khách
mời đãi nhau.
2.
Hình
quan : quan coi về việc
hình.
3.
Giám
sinh : học sinh nhà
Giám. Ở kinh đô có nhà Giám, tức Quốc tử giám, nơi đây quan tế tửu và quan tư
nghiệp làm giảng quan.
4.
Nộn
Liễu : tên xã thuộc
huyện Nam Đàn,tỉnh Nghệ An.
5.
Viên
Hình Công : tức Bùi Bật
Trực, làm quan đến thái thường tự khanh; sau này lúc quân Tây Sơn ra Bắc, được
vua Lê sai giữ chức than tán quân vụ tại Sơn Nam.
6.
Chử
thạch : nấu đá. Người
đạo sĩ nấu vàng đá làm thuốc; uống thuốc ấy thì thành tiên, đó là kim đan. Ý
nói thuốc hay.
7.
Tiêu
đồng : người ta dùng gỗ
đồng làm đàn cầm, nên đàn cầm cũng gọi tiêu đồng.
8.
Trí
nhân : trích câu Trí
giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn trong sách Luận Ngữ; có nghĩa : kẻ
trí ưa thích chơi với nước, kẻ nhân ưa thích chơi với núi.
9.
Liêm
ngoan tục : liêm là trong
sạch, trái với ngoan là tham. Làm cho thói tham hóa liêm.
10.
Thiên
chân : sự chân thành
rất mực bởi trời phú cho - cái bản tính thiên nhiên.
11.
Cầm
hạc : điển Triệu Biện
người Tây An đời Tống, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Điện trung thị ngự sử, tính
người cư ơng chính. Khi đi chịu chức ở Thành Đô, chỉ đem theo một cây đàn và m
ột con hạc, việc cai trị dân rất giản dị.
12.
Hành
chỉ : làm quan và thôi
việc quan, ý nói làm quan phải tùy thời tiến thoái để bảo toàn danh phận của
mình. Bài hát vịnh Hàn Tín đời Hán của Nguyễn Công Trứ có câu : Nếu
biết chữ khả hành khả chỉ, thì Năm Hồ một lá cho xong !
13.
Thiên
quân : bề tôi và nhà
vua (không có tiếng quốc âm dịch được hai chữ thiên quân có nghĩa là lòng
người, nên tạm dùng hai chữ thần quân, có sai nghĩa, nhưng để họa nguyên vậ n).
14.
Hạo
nhiên chính khí : cái khí tiết
ngay thẳng, cứng rắn của những anh hùng, liệt sĩ.
15.
Bát
trận : tám môn của
những phương thuốc trị bệnh đã được chia ra trong sách thuốc Cảnh Nhạc.
16.
Thể
chế : cách thức chế
ra, cách thức xây dựng lên.
17.
Tam
tài : ba ngôi là trời,
đất và người.
18.
Khương-Phó : Khương Tử Nha và Phó Duyệt. Tử Nha tuổi
già ở ẩn, đi câu. Vua Văn Vương nhà Chu đi săn, gặp Tử Nha ở sông Vị, cùng nhau
chuyện trò đắc ý, cho lên xe cùng về, tôn làm thầy, gọi là sư thượng phụ. Vũ
Vương diệt Trụ mà có thiên hạ là nhờ mưu chước của Tử Nha. Nguyên tổ tiên của
ông được phong ở đất Lữ, nên Tử Nha cũng được gọi là Lữ thượng. - Phó Duyệt :
hiền tướng đời nhà Ân. Vua Cao Tông mộng thấy Duyệt, tìm về cất lên làm tướng,
nước được thịnh trị.
19.
Tam
Hoàng : có nhiều thuyết
khác nhau. Theo sách Đế Vương Thế Ký thì Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế là tam
hoàng.
20.
Tứ
Thánh : bốn vị thánh
trong y học xưa tức là Hoàng Đế, Kỳ Bá, Tần Việt Nhân và Trương Cơ.
21.
Khải : Vương Khải, nhà cự phú đời Tấn, cùng với
một nhà cự phú khác là Thạch Sùng ganh đua nhau ăn chơi xa xỉ.
22.
Nhan : Nhan Hồi, tên một vị trong tứ phối,
thường gọi là Nhan tử. Học trò giỏi của Khổng Tử, nhà rất nghèo, chỉ ham học
đạo.
23.
Linh
đan : thuốc luyện của
thần tiên. Theo nghĩa rộng, chỉ liều thuốc hay.
24.
Lão
quân : Lý Nhĩ đời nhà
Chu, gọi là Lão Tử, tổ Đạo giáo.
Nhớ Nhà
Một ngày kia có người đồng hương được bổ
nhiệm Huấn
đạo ở Hà Hoa đến từ biệt để về Hương Sơn. Nhân tiện tôi gửi thư cùng vài
ba thứ phẩm vật ở Kinh thành nhờ đưa về quê. Viên Huấn đạo nói là ở kinh làm
chức quan nhỏ, ngày tháng kéo dài, tiền đi đường cũng không có; tôi cho ông ta
mượn vài mươi quan tiền. Ông ta lấy làm mừng rõ, từ tạ tôi mà ta đi.
Đêm hôm đó, tôi ngồi ngơ
ngẩn một mình lại nhớ tới quê xưa. Trăng trong chiếu cửa sổ, mối tình thao thức
chẳng chớp mắt được. Canh khuya mỏi mệt nằm trong cửa sổ mà ngủ. Nhưng tâm hồn
sầu muộn cứ quấn quít bên gối, chợp chờn nghe tiếng chim vừa bay vừa kêu, bỗng
tỉnh giấc. Một điểm sáng đèn tàn còn nguyên trên vách, tôi gọi tiểu đồng mang
đàn lại chuyển điệu giờ lâu, lại sai pha trà, uống chừng vài ba chén trà cũng
vô vị. Tôi ra trước sân đi tản bộ miễn cưỡng ngâm vài bài thơ nhỏ để tự an ủi :
Bài
thứ nhất
Tỉnh giấc quê đâu tá
Trước thềm nguyệt ló ra Kêu đàn chim độc nọ Ngắm cảnh hồ thu xa Chơi núi thường nằm mộng Ở Kinh vẫn thế mà Dẫu khôn mà hóa dại Danh nọ cứ ham a ? |
Bài
thứ hai
Cảnh tối ngồi nơi vắng
Từng mây lắng nhạn bay Hồ trong trăng chiếu sáng Cây cối hoa nở chầy Trà cạn lòng thơ cạn Đàn đây nỗi khách đây Thương gà kêu nhớn nhác Tinh tú quan hà đầy |
|
Có một ngày, đang đêm
giữa canh hai, tôi đi nằm thì lính hầu vào báo :"Ngoài cửa có một cái cáng
rất lộng lẫy đang tiến đến, có hai cái đèn lồng dẫn đường, không biết của viên
nha nào". Tôi hoảng lên trở dậy đứng đợi thì thấy là Quận hầu. Tôi mời
vào, hai người cùng ngồi. Tôi kinh ngạc hỏi rằng :"Đang đêm Quận hầu đến,
tất phải có việc gì ?" - Ông nói :"Tôi vâng mệnh cha tôi đến hỏi về
dược phẩm. Nguyên trong ng ày có người tiến dâng đơn thuốc, trong đơn có kê vị
thần thảo, chẳng biết khí vị nó như thế nào, đã lục tìm quyển Bản Thảo,
nhưng không thấy đâu, cho nên tôi phải đến thỉnh vấn để biết cho rõ mà chế
thuốc". Tôi lấy giấy bút tả kỹ càng rồi đưa nạp. Ông hỏi được rồi, chẳng
kịp uống trà, chào tôi rồi đi ra. Tôi nhân nghĩ rằng :"Từ ngày đến Kinh
tới nay, mỗi lần vào gặp quan Chính Đường thì ngài lấy lễ đãi mình rất hậu; còn
hỏi thuốc là việc nhỏ mọn cũng sai đến con. Kính đãi như vậy thì ngày trở về
của mình chắc là không ấn định được". Tôi đem những bài thơ của tôi gửi
đến Quận hầu, để tỏ nỗi lòng nhớ quê hương của tôi mà mong được đạo đạt. Nguyên
từ lúc tôi xin được ra ở ngoài để chờ mệnh lệnh, nhiều lần tôi xin Quận hầu nói
với quan Chính Đường để ông dùng quyền lực mà cứu giải cho; tuy đã dùng vạn kế,
lại đã xin nghìn lần, rốt cuộc chẳng ăn thua gì cả. Quận hầu mới đem những tác
phẩm về thơ của tôi đệ trình ông thân sinh và ra sức xin hộ một phen. Quan
Chính Đường đem thơ xem đi xem lại, coi kỹ càng chỉ mỉm cười mà thôi. Lúc này
đã là tháng năm. tôi có húy
gia tiên; tôi làm tờ khải xin
trở về làng cũ, nhưng không được phép. Nguyên là lúc ấy tuy chẳng dùng hẳn
phương cách chữa thuốc của tôi, nhưng mỗi khi đem dùng cái đơn thuốc nào, lại
cho tôi được coi. Khi này Thế tử bệnh kịch, tôi biết là không dược rời chỗ ngụ,
mới sắm sửa đèn nhang bày lễ ngay chỗ trọ.
Một ngày nọ có quận chúa mang thai
bị băng huyết. Chồng bà là phò mã Cung (phò mã là con Quán Quận công, cùng ở
một huyện với tôi) sai người đến mời tôi, còn nói rõ là đôi bên có tình lân lý.
Tôi tới chẩn bệnh. Phò mã có ý lưu tôi ở lại đó vài ba ngày, nên điều đình với
tôi. Tôi nói là quan Chính Đường dặn tôi không được dời chỗ mà đi đâu, đợi có
thánh chỉ tuyên triệu. Nghe xong ông cũng không nói gì cả. Có biết đâu Quận
chúa ngầm sai thị tì vào phủ tâu xin được giữ tôi lại để chữa chạy. Ngài ngự
phán rằng :"Người này già lão bệnh tật không làm được việc", lại sang
riêng thủ phiên Hữu viện đến (tên là Tân). Phò mã đem sự thực bảo tôi. Từ lúc
hiểu rõ việc này, tôi mới biết quan Chính Đường quả đã trình Thánh thượng cái ý
của tôi. Chỉ vì vị này nhất sinh lắm bệnh nên không chịu buông tôi ra mà dùng
kế, đổ cho là việc công cần đến tôi. Tôi đến ngay nhà Quận hầu, nói rõ cái ý
ấy. Quận hầu nói rằng :"Cha tôi lấy sự thành thực mà đãi người, vốn không
có ý gì khác, thấy lão sư thì mười phần kính yêu, chẳng muốn xa nhau đó thôi.
Lão sư đã không có bụng ở lại lâu, có ý nào lại không theo ý lão sư. Gần đây về
những bài thơ của lão sư, tuy cha tôi không nói rõ, nhưng có ý than vãn ngầm.
Như vậy việc trở về bất nhật sẽ đến vậy". Tôi mừng rỡ nghĩ rằng :"Cổ
nhân ngâm thơ có thể làm kinh động cả quỷ thần, thơ của tôi cũng có thể làm cảm
động Vương hầu. Cái ích lợi của thơ hẳn là có, chẳng sai vậy". Tôi đọc bài
thơ Ở nhà trọ gặp mưa cảm hoài. Với đề tài này người bạn của tôi là
quan Viên Hình cũng làm một bài. Tôi cũng đọc bàiTrông trăng tỏ nỗi lòng.
Hai người lại ngâm cho Quận hầu nghe, ai nấy đều nói lên cái chí của mình. Thơ
có chứa chất cái điều gì ở trong, ắt hiện ra ở bên ngoài. Tôi nay như say như
mơ, quân hầu há lại không nghĩ thương sao ?
Kỳ khách xá ngộ vũ cảm hoài thi
văn
|
|
Ở Nhà trọ gặp mưa cảm hoài
Bỗng đâu gió táp lại mưa sa
Trăm mối u tình kẻ trọ xa Mây cách hàng cây làn khói ám Nước rung đợt sóng mặt hồ đưa Chim chiều tìm tổ chia bầy tẽ Chuông sớm ngờ nơi báo sáng mà Trà đắng ai rằng không chợp mắt ? Đêm nay mộng mị dở dang a ! |
Kỳ đối nguyệt thư hoài thi văn
|
|
Trông trăng tả nỗi lòng
Hương sơn vẫn một mảnh trăng thanh
Tối tối thường soi khắp đế kinh Cai quản tựa lầu say túy lúy Đình đài gần nước ánh long lanh Thanh cao khúc nhạc người trong tiệc Lạnh nhạt tình ai buổi lữ hành Nhà mát Di chân đêm tại đó Đàn kia ai oán gẩy sao đành |
Quận hầu hỏi :"Di
chân đường ở đâu vậy ?". Tôi đáp :"Đó là cái nhà giữa của tôi ở quê,
cây cối um tùm, thật là mát mẻ và yên lặng. Mỗi khi có trăng trong thì họp con
cháu lại, uống rượu mua vui". Quận hầu cười mà rằng :"Người xưa nhớ
đến rau rút cá mè,
bỏ quan mà về; lão sư thanh dật lạc thú hơn cả câu chuyện rau rút cá mè nữa;
sao mà chẳng khẩn khoản đòi về làng". Lại nói tiếp :"Lão sư nên viết
rõ hai bài thơ kia, rồi cho người nhà mang đến cho tôi, đợi dịp đệ trình".
Tôi cáo biệt trở về nhà trọ, vội mang bút giấy chép, xong cho người nhà đem
những bài thơ đó đến nhà Quận hầu.
1.
Huấn
đạo : một chức quan
coi việc học trong một huyện hay một phủ.
2.
Hà
Hoa : tên một phủ. Đời
vua Lê Thánh Tông, phủ Hà Hoa thuộc tỉnh Nghệ An. Đời vua Minh Mạng, hai phủ Hà
Hoa và Đức Thọ được đặt làm tỉnh Hà Tĩnh, cho lệ thuộc vào tỉnh Nghệ An, đặt
chức An Tĩnh Tổng đốc cùmg một Bố chánh, một Án sát để cai trị.
3.
Húy
gia tiên : giỗ tổ tiên
trong nhà.
4.
Quận
chúa : tiếng gọi con
gái các vị có tước vương, thuộc dòng tôn thất.
5.
Rau
rút cá mè : chữ Hán là thuần
lư. Trương Hàn đời Tấn, đến mùa thu, nhớ canh rau rút và gỏi cá mè ở quê mình,
liền từ quan mà về.
Gặp Bạn Cũ
Hãy nói người vợ Quận hầu bị bệnh, cho tìm tôi
vào chẩn bệnh, Tôi được biết bà mang thai con trai đã ba tháng, tôi cho uống
vài ba thang thuốc, thế là yên. Sau này tất cả nhà quan Chính Đường đều đến cầu
chữa thuốc, trong số này có quan trấn Quảng Yên vốn cùng tôi có tình nghĩa sâu
đậm; bà mẹ và và cô em ông ta mà bị đau bệnh gì thì tôi hết lòng đìều trị, cả
nhà đều được yên lành. Cả đến Tiền Ninh, Hậu Dũng, Nhương Trung cũng qua lại,
lấy làm hợp ý nhau lắm, được như vậy phần lớn nhờ việc thuốc men, đó là chuyện
thường.
Một ngày kia tôi hỏi
Quận hầu rằng :"Ngày nào thì tôi được trờ về ?". Quận hầu đáp
:"Sắp có cơ đó". Tôi lại hỏi :"Trước kia tôi đã đệ trình hai bài
thơ, không biết tôn ý có thuơng cho không ?". Quận hầu nói rằng :"Cha
tôi đọc đi đọc lại mấy lần, khen ngợi mãi không thôi. Cha tôi bảo rằng ý ông
một mực chẳng muốn lỗi ước với rừng núi vậy. Cái tình ấy chẳng nên cưỡng ép, để
rồi ta liệu mưu đồ cho !". Tôi nghe lời nói đó, chẳng khác chi được của
báu, lòng vui mừng xiết kể. Tôi sai pha trà cùng Quận hầu đối ẩm. Bỗng thấy một
người áo mũ hẳn hoi, đứng ở cạnh tôi, dương mắt nhìn. Quận hầu cả cười lấy tay
trỏ người nọ, lại lấy tay trỏ tôi, rồi lại lấy tay trỏ lên mồm. Người nọ lấy
tay trỏ tôi, lại đưa tay sờ lên trán, rồi hai tay đập phành phạch như chim bay,
hai tay nhún nhẩy như ngựa chạy. Tôi sợ hãi mà rằng :" Sao ngườinày chẳng
khác gì kẻ si kẻ ngốc là cớ gì vậy ?".
Quận hầu nói rằng
:"Hắn là người vừa điếc vừa câm, sấm vang chẳng nghe thấy, nửa tiếng cũng
chẳng nói được, lại không biết chữ, không biết sao hắn lại có lệnh triệu mang
đến đây". Tôi nói :"Tay chân hắn đều vùng vẫy, là cớ gì ?". Quận
hầu đáp :"Hắn vạch trên trán là nói nhà vua đó, trỏ tay vào miệng là có
chỉ triệu đó, tay vẫy là lại, chân nhảy là đi đó". Tôi nghe vậy thì cũng
cả cười. Lúc đó có viên tri huyện cũ huyện Cẩm Giang cũng ngồi đó. Quận hầu bảo
tôi làm một bài thơ, và bảo viên tri huyện cùng vịnh để ghi lấy cái sự lạ lùng
kể trên. Lúc đó lòng tôi hân hoan, không nghĩ ngợi tìm tòi gì. Thơ rằng :
Viên tri huyện Cẩm Giang đọc thơ, nói :"Tài thơ của lão sư mẫn tiệp, người ta
không theo kịp; tôi không dám múa rìu để mua cười". Quận hầu cũng mặc
nhiên đồng ý, hai người chỉ khen ngợi mà thôi. Lát sau có đứa tiểu đồng của tôi
tới nói sẽ với tôi là có một ông đến chỗ tôi trọ, đầy tớ theo hầu hơn mười
người, ông ta nói là có quan tri phủ chờ đợi đã lâu. Tôi xin cáo từ mà về. Mới
gặp tưởng là người lạ, lâu lâu nhận ra là người cũ, kéo nhau vào nhà cùng ngồi.
Chúng tôi kể lể với nhau cái tâm tình xa cách. Người đó nói là đã từ lâu bị
bệnh, muốn xin thuốc thang cứu chữa. Tôi hỏi tường tận căn bệnh, hứa cho mấy tễ
thuốc. Tôi nói rằng:"Bệnh tình còn rắc rối, hãy thử dùng vài ba tễ, sau
xem sai giàm ra sao đã, rồi mới tìm phương bồi bổ". Cười nói mãi tới lúc
trời sắp tối, ông ấy mới ra về.
Nguyên ông ấy là người
họ vợ tôi, tôi gọi bằng cậu, ở Hoài An, Nguyễn xã, giữ chức tri phủ Tiên Hưng. Thường nhật
chúng tôi kính yêu nhau lắm. Hôm sau, ông sai người nhà đến trao cho tôi một
bài thơ ngắn và nói là thuốc tễ đã dùng hết; các chứng bệnh giảm bớt đến tám,
chín phần, chỉ có ăn uống là chưa được, và còn xin thêm thuốc dùng. Tôi chế cho
thuốc cao và thuốc hoàn. Thơ như sau :
Tam thập niên tiền hữu cố tri
Âm dung vạn lý cửu hà tư Vương kỳ kim nhật thanh danh trọng Hạnh đắc lương phương thọ lão quy |
|
Ba mươi năm gắn bó từ xưa Vạn dặm âm dung những tưởng mơ Danh tiếng kinh kỳ nay đã khắp Lương phương thọ lão để người nhờ |
Ngày kia có hai tên lính
đến chỗ tôi ngụ, đứng ở nhà ngoài, hỏi những lính hầu của tôi rằng :"Nghe
nói có thày thuốc ở Nghệ An vâng chiếu đến kinh, không biết cư trú ở đâu
?". Tôi nghe hỏi vậy, gọi chúng lại hỏi :"Các ngươi thuộc cánh quân nào
? - Hỏi thày thuốc có việc gì ?". Chúng đáp :"Chúng tôi là Cẩm y vệ
quân, vâng lệnh quan chúng tôi đi tìm thày thuốc ấy, chưa rõ về mục đích gì,
hoặc xin thuốc, hoặc muốn biết chỗ trú ngụ, bọn tôi quả thật chẳng hiểu gì
hơn". Tôi cười mà rằng:"Thày thuốc ấy là tôi đây, chẳng biết vị quan
ấy cho tin đã bao ngày rồi ?". Đáp :"Đã năm ngày rồi ". Tôi bảo
:"Các ông hãy trở về báo tin là thày thuốc ấy mời quan lớn lại đây
ngay". Chúng được tin tức rồi thì ra về.
Nguyên viên quan ấy cùng
tôi lúc thiếu thời là bạn tâm giao. Tôi xa cách ông ta đã ba mươi năm mà chưa
được gặp lại. Lúc tôi đến kinh đã sai người dò hỏi, nhưng vì ông ấy có công vụ
ở nơi khác, nên chưa kịp báo cho biết tin về tôi. Bởi vậy khi ông ta trở về
kinh, biết tôi cũng ở đây, mới cho tìm hỏi tôi khắp nơi. Lại nói chuyện bọn
lính đi rồi, chẳng được bao lâu quả thấy viên quan ấy đến. Tôi ra cửa nghênh
tiếp, cùng cầm tay dắt nhau vào nhà. Ông ấy hơn tôi một tuổi. Tuy đầu tóc đã
một nửa bạc, răng đã rụng hết, nhưng thần khí còn tráng kiện. Trong lúc ngồi
với nhau, chúng tôi kể nỗi hàn huyên, lúc vui lúc
buồn, khỏi phải nói. Lại hỏi đến những việc cũ, thì vật đổi sao dời, mười phần
đến tám, chín. Người xưa có nói :"Người anh hùng trong lúc ly biệt không
rỏ lệ". Còn như kẻ khuất người còn (thân bằng) thì biết làm sao được bây
giờ ? - Trông nhau cầm lệ, chỉ những buồn thảm. Tôi đem những bài đề vịnh trong
lúc đi đường và những bài xướng họa của khách khứa bạn bè ra để phê bình cứu xét,
cốt để giải muộn. Đêm ấy, viên quan này nằm ngủ chung với tôi. Nửa vách đèn tàn
và ba chén trà đặc, cùng nhau luận cổ đàm kim, gà gáy mới nhắm mắt. Trời vừa
sáng, viên quan trở dậy và nói :"Quan quân của vệ tôi có lệ phải chực ở
trong triều", rồi từ biệt ra đi. Buổi tối, viên quan ấy cho đem những thực
phẩm ngon đến biếu kèm theo một lá thư. Tôi mở ra coi thì thấy bài thơ họa
nguyên vận bài thơ tôi soạn lúc về kinh :
Buông tuồng từ trước giữ thiên
chân
Chỉ tập Hiên Kỳ mặc phú bần Hoa cỏ thêm bền Sào Phủ chí Chiếu thư bỗng ép Tử Lăng thân Hươu nai rừng núi vui giai hứng D Danh lợi phồn hoa ngán thế nhân Tôi mọn tấc son khôn dãi tỏ Hành tàng giữ phận cậy minh quân |
Từ đó hoặc viên quan ấy
đến chỗ tôi ngụ, hoặc tôi đến dinh ông ấy, thêm việc người nhà đưa biếu thực
phẩm, ngày ngày qua lại, khỏi phải nói.
Một ngày kia, vào sáng
sớm, quân lính huyện Cẩm Giang mang nhiều nguời đi theo đến chỗ tôi ngụ thưa
rằng : Có quan Hiến sứ Kinh bắc (người Hoan Châu là ông Huy Khiêm) nhân dịp trở
lại kinh thành, nghe danh quý sư muốn đến yết kiến, sợ rằng quấy nhiễu nơi nhà
trọ, trước hết giao cho kẻ hầu cùng tòng nhân đến đón chờ, có soạn một bài cổ
thi. Bài ấy do viên quan gởi đệ trình như sau :
Lương y với lương tướng
Chưa dễ đến cùng nhau Đã nhắc tình cố cựu Ai ngờ ý ấy đâu Non sông có ông Vụng Cửa đóng đã từ lâu Hải thượng ông Lười đó Giày loan xe hạc chờ Lười qua do Vụng thỉnh Ẩm trác cũng nhiệm mầu |
Ông Cẩm Giang lại nói
:"Vị quan ấy có lời thỉnh cầu, quý sư nghĩ tình đồng quận, đừng hẹp hòi gì
và đến với ông ta". Tôi đáp :"Đại quan vốn đồng quận, chỗ ở cũng
chẳng xa; trước kia tôi vẫn mong được yết kiến,chỉ hiềm không duyên cớ. Nay đã
được hạ cố, sao dám chẳng vâng mệnh !". Tôi mới cùng ông Cẩm Giang lên
đường. Khi đến cổng ngoài thấy vị quan ấy chắp đứng ở trước sân nghênh tiếp.
Tôi thấy vậy hoảng hốt xuống cáng, đến gần cúi mình chào rồi vào nhà. Vị quan
ngồi ghế chủ, tôi cùng ông Cẩm Giang ngồi phía tả và phía hữu. Vị quan nói :"Tôi
có cố tật, chữa thuốc khắp nơi mà không khỏi bệnh. Tuy cùng lão sư đồng quận,
nghe danh lớn đã lâu, nhưng không duyên gặp gỡ. Ngờ đâu nay trời cho được dễ
dàng gặp nhau. Há chẳng phải việc ẩm trác đều có tiền định sao ?". - Tôi
thưa :"Kẻ ốm yếu ngu dại nơi quê mùa, biết sơ sài cái thuật nhỏ mọn, sao
đương nổi lời quá khen ấy". Trong chốc lát, người nhà bếp dâng cơm, trẻ
nhỏ bưng nước, thật là xa hoa trang trọng. Uống trà xong, vị quan xin được coi
bệnh. Tôi thấy sáu đường mạch như tơ, hai đường mạch ở hai tay tựa như không
có, tôi giật mình thốt lên :"Tiếc thay ! Ngài khó mà hưởng được tuổi
thọ". Tôi chỉ bằng mạch mà gọi bệnh, cũng may được phù hợp. Vị quan ấy
than rằng :"Quả nhiên danh đồn không sai ! Giận rằng gặp nhau thì đã
muộn". Rồi ông xin đơn thuốc. Tôi nói rằng :"Cho đơn thuốc phải suy
nghĩ cặn kẽ mới được ổn đáng. Nay ngồi đây vội vã sao nên, xin đến sáng mai sẽ
đệ trình". Ông Cẩm Giang nói rằng :"Vì thế khi tôi đến xin đơn thuốc,
lão sư chẩn bệnh, xem đi xét lại đôi ba lần mới cho thuốc; cẩn thận như thế sao
mà chẳng linh nghiệm". Sau đó một lát quan Cai đạo Nam sơn là Đỗ
hoàng giáp đi đến. Mọi người
đứng dậy chào, mời ngồi cùng chiếu. Ông hoàng giáp họ Đỗ hỏi quan Hiến sứ rằng
:"Đây là ông nào ?" - Quan Hiến sứ nói đùa rằng :"Người ở ẩn ở
Hương sơn là ông này đó" - Ônghọ Đỗ cười rằng :"Có phải Hải Thượng
Lãn Ông chăng ?" - Quan Hiến sứ đáp:"Chính phải đó". Đỗ hoàng
giáp nói rằng :"Tôi nghe đại danh đã lâu mà chưa từng gặp mặt, nay nhà tôi
bỗng mắc bệnh hiểm nghèo, muốn sai người lại đón, chỉn e lão sư chẳng chiếu cố.
Trong lúc phân vân may mắn được gặp gỡ, nay xin cho một bát thuốc để điều
bổ". Tôi đáp :"Kẻ làm thuốc phải lo tính mệnh người, bổn phận là phải
chịu khó nhọc, không từ nan điều gì, dám biếng nhác buông tuồng được sao
!". Đỗ hoàng giáp mới kểbệnh từ đầu đến cuối. Tôi cho hai tễ thuốc thang
và thuốc hoàn. Cẩm Giang công nói :"Cha tôi cũng khó ở đã lâu, vốn chẳng
dám phiền nhiễu nhau, nay nhân chỗ ở của tôi ở bên tả (tả biên), mời lão sư đến
nhà, được như vậy, hân hạnh cho tôi chẳng ít".Thế rồi mọi người từ biệt
nhau, tôi đi đến nhà ông Cẩm Giang. Thân sinh ông này là quan Tả Binh Sĩ Đoan,
lúc này đã về trí sĩ, mà còn lưu lại kinh thành. Khi đã chẩn mạch, cho đơn rồi,
thì các công tử mời tôi đến nhà thủy tạ bên hồ, pha trà uống, cùngnhau nói
chuyện. Đây là một cái hồ bằng phẳng, rộng ước chừng nghìn mẫu. Qua lại thủy
điểu giỡn làn sóng nhẹ; nhảy nhót du ngư tranh chiếc lárơi. Giữa hồ sóng cỏ trước gió dâng lên; bên hồ hoa sen thâu đêm vẫn nở.Trước hồ
có đắp một con đê nhỏ hình bán nguyệt. Phía trong đê đều trồng sen trắng, cạnh
đê những cổ thụ rủ bóng mắt, những hoa quý phô sắc xinh. Trước sân vài gốc mai
già nghiêng mình trên ghế đá; ngoài song mấy khóm trúc xanh tỏa bóng bên án
thư. Hạc nội đứng co ro một mình, ý chừng sợ khí trời lạnh lẽo; trăm hoa như
đối thoại, mắt coi thấy sáng tươi. Nói chẳng hết được cái phong vị u nhàn. Lúc đó mọi người đòi làm thơ. Tôi nói :"Các ông xướng
trước, tôi xin họa sau". Nhưng chẳng ai chịu mở đầu cả. Tôi mới cầm bút đề
một tiểu
luật như sau :
Lão tướng ưa u nhã
Đình đài hướng nước mây Song thưa trăng chiếu sáng Lá rụng cá vùng nhẩy Hoa dày hạc ngủ say Cửa đóng đã từ lâu Trà ngon mời khách cạn Cười nói ngát hương bay |
Tôi đề xong, quan trí sĩ
sai người mang thư đến cho ông xem xét. Ông nói rằng :"Thật thanh tân đáng
yêu", rồi ông bảo đem dán lên vách. Ông Cẩm Giang cũng có lời thơ họa, có
lời kê rằng :"Tiên sinh tuổi trọng đức cao, có thủ đoạn Hiên Kỳ, có thi
tài Lý Đỗ, với thái độ nhã đạm, tình tứ cao dật, lâng lâng thành cao sĩ. Văn
nhân tài tử đều mong được cùng người giao du. Tăng tôi làm
quan một ấp xa, được gặp tiên sinh sau hết, may được người rủ tình cho linh
đan, còn tặng giai cú. Mối tình thân thiết cao dày, ân đức ấy không quên. Kính
cẩn thuật lời tạp nhạp để nối thơ".
Chiêu yêu vân hạc lữ
Nhàn thích thủy vân biên Hảo khách thùy thanh nhãn Trừng ba thưởng bạch liên Kỳ phương điều tích dạng Hảo cú khởi cao miên Nhã ấp xuân phong tọa Lung sinh ngũ sắc yên |
|
Mời mọc bạn vân hạc
Nhởn nhơ thú nước mây Mắt xanh tình khách thỏa Sen trắng nước trong đây Thuốc lạ trừ tật dễ Câu thần ngủ giấc say Gió xuân ngồi cùng hưởng Năm sắc khói tuôn bay |
Chiều đến tôi từ biệt
trở về nhà trọ. Các công tử tiễn đưa ra khỏi cổng, trèo kéo đùa giỡn, ý chưa
muốn chia tay.
1.
Thiên : thiên lệch, không đồng đều với kẻ khác.
2.
Dự
Nhượng : người nước Tấn
đời Chiến Quốc. Làm tôi Trí Bá. Sau Trí Bá bị Triệu Tương Tử diệt. Nhượng bôi đen
mình, lại nuốt than để thay đổi hình trạng, muốn giết Tương Tử, báo thù cho Trí
Bá. Bị Tương Tử biết được, Dự Nhượng kêu rằng :"Tội tôi đáng chết, chỉ xin
ngài cái áo để cho tôi đâm, dẫu chết cũng không hận gì". Tương Tử bằng
lòng, đưa áo cho Nhượng. Nhượng bạt kiếm, nhảy ba lần mà đâm vào áo, rồi tự đâm
mình mà chết.
3.
Hàn
hầu : không rõ nghĩa.
Đời Hán Cao Tổ, có Hàn Tín được phong Hoài âm hầu. Đời Xuân Thu, vua nước Hàn
cũng gọi là Hàn hầu.
4.
Cẩm
Giang : tên một huyện
thuộc tỉnh Hải Dương.
5.
Tiên
Hưng : tên một phủ
thuộc tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình.
6.
Lương
phương : bài thuốc hay.
7.
Hàn
huyên : Lạnh ấm. Nói hai
người xa cách nhau, trong khi được gặp lại, trò chuyện với nhau.
8.
Tử
Lăng : chỉ Nghiêm Quang
ở Đông Hán, mặc áo tơi đi cày ở núi Phú Xuân, cũng là một cao sĩ.
9.
Tức Phạm Nguyễn Du, tự
Hiếu Đức, hiệu Dưỡng Hiên, trước tên là Phạm Huy Khiêm, người làng Đăng Điền,
huyện Châu Thúc, Nghệ An. Ông nổi tiếng văn tài lúc thiếu thời, được tiến dẫn
vào triều trước khi đi thi. Ông đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1779), năm Cảnh Hưng
thứ 40, khi ôhg 40 tuổi. Làm quan Học sĩ ở viện Hàn Lâm và chép quốc sử. Lúc
Tây Sơn tràn tới Nghệ An, ông đang giữ chức Đốc đồng tỉnh ấy. Theo sách Nghệ
An Ký, ông lánh sang huyện Thanh Chương, chiêu mộ hương binh để chống lại
Tây Sơn; sức không địch nổi, phẫn uất mà chết. Ông có viết sách Luận Ngữ Ngu
Án, phú như Thạch Động Thi Văn Sao.
10.
Cai
đạo : quan đứng đầu
một trấn.
11.
Đỗ
hoàng giáp : chưa rõ ông nghè
họ Đỗ nào (hoàng gĩáp là tiến sĩ đệ nhị giáp, cũng gọi tiến sĩ xuất thân).
12.
Sóng
cỏ : Sóng mang theo
cỏ.
13.
U
nhàn : U nhã và an
nhàn.
14.
Tiểu
luật : một bài thơ nhỏ,
soạn theo Đường luật. Đây là một bài ngũ ngôn luật thi.
15.
Vân
hạc lữ : bạn với mây hạc,
do câu Cô vân dã hạc, có nghĩa mây đơn hạc nội, chỉ người lánh đời
ở ẩn.
16.
Thanh
nhãn : mắt xanh. Đời
Tấn, Nguyễn Tịch tiếp khách, gặp ai vừa lòng mình thì mắt xanh, không vừa lòng
mình thì mắt trắng.
Tiễn Bạn
Một ngày kia, Hàm Xuyên
Hầu đến chỗ tôi ngụ. Trong lúc cùng nhau trò chuyện, sắc mặt ông ta đổi khác,
hai ba lần miệng muốn nói lại thôi. Tôi hoảng sợ nói rằng :"Quân hầu ngày
ngày cùng tôi có thân mật, tình nghĩa trọn vẹn, có việc gì đều cho nhau biết,
không giấu giếm gì. Hôm nay, Quân hầu ra chiều bối rối ngại ngùng, hoặc giả tôi
có điều chi lỗi đạo mà chẳng nỡ nói ra chăng ?". Quân hầu đáp :"Đâu có
lẽ ấy ! Tôi may được giao du cùng lão sư, thường giữ lễ đệ tử, đạo nghĩa không
sứt mẻ. Chỉ vì nhà này là biệt thất của anh tôi, nhân có việc về quê anh tôi bỏ
không cái dinh này, tôi mới mời lão sư ở tạm tại đó, cũng là tiện đường vào
chầu. Nay lão sư vạn phần không chắc được hồi hương, bất nhật ắt đưọc ban cấp
binh dân, chừng ấy sẽ xin đất lập dinh cho tiện. Trong hơn một tháng nay,tôi
còn được ở nhà; mặt trước cạnh hồ có một miếng đất bỏ không có thể ở đuợc.
Thường tôi muốn xây một cái nhà riêng, mời lão sư đến yên nghỉ; bấy giờ mới tìm
anh tôi trở về nhà cũ. Chẳng ngờ tôi vâng mệnh làm giáo khảo cuộc thi bắn giữa
các quân binh, công việc của tôi bề bộn, không lúc rảnh rang, cho nên chưa làm
xong nhà. Hiện nay nhà ngoài chỗ tôi ở cũng khá rộng rãi, vậy xin lão sư đợi
vài ba ngày nữa cái nhà bên hồ làm xong thì dọn đến ở. Bằng không, sang dinh
quan An Quảng cũng được nhàn tĩnh. Chẳng biết ý tôn sư như thế nào ?" -
Tôi nghe vậy thì cười mà đáp :"Đại trượng phu cùng nhau gặp gỡ, sao lại
câu nệ như thế. Việc này tôi sẽ lo xong, xin đừng bận tâm làm gì". Ông ấy
nghe nói vậy, dường như có vẻ vui mừng. Tôi thầm nghĩ :"Nhà ngoài của viên
quan này, binh lính lai vãng tụ tập, không thể ở được. Còn dinh quan An Quảng,
trong ngoài là nhà cửa cả đấy; nhưng dinh ấy bốn bề không tường vách, nơi ấy
lại lắm trộm cướp, hẳn chẳng ở yên ổn. Mình mới được biết quan Hậu Trạch ở cạnh
hồ, có vài ba ngôi nhà tiếp giáp với nhau, đất cao nưóc sạch, nên báo ngay cho
ông ta chỉnh đốn riêng một sở, rồi dời ngụ đi mới được hẳn hoi". - Tôi
biên thư cho Hàm Xuyên Hầu để cáo biệt; nghe đâu "hầu" thấy vậy thì
trong lòng áy náy, phúc đáp thư tôi, kèm thêm một bài thơ gởi đến. Thư viết như
sau :
"Đã từ lâu nghe đại
danh như sét đánh bên tôi, cứ hận không được biết họ Hàn. Tiên sinh ruổi xe
vào cửa khuyết; tôi được trộm nghe lời giáo hối, tự biết là hân hạnh rất
nhiều.Thường sớm tối muốn được thừa tiếp xuân phong, không phụ
cuộc giải cấu vong
niên này. Ngày trưóc tôi có dành riêng cái nhà tranh ở đây làm nơi
"phượng" đậu, được tiên sinh chẳng bỏ qua mà dành trọn cáo ơn thắm
thiết ấy. Hiện tại anh tôi trở lại kinh, tôi chẳng biết nói làm sao. Tiên sinh
muốn lo dời gót, bản tâm tôi đâu có muốn thế mà lòng còn canh cánh chẳng nỡ xa
nhau. Nếu ờ dinh quan An Quảng rộng rãi trống trải không tiện thì nên dời đến
tệ xá sảnh ngoài, cũng yên sở, chẳng cần phải đi xa xôi, qua bên kia cái hồ sen
làm gì, khiến tôi bâng khuâng như bị mất mát gì đây. Đó là tình thật, tiên sinh
nên nghĩ lại một chút. Có hai điều, xin chọn lấy một là nên tạm trú, sớm muộn
tôi sẽ xây riêng biệt một ngôi nhà, tuần nhật sẽ làm xong, tiên sinh sẽ nằm
thảnh thơi bên cửa sổ vậy. Nói chẳng hết lời, nên phải có thơ, ngõ hầu tả rõ
cái chân tình mà thôi". Thơ rằng :
Thượng sơn sắc hạ
nhạn trung chân
Đức thiệu niên tôn đạo bất bần Cốt lận chân ngôn vô ẩn nhĩ Định tri thạch thượng hữu tiền thân Mã ngưu tương cập giai Hồng quận Phì tích nan năng liệu biệt nhân Kim nhật thử tình vô hạn hận Nhất tràng tâm sự phó thiên quân |
|
Thương sơn kiệm bạc giả mà
chân
Đức lớn niên cao đạo chẳng bần Lời trọng như vàng không ẩn ý Duyên ghi trên đá nối tiền thân Ngựa trâu thành bạn nguyên đồng quận Gầy béo điều thang khó kén nhân Đeo hận ngày nay tình xiết kể Nỗi lòng cam để gửi thiên quân |
Tôi coi rồi lấy làm cảm
động, dường khó mà cáo biệt được.. Đây là việc bất đác dĩ, chắc lòng ông ấy
chẳng muốn thế. Tôi phúc thư nói rằng :
"Lãn tôi bị vời về
kinh, nửa gánh hành trang, ở nhờ bên đông, tạm trú bên tây, may được tôn hầu
thành tâm đối đãi. Đã hơn mười tuần nay tránh gió che mưa, Lãn tôi tưởng thế
nào cũng có ngày việc sẽ gỡ ra xong, gươm đàn trở về núi; có nghĩ đâu vẫn bị
ràng buộc ở đây thế này. Thế rồi tuy trong gang tấc mà lại cách biệt, khiến
lòng tôn hầu băn khoăn biểu lộ ở lời thơ. Lãn tôi lòng càng xúc động, có bài
thơ luật Đường kính đáp như sau :
Tình này bạn ấy ngẫm thiên chân
Uất ức vì đâu để chí bần Trống sớm chuông chiều nông nỗi khách Đông kiều tây ngụ nước bèo thân Non xanh cựu ước sao vô phận Gác tía tiền trình để não nhân Bốn bể bạn bè đầy dẫy đó Mấy ai biết bụng được như quân |
Khi ấy sát vách chỗ tôi
ngụ là dinh quan Trạch Ưu Hữu. Viên quan này thường đau bệnh lạnh bụng. Tôi cho
thuốc, bệnh đỡ được phân nửa. Bà vợ ông mắc cố tật đã hơn mười năm, cũng xin
chữa trị; sau hai tháng dùng thuốc thì bà hết đau. Hai ông bà nghe tôi muốn tìm
chỗ trọ mới, hỏi lại Hàm Xuyên Hầu cho biết rõ, rồi chẳng bảo cho biết truớc,
đem ngay giường chiếu kê đặt chỉnh tề ở các nhà giữa, gồm ba gian, nhà này mái
ngói vách vôi. Trước sân có cây lạ đá chồng, hoa nở thơm tho. Ngoài ba gian
dùng làm nơi tiếp khách, có một gian dùng làm gian nhà bếp, quét dọn sạch sẽ,
bốn bề chia ra trong ngoài, lại mở cửa trong cửa ngoài để tiện xuất nhập. Tất
cả đều đuợc xắp xếp ổn thỏa xong xuôi, ông bà mới đến mời tôi lại ở. Tôi chẳng
hiểu nguyên cớ gì, sợ có điều phiền nhiễu người, nên chỉ biết thâm tạ hậu tình,
chẳng chịu dọn đến. Hai vợ chồng mời đi mời lại mãi, nói rằng :"Lão sư
không xét lòng thành của chúng tôi, xin tạm sang coi qua một lượt". Tôi
đến nơi thì thấy trong ngoài phòng ốc đều được thiết lập chỉnh tề, nghĩ thầm rằng
:"Vợ chồng người ta cư xủ như thế mà mình cự tuyệt được chăng ?". Tôi
bằng lòng di ngụ tới. Hàm Xuyên Hầu nghe biết vậy mừng lắm, ông vội đến gặp
tôi.
Nguyên quan Trạch Ưu là tổ thúc Hàm Xuyên
Hầu, tiên triều có ban cho một khu quan thổ. Vì thế họ hàng được ở chung hai
dinh tiếp giáp nhau. Quan Trạch Ưu còn cho mở một cửa nhỏ để Hàm Xuyên Hầu qua
lại cho tiện. Tôi cùng hai ông ăn ở với nhau, sớm đào tối mận, tình ngày càng
thắm thiết. Quan Trạch Ưu cũng cấm ngặt người nhà không cho lui tới chỗ tôi ở,
đủ biết ông kính đãi tôi thế nào.
Từ lúc tôi đến ở nơi này
thì lòng ưa ý thích. Một đêm kia trăng chiếu vào hiên, nhận thấy trúc thưa gió
lọt, tiết trời êm dịu, hình bóng u nhã, móc đọng trên hoa, hương bay nhè nhẹ.
Thật là đẹp đẽ thú vị. Trà đồng pha trà, tôi ngồi tựa lan can uống một mình.
Bỗng có ông Viên Hình là em rể tôi đến kể lể chút việc riêng. Tôi vui mừng xiết
kể, cùng ông uống trà. Ông Viên Hình nói rằng :"Đêm đẹp thế này, trăng
trong gió mát, thật không phụ ta, ta lại nỡ phụ sao ?". Tôi đáp rằng
:"Ông nói phải lắm, ông nên cùng tôi làm một bài thơ, lấy đề tài Đêm
trăng uống trà nói chuyện cũ mà dùng các vần canh, thanh,
phanh, kinh".
Tôi
đọc trước rằng
|
Ông
Viên hình họa rằng
|
Trà âu phù nguyệt sắc
Hàn ngọc tẩm băng thanh Mộng giác nhân thiên lý Ca tàn dạ nhị canh Cam ngôn vô nghịch nhĩ Khổ minh bất tu phanh Tinh đẩu kinh thi cú Ngâm dư dục ky kình |
Trợ ngã ngâm hoài khoát
Đương song nguyệt sắc thanh Hảo đàm thi vạn trục Bất giác dạ tam canh Lữ khách tâm như hỏa Trà đồng thủ quyện phanh Điêu thanh hà xứ cấp Nghi thị viễn chung kình |
Chén trà lồng bóng nguyệt
Sắc trắng tựa băng thanh Mộng tỉnh người thiên lý Ca tàn lúc nhị canh Lời đường tai thích thú Trà cạn áo phong phanh Sao chuyển câu thần cảm Ngâm xong muốn cưỡi kình |
Ngâm xướng giục lòng khách
Hộ song chiếu nguyệt thanh Mải bàn thơ vạn cuốn Bỗng đã đêm tam canh Kẻ trọ lòng lửa đốt Trà pha trẻ áo phanh Điểm canh đâu gõ gấp Ngờ đó tiếng chuông kình |
Ngâm xong, hai người đều
lần lượt đọc những bài cổ thi, cùng nhau bình duyệt, canh khuya mời đi nằm.
Ngày hôm sau ông Viên Hình có việc phải cáo biệt. Giữa lúc ấy Nộn Liễu Giám
sinh nhân dịp về Hoan Châu, đến từ biệt tôi. Tôi nói :"Tôi cùng ông đều là
khách Trường Yên. Ông thì đi Nam đi Bắc, còn tôi như chim trong lồng, không tự
do mà đi hay ở được. Kẻ ở người về đều buồn bã cả, biết làm sao được".
Tôi mới ngâm một bài thơ
ngắn để tặng ông, kèm theo lời giải như sau :"Đồng loại thì tìm đến nhau,
đồng đạo thì tin cậy lẫn nhau. Một ngày chẳng nom thấy nhau thì dài ghê. Huống
nay đường trở về Hoan xe đi vạn dặm, Lãn tôi há không tưởng nhớ sao ? - Từ nay
tôi ở nhà trọ, gió sớm trăng đêm buồn bã. Sau ba chén trà biết cùng ai nói
chuyện thơ. Còn như ông trên đường đi, mỗi khi gặp danh thắng, muốn xướng muốn
ngâm dễ quên tôi được chăng ? - Tình khôn xiết kể, có thơ để dãi lòng".
Chia tay cùng lẳng lặng
Khó nói bởi tình dài Ngàn liễu màu vàng ánh Non Hương bóng nguyệt soi Lầu canh chuông mõ tối Nỗi khách tiễn đưa ai Cùng hẹn đông tiền hậu Ba thu tưởng nhớ hoài |
Ông Nộn Liễu đang khi
ngồi tại đó, đòi lấy giấy bút để đáp lại. Có lời mở đầu rằng :"Cổ nhân nói
một đêm chuyện trò còn hơn cả một bụng thơ. Hằng tôi được bái yết phong quang
và ghi tác những lời đạo đức, nhất là thường được họa thơ thì lấy làm vui mừng
lắm. Nay xin thuật lời quê mùa để phụng họa".
Ai nấy cầm bài thơ tặng
mình xem đến ba, bốn lượt, mối tình vương vấn khôn xiết kể. Trong lúc cười nói,
tuy nét mặt cố giữ vẻ bình thường, nhưng lời nói và dáng vẻ đều khó giấu nổi
thắc mắc buồn rầu. Uống xong vài ba chén trà thì cùng nhau cáo biệt.
1.
Nguyên
văn : Mỗi dĩ bất thức
Hàn vi hận : lấy điều chẳng biết họ Hàn làm hận. Trong bức thư gởi Hàn Triều
Tông, trưởng sử Kinh Châu, Lý Bạch có câu : Sinh bất dụng vạn hộ hầu,
đãn nguyệt bất thức Hàn Kinh Châu (Sống không cần làm vạn hộ hầu, chỉ
mong một lần được biết Hàn Kinh Châu).
2.
Xuân
phong : gió xuân. Nghĩa
bóng : dáng dấp vui tươi, hòa nhã.
3.
Giải
cấu vong niên : cuộc tình cờ gặp
gỡ mà không kể tuổi. Ý nói chơi bời kết bạn cùng nhau mà không kể là già hay
trẻ.
4.
Thương
sơn : tên núi ở tỉnh
Thiểm Tây. Cuối đời nhà Tần, Từ Hạo tỵ nạn ở ẩn tại đó, hiệu là Thương Sơn Từ
Hạo. Núi này rừng sâu vực thẳm, hình thế u thắng.
5.
Kiệm
bạc : ít ỏi, nhỏ mọn.
Ý nói tuy vui cảnh núi non đẹp đẽ, nhưng sống trong cảnh thanh bần.
6.
Đồng
quận : Hầu này cùng tôi
đều là người phủ Thượng Hồng (lời chú của tác giả Lãn Ông).
7.
Điều
thang : biến chế, gia
giảm các vị thuốc để pha lẫn thành thang.
8.
Đông
kiều : ở nhờ nơi phía
đông.
9.
Trạch
Ưu : tên riêng chỉ
thứ quân ưu binh được kén làm quan túc vệ canh giữ đền vua, phủ chúa : thứ quân
này lấy ở ba phủ đất Thanh Hóa và bốn phủ đất Nghệ An.
10.
Khổ
minh bất tu phanh : trà đắng chẳng
nên nấu (phanh : nấu) - Trong quốc âm không gieo được vần phanh để diễn dịch
cho đúng nghĩa câu. Ở đây gieo đúng vần thì sai nghĩa.
11.
Hương
bồi : bồi tiếp chầu
chực chốn thơm tho, ý nói được gần gủi người có đức thơm, có phẩm cách quý.
12.
Liễu
tặng : bẻ cành liễu mà
tặng nhau trước khi từ biệt. Nguyên ở phía đông thành Trường Yên có cái cầu tên
gọi Bái kiều. Người Hán đưa tiễn khách ở cái cầu ấy thì bẻ cành dương liễu mà
tặng nhau.
Chữa Bệnh Tại Kinh Thành
Một ngày kia, có hai người mang nhiều binh lính
đi theo, đến hỏi tôi. Một người là trợ giáo ở Quốc Từ Giám, một người là quan
tri phủ cũ huyện Tiên Hưng. Hai ông nói rằng :"Thừa lệnh quan Tham tụng Tả
binh, chúng tôi đến mời quý sư". Tôi đón vào, mọi người cùng ngồi. Hai ông
nói :"Quan lớn chúng tôi mắc trọng bệnh, đã hơn tháng nay dùng thuốc khắp
nơi mà không khỏe. Nay bệnh nguy kịch lắm, xin quý sư niệm tình niên hữu (viên
quan này cùng với quan Trấn Lạng Sơn có tình bạn cùng thi đỗ một năm) chẳng
tiếc gì mà đến một phen". Tôi đáp :"Đại quan cùng với anh tôi có tình
nghĩa đồng
khoa, tôi đâu dám biếng
nhác". Tôi mặc áo lên cáng ra đi, đến nhà ngoài thì quan Tham nghị Hải
Dương bước ra đón vào nhà trong cùng ngồi, kể cho nguồn gốc bệnh. Giây lát
xong, ông mời tôi vào phòng coi bệnh. Người ốm nằm trên võng, đưọc nâng dậy đặt
xuống giường, đợi chẩn bệnh. Tôi thấy mạch bên tả ba bộ thật yếu ớt, mạch bên
hữu như không còn, nhưng ba bộ còn vuợng. Chỉ biết đè nhẹ xuống thì mạch tản
mác, đè hơn nữa thì không còn thấy gì. Đến sát gần người ốm thì thấy khí nóng
bốc ra, sờ vào nguời thì thấy âm ấm, chân lạnh, hơi ợ ra. Hỏi thì đáp rằng như
ngồi trong đám khói dầy đặc, mắt cay lắm, phải nhắm lại; trong ngực nghe nóng
lắm và ợ hơi ra; đại tiện táo kết, tiểu tiện đỏ và rít, không nuốt đồ ăn đuợc.
Bệnh nhân nói rằng :"Tôi với bác có tình nghĩa niên gia. Mệnh này chỉ còn trong sớm tối". Tôi từ tạ nói rằng
:"Đây cũng là bệnh thường, quyết không có gì phải lo, xin yên tâm đừng lo
nghĩ. Trong tuần
nhật bệnh sẽ thuyên
giảm". Ông ta nghe nói vậy thì mừng lắm. Tô i kiếu từ xin ra ngoài.
Quan Tham nghị hỏi nhỏ
tôi chứng bệnh ra sao. Tôi nói :"Cái chân âm ở bên trong đã kiệt, dương
không tựa vào đâu mà muốn thoát thế đến nơi rồi". Tôi hỏi trước kia chữa
bệnh ra sao. Quan Tham nghị đem quyển ký bạ cho tôi coi. Tôi xem xét thấy các
vị thuốc đều là thanh hỏa hóa đàm, trừ thấp. Viên quan ấy tuổi cao, hầu thiếp
đầy rẫy trước mặt, người già thì chân âm đã hao, lại luyến ái sắc đẹp để cái
tinh khí sút giảm, cho nên âm phải kiệt. Thuốc chữa đã không biết bồi bổ, trái
lại còn làm tiêu bại đi, chẳng nguy sao được. Tôi nghĩ mạch còn hòa hoãn, thế
là cái vị khí chưa tuyệt, nhưng con bệnh đã bị thuốc làm tổn hại, chứ riêng
bệnh cũng không đến nỗi thế. Tôi cố gắng sức thì mới nên việc được. Tôi nói
rằng :"Cơ nguy đã đến, chưa dám đoan chắc, xin bốc một thang, khó dễ sẽ
phân định ngay. Tôi có điều tâm sự không biết đại quan có ưng cho không, sau đó
mới dám bốc thuốc". Vị hầu ấy đáp rằng :"Lão sư có việc bảo cho biết,
lẽ nào chẳng nghe theo". Tôi nói :"Tôi vì già yếu không thể vào chầu,
nhiều lần làm tờ khải xin kiếu từ mới được tại ngoại mà phụng thị thuốc thang.
Những quý quan các nhà có việc tìm đến thì tôi lấy cớ già yếu mà chối từ. Còn
quan lớn đây thì có tình nghĩa niên nghị với anh tôi, tôi chẳng dám trái lời.
Chỉ vì Thánh Thượng không ngày nào là không sai quan đến vấn an ngài, nếu như
có hỏi về việc dùng thuốc, xin nói trá ra người khác mà giấu danh tính
cho". Quan Tham nghị vào nhà trong cáo trình. Đại quan sai ông trợ giáo
đến trả lời rằng :"Chỉ mong lão sư hết lòng điều trị, tôi đã điều đình,
bất tất e ngại". Tôi mới chế một tang thuốc tư âm thật lớn, dùng
thục địa, ban long, tất cả đến vài ba lạng, bảo đun lửa to rồi đem dùng. Tôi từ
biệt về nhà.
Ngày hôm sau, trời còn
thật sớm đã thấy ông trợ giáo, mặt mày hớn hở, nói rằng :"Thật là thần
dược ! Uống một nước thuốc thì mát như đã uống hai ba nước, các chứng bệnh mười
phần đã giảm đi ba bốn, cả nhà đều hết sức mừng rỡ. Quan tôi sai tôi đến xin
thuốc". Tôi cứ đơn thuốc nọ thêm nhân sâm mà chế thang bội lên. Ngày hôm
sau lại cho mời tôi đến. Tôi bắt mạch, hỏi bệnh nhân thì mười phần đỡ đau bảy,
tám. Trong lúc ăn uống viên quan ấy cung phụng không thiếu thứ gì, tận tình
xiết kể. Ông cầm tay nói rằng :"Giận rằng tôi vô duyên, bị bọn thầy thuốc
bất tài làm cho khốn đốn, suýt nữa toi mạng. Giận rằng bác Lạng Sơn từng đến
vấn an tôi, lại không cho biết lại có bác ở đây". Tôi nói :"Xin đại
quan đừng trách, anh em với nhau càng khó nói". Viên quan nói rằng
:"Cất nhắc cha hiền, con không hiềm nghi, huống hồ là anh em". Tôi
nói :"Chỉ vì tị hiềm mà thôi". Mọi người đều cả cười. Tôi xin phép ra
ngoài biên đơn thuốc. Tôi thấy hư hỏa còn mạnh, nên tiếp tục dùng thang thuốc
bổ hỏa, dẫn hỏa và thuốc vị khí. Viên quan đưa tặng vật thật nhiều. Tôi từ tạ
rồi ra về. Từ ngày đó, vật
thực thời nghi đưa đến làm quà tặng luôn luôn, chẳng cần nói đến.
Mới được hơn một tuần,
bệnh lại tái phát, lại vội vã cho người đến mời tôi. Tôi nghe vậy chẳng đoán
được việc gì mới dò hỏi. Người đến mời nói rằng :"Đích thị là ngộ phòng". Tôi đến
bảo vị quan rằng :"Phàm bệnh nặng dai dẳng thì khí huyết hư nhược, bất cẩn
một chút thì bệnh khó mà chữa được; đại quan thân trọng vạn kim, xin nên vạn lự". - Vị quan
ấy đáp rằn g :"Từ nay một lòng nghe theo lời dạy, chẳng dám cưỡng
lại". - Tôi lại nghiên cứu cho thuốc điều bổ rồi cáo lui. Tôi trở lại nhà
thì có một người bảo tôi rằng :"Ông quan ấy, cụ dẫu có gắng sức điều trị
cũng chẳng được. Nếu bệnh có chữa được tạm yên thì trong thời gian bốn, năm
ngày tất có vài ba bận âm
cữu. Ai cũng nói như vậy". Tôi cho là vị quan ấy cầm quyền bính trong
tay thì những việc ân oán hẳn là có, nhưng không hay biết là những lầm lỗi đã
thành thói quen vậy, nên tôi chỉ mỉm cười thôi. Rồi nửa tháng sau, bệnh tái
phát như trước, cho người đến mời tôi. Tôi hỏi chuyện kỹ lưỡ ng thì được trả
lời vì ăn cơm nếp mà ra vậy. Ông trợ giáo nói riêng với tôi rằng :"Vị tất
lại ăn cơm nếp mà bệnh tái phát, nếu có như vậy đã chẳng vội vã cầu đến lão sư
làm gì, chỉ vì nghe nói bên đông có thầy thuốc thần diệu là thử dù ng một lần,
hoặc nghe nói đằng tây có thầy thuốc giỏi lại dùng một thang, trong một ngày
một đêm đã thay đổi đến bốn, năm thầy, ý chừng bị ngộ thuốc, xin lão sư để tâm
điều trị". Được vài ba ngày, bệnh tuy thuyên giảm một vài phần, lại thấy
đi ỉa chảy. Sợ rằng không cầm giữ được, tôi vội cho thuốc vị khí mới yên, rồi
lại biến ra chứng táo bón, tôi lại dùng thang tư âm để cho thông hoạt, tạm được
hòa dịu. Tôi ra về. Năm, sáu ngày qua đi mà không thấy người đến hỏi thuốc. Tôi
hỏi chuyện thì người ở cạnh tôi nói rằng :"Vâng chịu ngự y lo việc chữa
bệnh đã vài ba ngày rồi mà không công hiệu, nay mời chư y họp lại để cùng chạy
chữa". Tôi nghĩ đi nghĩ lại, than rằng :"Vị quan này đem thân ra thử
thuốc; thầy thuốc lập dị tranh công, tính mạng hẳn chẳng còn nữa ! Có điều bất
cẩn là việc của con người lại cho là mệnh trời không cải được ư ?" - Ngày
hôm sau ông trợ giáo đến tìm tôi, tôi thấy con quan Tham nghị cũng đến mời nữa
và còn tạ lỗi. Nghe các ông ấy tìm mọi lẽ kêu nài thảm thiết, tôi nghĩ thầm
:"Nếu ngày hôm nay bệnh bớt, ngày mai sẽ lại thay tay khác. Vả lại vị khí
đã bại, cái thế thực khó mà duy trì được". Tôi không chịu đi nữa. Họ khẩn
cầu, tôi mới chế cho một thang cửu dương. Vài ba ngày
sau, quả nghe nói vị quan kia đau không trở dậy được. Tôi than thở không thôi.
Nhân tập cổ thi làm thành một bài đoản luật để ghi lại sự việc
Khanh tướng thôi
đành không thuốc chữa
Lòng này thực có quỷ thần hay Thế gian chỉ có danh thơm quý Phú quý mây bay giả dối thay |
Lại như quan án trấn
Thái Nguyên (tên Hầu Tạo Tịnh) bị bệnh ung nhọt, không ngồi dậy được. Máu đã
kiệt, chẳng làm mủ nữa, mà thầy thuốc còn cố trừ khử. Cái thoát thế đã sẵn
sàng. Tôi cho uống thuốc bổ thật mạnh, tinh huyết bấy giờ mới hồi sinh. Lại
trước đấy, bụng thì lạnh, ngực cách bị đầy nghẹt, đầu nóng như lửa bốc, mắt đỏ,
tai ù, gân cốt run rẩy. Hỏi ra thì vì sợ nóng bốc lên, nên chẳng dám dùng quế
phụ. Tôi đem thuốc thủy hỏa kèm thêm các thứ liễm nạp mà cho uống. Sau vài ba
năm ốm đau dai dẳng, chỉ một tháng chữa trị là thành công.
Lại còn em vợ quan Trung
Hãn cũng bị đau, toàn thân giá lạnh, sợ gió, chân bị tê liệt, tai điếc, thêm
cái bệnh táo bón, cứ hay uống nước. Hỏi ra thì sợ ngực trướng, một ly thục địa
chẳng dám dùng. Tôi cho dùng bát vị gia giảm thêm mấy vị bổ âm cho lá lách, vài
ba tháng sau là chữa khỏi cái cố tật từng mang mười năm kia.
Rồi lại bà vợ quan huyện
Cẩm Giang đau chứng hỏa hư, mỗi lần phát bệnh thì ngực tức, mặt đỏ, nước dãi
trào ra, đàm xuyễn, chân lạnh, tai ù, hơi ngắn như muốn đứt, nói không ra
tiếng, như thế trong một ngày hay nửa ngày mới tỉnh. Thầy thuốc cho là bệnh thấp
đàm hoặc phong hỏa, chữa trị đã hai năm rồi mà bệnh càng tăng. Tôi dùng bát vị
cho thêm thuốc giáng hỏa mà chữa, chỉ hết bốn, năm tễ là yên. Còn nhiều trường
hợp khác nữa, chẳng kể xiết.
Hồi tôi ở trong núi cứ
tưởng rằng ở đế đô có các danh y, học thuật giỏi giang, tinh diệu nhập thần. Tôi
thường than l à mình vô duyên nên không được cùng nhau gặp gỡ. Khi đến kinh thì
thấy thầy thuốc trị bệnh không nói là phong hỏa thì cũng bảo là bệnh thấp đàm.
Nếu cho là bệnh hư mà chịu dùng thuốc bổ thì chỉ phô diễn khí huyết mà
thôi. Còn như chân thủy, chân hỏa là cái gốc để giữ cái mệnh, cái cốt yếu để
cầu sống thì tuyệt nhiên không một chút nào coi làm trọng. Sao cái nghề thuốc
lại khó đến như vậy ! Nhớ xưa Tiên Chính có nói :"Người nước ta học nghề y
mà không tinh là vì mắc phải hai cái bệnh : một là người trong đám nho học đọc
sách thuốc từ đầu đến cuối, một lượt là xong, tuyệt nhiên không nghi ngờ nghĩa
sách, tự cho là không có gì khó, dến khi dùng thuốc thì lại hấp tấp bất cẩn;
hai là văn lý tự
hoạch chỉ mới được nửa thôi, nếu có tập nghề thuốc thì cũng không khỏi
tưởng tượng mơ hồ, nghi hoặc, như thể kẻ kéo cây cung, sức chẳng đủ thì cho là
cung cứng". Thật là lời nói đích đáng vậy. Than ôi ! Kẻ bất túc là kẻ có
bệnh sẵn, kẻ có dư cũng là kẻ có bệnh. Há chẳng phải là khó ru ? - Nhân đây tôi
ngâm mấy câu rằng :
Từ xưa dùng thuốc tựa dùng binh
Sinh sát ai người dám rẻ khinh Đầu sỏ nghề y còn yếu kém Quê mùa ta thẹn lý chưa minh |
1.
Đồng
khoa : cùng thi đỗ một
khoa, một năm.
2.
Niên
gia : Trong thời đại
khoa cử, hai người cùng thi đỗ một năm thì gọi là niên gia.
3.
Tuần
nhật : thời gian mười
ngày.
4.
Phụng
thị : vâng mệnh mà hầu
hạ.
5.
Tư
âm : vun nhuần khí
âm.
6.
Vật
thực thời nghi : những thực phẩm
thời nào thức ấy.
7.
Ngộ
phòng : thứ bệnh do sự
giao cấu mà sinh ra, cũng nói là phạm phòng.
8.
Vạn
lự : lo lắng vạn
điều, ý nói phải lo gìn giữ mọi điều.
9.
Âm
cữu : cái lỗi về việc
gần đàn bà (âm là giống cái, cữu là tội lỗi).
10.
Cửu
dương : bổ cứu chân
dương.
11.
Khanh
tướng : nói chung về các
quan có chức vụ cao cả trong triều. Quan khanh giúp vua trong các việc lớn,
quna tướng chủ trương việc chính trị trong nước, tì dụ tể tướng, tướng quốc,
tướng công.
12.
Tinh
diệu nhập thần : cái tinh vi màu
nhiệm đã thấu đáo đến cùng, như đã nhập vào thần trí mình.
13.
Phô
diễn khí huyết : ý nói chỉ bổ khí
huyết để bày tỏ cái hiệu nghiệm của thuốc bổ mà không biết điều gì khác.
14.
Văn
lý tự hoạch : ý nghĩa câu văn
và các nét của mỗi chữ sách.
Viếng Chùa Trấn Quốc
Một ngày kia, trời sắp tối, thấy tân khoa Vũ tạo sĩ (người Hà Hoàng, họ Vũ) đến chỗ tôi ngụ. Nguyên phụ thân ông
ta là Hiến Phó cùng đến kinh với tôi. Vũ tạo sĩ thường lui tới với tính cách nghĩa điệt. Tôi hỏi rằng :"Quý hầu đến có việc gì lúc trời tối này
?" - Đáp rằng :"Quốc sư Tào quận công bị bệnh kiết lỵ, sai đến
mời". Tôi toan hỏi chuyện ông ta thì lại thấy bà vợ quan phủ Duy Tiêncũ là người cố hương, và cũng là người ngoại tộc của tôi đến đón tôi đi. Bà nói :"Phu nhân quốc sư
thượng thư họ Nguyễn bị bệnh đã lâu, sai tôi đến mời". Tôi cười bảo hai
người rằng :" Ngôi có tôn ti mà lễ có cấp bậc. Các quan đều là đại thần
trong nước hiện nay, một lúc cùng cho vời tôi, chẳng biết phải đến nơi nào
trước, nơi nào sau, xin quý hầu, quý bà xử định". Tôi cùng hai người ấy
luận bàn thì hai người ai cũng vì tình chủ nhân mà kêu nài. Tôi nói
:"Không phải thế! Người thầy thuốc lấy điều hoãn cấp làm trước sau. Nay thấy Tào quận công bệnh thế trầm trọng,
lẽ tất nhiên l à việc cấp. Phu nhân Văn quốc sư bị đau liên miên đã lâu, có cơ
hoãn. Tôi xin ngày mai trước hết đến với Tào quận công, ngày hôm sau sẽ đến
thăm Văn
quốc sư". Tôi bảo bà vợ
tri phủ rằng :"Quý bà nê n về bẩm lại như vậy, chẳng phải tôi dám lơ là
biếng nhác". Bà ta nói :"Nếu vậy thì ngày kế tiếp sẽ sai người đến
đón". Bà cáo biệt, đi khỏi. Tôi nói với ông Tạo sĩ rằng :"Dinh quan
Quốc sư cách đây rất xa, ban ngày nóng bức, lúc gà gáy sáng nên dậy khởi
hành". Đêm hôm ấy tôi dặn năm tên người nhà đến đón. Vừa nói xong đã thấy
năm người lính khỏe mạnh đeo quân phù đi đêm đến đợi. Tô i lên thuyền đến Trấn Vũ thì noi theo bờ trái Tây Hồ mà đi, gần đến ngọ thì tới nơi.
Kẻ hầu vào bẩm, rồi mời tôi vào phòng ngủ. Tôi bắt mạch, biết Quốc sư bị đau vì
ăn phải đồ lạnh. Tôi mới biện
chứng và viết đơn thuốc.
Quốc sư coi xong than rằng :"Lão sư nói lên bệnh tình thật là mảy may
không sai, đơn thuốc rất thích đáng (vị quan này cũng học tập nghề
thuốc)". Nhân đây ông khen quan Điển quận có trí sáng suốt biết người,
thật chẳng phụ cái công tiến cử vậy, khen tôi thông hiểu y lý, một sớm được cửu
trùng biết đến, cũng chẳng phụ cái công học tập của mình. Tôi chẳng dám nhận là
đúng. Ông sai con là quan Kiệu
hữumời tôi vào nhà riêng hậu
đãi và bằng lòng để tôi ra về. Lúc tôi xin vào chào biệt thì ông cho chước
miễn. Em ruột quan Quốc sư là Bàn Quận công lại đón mời tôi hỏi thăm bệnh tình
nguời ốm. Tôi nói :"Mạch không có vị khí, cái thế không còn xa nữa".
Ông nghe nói vậy thì chỉ thở dài.
Hãy nói khi tôi đến nơi
này thì thấy ở cửa dinh mấy chiếc quan thuyền buộc ở
góc Tây Hồ. Tôi mới nói với Bàn Quận công rằng :"Ngày hôm nay nắng lắm,
nếu theo đường bộ trở về thì rất mệt nhọc , xin cho một chiếc quan thuyền để
dùng cho tiện". Ông ra lệnh cho sáu người thủy thủ sẵn sàng chèo thuyền để tiễn hồi. Tôi được lệnh
ra khỏi dinh lên thuyền mà về. Một lúc sau thuyền đến giữa hồ, lướt qua mặt một
hòn núi đá. Màu trời sắc nước long lanh trên mặt hồ, có đám le đàn bay nhảy nơi
góc bến. Cạnh đê tại mấy nơi Ly cung, thụ sắc âm u hoặc ẩn hoặc hiện; trong
vùng là một dãy lâu đài, hoa cỏ tốt tươi phô lục khoe hồng. Gác chuông chùa nọ,
tiếng vang như giục mặt trời lặn; thuyền đánh cá kia, câu hát dường tiễn bóng
chiều tà. Tôi ở trong thuyền, khoái ý khôn xiết kể, bỗng thấy ở đằng xa một nơi điện các nguy nga,
tùng bách rợp đất; chèo thuyền thẳng tới mới biết đó là chùa Trấn Quốc. Tôi sai chèo
vào. Tôi bước lên bờ, ngồi trên ghế đá một mình, cạnh một cổ thụ. Tôi đưa mắt
coi đây đó một cách nhàn nhã, bỗng thấy thổn thức trong lòng, hai hàng giọt lệ
từ từ tuôn rơi. Bọn người nhà tôi kinh ngạc hỏi duyên cớ. Tôi nói :"Thuở
thiếu thời tại Kinh, tôi cùng với mấy người bạn kết làm thi xã, có ước với nhau
là cứ về mùa xuân và mùa thu thì cùng đến Hồ Tây tìm thú vui. Mỗi khi đến lại
chuẩn bị rượu uống và đồ nhắm, thuê ba, bốn chiếc thuyền đánh cá ra giữa hồ mà
du ngoạn, tiếng sáo tiếng ca vang dội tứ phía. Đêm khuya anh em vào chùa Trấn
Vũ ngủ lại, có khi năm ba ngày mới ra về. Đau lòng thay ! Khách và bạn nay
chẳng còn thấy ai nữa, cho nên ngày hôm nay thấy cảnh động lòng. Như về phía
tây mấy gốc cây già, bên nước hồ một dải rùng trúc, trước mặt là nước hồ, sau
lưng là gác chuông, tất cả còn như xưa. Nay trông thấy vật lại tưởng nhớ người;
nếu ruột gan là sắt đá cũng phải mềm đi vậy". Tôi gạt nước mắt, xuống
thuyền để về nhà. Nhưng trong dạ trăm mối u sầu vương vấn, không tự cầm được,
tôi mới ngâm một bài thơ để tả nỗi lòng :
Ba mươi năm cách biệt Hồ Tây
Cưỡi sóng đè thuyền trở lại đây Bờ nọ lâu đài trên núi dựng Người đâu cười nói dưới hồ này Chuông rền Trấn Vũ vang lùm cỏ Bóng ngả Ly cung hẩng sắc cây Phong cảnh vẫn là phong cảnh cũ Người xưa nào thấy buổi hôm nay |
Khi đi đến quán Trấn Vũ
thì lên bộ mà về. Sáng sớm hôm sau, thấy người của Văn Quốc sư đến mời đi. Tôi
bảo người ấy đi trước, rồi bước theo sau. Tôi đến nơi kia, thấy cái dinh xưa
của cha tôi và chú tôi thì tâm tình buồn bã, xuống cáng ngó trông. Hồ núi như
xưa, nhưng cỏ hoa thuở trước nay đã thuộc về người khác. Tôi mới ngâm câu tứ
tuyệt hoài cổ như sau :
Phú quý đều là ảo
Công danh mới thực chân Trăm năm lưu tính tự Miệng thế để bia văn |
Lại đi một cung đường
nữa thì đến dinh quan Quốc sư. Người đi hầu vào bẩm. Người con quan Quốc sư là
quan Thiêm binh bước ra nghênh tiếp, đưa tôi vào tư thất, rồi lại mời tôi vào
phòng phu nhân nằm để bắt mạch. Coi bệnh xong, tôi đi ra ngoài, thăm quan Quốc
sư. Tôi biện luận về gốc bệnh, trình lên ngài xét, nhất nhất đều được như ý
ngài. Tôi được quà tặng rất hậu hĩ trước khi ra về.
Một ngày kia, quan trấn An Quảng đến chỗ
tôi ngụ, mời tôi về làng thăm bệnh cho mẹ. Nguyên vị quan này cùng tôi có tình
nghìa đậm đà với nhau. Ông có cố bệnh, chẳng thể tới Kinh, đã nhiều lần mời đón
tôi. Nhân vì vợ người cháu tôi ở Kinh bị bệnh hộ sản nguy kịch, tôi phải dốc
lực chữa trị, tôi đã thưa thực cả với ông, cái đó chẳng nói làm gì. Đến đây
bệnh tạm bớt, tôi mới giao cho người học trò của tôi coi sóc thuốc thang, rồi
báo cho tôi biết bệnh tình. Vị quan biết được như vậy thì mừng rỡ vì trông cậy
được vào tôi, ông vội đến trú sở của tôi để mời tôi. Tôi nói :"Đã đành
rằng đi thì đi, nhưng còn có việc khác nữa, không biết có đi được không
?". Ông ta kinh ngạc, hỏi có việc gì. Tôi đáp :"Tôi đến kinh thành đã
năm tháng nay, đường về làng cũ cũng chỉ
mất nửa ngày thôi mà không được đi, huống chi lần này vừa đi vừa về cũng phải
mất đến bốn, năm ngày !". Ông t anói là sẽ đến dinh quan Chính Đường, nói
thác là có việc gấp, khẩn khoản xin thương tình, xem có được không. Rồi ông ta
cáo biệt mà ra đi. Một hồi lâu, tôi thấy ông quay trở lại, sắc mặt vui mừng,
bảo với tôi rằng :"Việc xong rồi, đại quan có hứa sẽ vãng phản trong bốn
ngày". Vì thế tôi vội vã thu xếp hành trang. Tôi đã khiến người em họ đem
lính bản dinh đi theo, chờ tại ngoài cửa. Tôi lại sai gia nhân và học trò giữ
nhà. Tôi cáo biệt vị quan này ra đi, qua đò sông Nhị Hà. Khi đến bến sông Bát Tràng thì trời
tối đen, rất khó đi. Tôi thấy binh lính mệt nhọc, mới đi ngủ. Sớm hôm sau lại
khởi hành, vào khoảng giờ Ngọ thì đến Nha Thôn. Tôi trông ra xa, bỗng nghĩ xứ
này coi sao như quen thuộc. Tôi cho bọn hành nhân nghỉ ngơi, rồi chống gậy đi
du lãm quanh bốn phía, thấy trong thôn dân có cái chòi xanh giống như xưa.
Trước chòi là khoảnh đất cao, nơi đây xưa có đại quân đóng đồn. Đi qua cái núi
đá cao, chỗ cái cầu nhỏ bắc qua khe thì có một con đường tiếp giáp một bên cầu
m à tẽ ngang. Đó là dấu vết đổ nát của một cái lũy thuở trước. Tôi lại còn hỏi
các bô lão thì đều nói như thế. Nguyên thuở xưa, giặc Bắc cuồng bạo, người bạn
thân của tôi phụng mệnh đi đôn đốc việc binh, đóng quân tại đó. Đêm đến giặc
kéo đến bổ vây. Giặc thì đông đảo quá mà quân ta vừa ít, vừa yếu. Nhưng giặc từ
xa đến, thế chưa ổn định. Vả lại cái thế lao dật đã rõ,
phải đánh gấp; nếu chậm trễ thì tình hình bên nhiều bên ít phơi bày ra, quân
mình ắt rối loạn mà không địch nổi. Bên ta mới chia quân noi bốn đường thừa lúc
đêm tối xung kích. Hai quân hỗn chiến, đều tử thương rất nhiều. Nhớ nơi xưa đây
chỉ là đồng ruộng mà nay thì chùa miếu xây cất huy hoàng. Trong làng, gà gáy
chó cắn, bốn bề nông phu ca hát. Sao mà phục hồi chóng vậy ! Lại nhớ xưa quê
hương tôi đã trải hơn hai mươi năm binh lửa, vật tán nhân ly, thế mà ngày nay
trù mật hơn xưa. Than ôi ! Chỉ có một mình tôi đây là lòng phấp phỏng không
vui, khôn tự cầm giữ, mới ngâm một bài thơ tả khúc nhôi rằng :
Ngày hôm ấy đi gấp, canh
tư đến dinh quan trấn Hàm Giang.
Tôi ngừng ở ven bên ngoài nghỉ ngơi. Ngày hôm sau tôi vào dinh coi bệnh. Vì
giao tình sâu đậm, nên khi cáo biệt (Phu nhân là vợ quan trấn Hưng Hóa). Phu
nhân khước từ chẳng nhận, còn muốn giữ tôi ở lại. Tôi nói :"Chuyến đi này
có hạn ngày, chẳng dám lưu lại". Phu nhân hậu tặng tôi. Tôi từ biệt ra đi.
Xảy gặp em họ quan trấn Hưng Hóa.
Ông này trước kia với tôi giao tình thân thiết, dắt tôi về nhà, một mực không
cho ra đi. Tôi ngủ lại một đêm, cùng nhau kể lể tình xưa, đến sáng hôm sau tôi
từ giã mà về kinh. Tôi bảo bọn người đi theo rằng :"Trước đây tôi phải đi
gấp là sợ có lệnh triệu, ngày nay trên đường về, tôi cho phép nghỉ ngơi".
Họ được lệnh rất vui mừng, thủng thẳng mà tiến bước. Phải mất hơn hai ngày mới
trở về nhà trọ. Quan An Quảng nghe biết sự việc. Tôi nói :"Tôn phu nhân
mạch hòa bình, điều trị chẳng khó, quân hầu chẳng nên lo sợ điều gì". Ông
ta mừng rỡ khôn xiết, nói rằng :"Cả nhà tôi trông cậy bác. Mẹ tôi sớm được
yên lành thì dẫu có ngàn vàng đền đáp cũng chưa xứng. Tôi sẽ cố gắng báo cái ơn tri ngộ này". Hai người cười nói một lúc rồi cùng nhau cáo biệt
(khi này quan trấn An Quảng có việc công về kinh đã mấy tháng rồi, nay mới về
trấn).
1.
Tạo
sĩ : người đỗ khoa
thi võ.
2.
Nghĩa
điệt : cháu nuôi đối
với chú.
3.
Duy
Tiên : một huyện thuộc
tỉnh Hà Nam.
4.
Ngoại
tộc : họ mẹ.
5.
Hoãn
cấp : thư thả và vội
vã.
6.
Văn
Quốc Sư : Thời loạn Kiêu
Binh có Quốc sư Nguyễn Hoãn. Ông quán làng Lan Khê, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh
Hoá. Đỗ tiến sĩ khoa Quý Hợi (1743); làm Thái phó, tước Viên quận công. Ông có
trông coi việc làm quốc sử.
7.
Trấn
Vũ : Tên đền thờ đức
thánh Huyền Vũ, ở phía bắc thành Thăng Long và trông ra Tây Hồ.
8.
Biện
chứng : biện luận và
phân tích chứng bệnh.
9.
Kiệu
hữu : quân Kiệu thuộc
cánh hũu. Kiệu và Nhương là tên hai cơ binh trong hàng ngũ Kiêu binh, tức là
quân Tam phủ.
10.
Quan
thuyền : thuyền thuộc
công quyền.
11.
Tiễn
hồi : đưa trở về.
12.
Điện
các : đền thờ thánh có
nhà lầu.
13.
Chùa
Trấn Quốc : nguyên chùa tên
gọi Trấn Bắc, thuộc phường Yên Phụ, huyện Vĩnh Thuận, được dựng lên từ đời
Trần. Đến đời Hậu Lê, niên hiệu Vĩnh Tộ (1628) đời Lê Thần Tông, chùa được tu
sửa lại, đổi tên là Trấn Quốc. Năm 1639, chúa Trịnh Tráng trùng tu lại chùa và
đổi tên lại là Trấn Bắc.
14.
Ly
cung : tên một cái cung
của của nhà vua.
15.
An
Quảng : vùng đất Quảng
Yên, thuộc miền trung du Bắc Phần.
16.
Làng
cũ : làng Liêu Xá,
tỉnh Hải Dương, quê cũ cùa Lãn Ông.
17.
Bát
Tràng : tên làng thuộc
tỉnh Bắc Ninh, gần Hà Nội.
18.
Lao
dật : mệt mỏi và nhàn
hạ. Ý nói đem quân nhàn hạ đánh quân mệt mỏi, theo câu chữ Hán thường nói là dĩ
dật đãi lao.
19.
Hồng
Châu : tên đất thuộc
tỉnh Hài Dương.
20.
Kim
Đôi : địa danh.
21.
Hàm
Giang : tên trấn thuộc
tỉnh Hải Dương, quê quận công Đinh Văn Tả và cháu xa đời của ông là Đinh Nhạ
Hành.
22.
Hưng
Hóa : một khu vực
thuộc tỉnh Phú Thọ, ở hữu ngạn Đà Giang. Năm 1930, Nguyễn Khắc Nhu tục gọi Sử
Nhu, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, đánh Pháp ở đồn Hưng Hóa, tức là nơi
đây.
23.
Tri
ngộ : biết mình mà hậu
đãi mình.
Tái Ngộ Cố Nhân
Một ngày kia, hai lão ni đến chỗ tôi ngụ nói rằng :"Chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công
quả chưa thành, chúng
tôi đến đâykhuyến
hóa". Một ni nói
:"Tôi trú trì ở chùa núi
An Tử". Một ni kia nói
:"Tôi là con gái của quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam, quê ở Huê Cầu". Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ,
mời họ vào nhà ngoài, hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành, mới biết đích
đây là "tiểu
nhân" của tôi vậy. Tôi
nghĩ thầm : "Người này mà không biết mình mà lại đây, thật là một việc lạ.
Mình nên nói tính danh ra để xem để xem ý tứ nào khắc hiểu rõ". Tôi nói
:"Tôi là người xã Liêu Xá, lánh nạn di cư đến Hoan Châu, ở Hương Sơn là
quê mẹ, chẳng dè phải triệu về kinh. Nhà trọ tiêu điều, tuy có hằng tâm nhưng
biết làm sao được". Khi ấy chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu, mặt đỏ bừng, vẻ
thẹn thùng, bảo ni cô chùa An Tử rằng :"Chúng ta nên đi đi thôi !".
Tôi lưu họ lại không được, mới mang ra một số hương tiền để cúng nhà chùa. Tôi
hỏi :"Hai lão ni trọ tại nơi nào ?". Họ đáp rằng :"Chưa có nơi
nào", rồi từ biệt đi khỏi.
Tôi vội gọi một tên
người nhà linh lợi bảo đi sau họ, lại dặn không được để họ biết. Khi dến chỗ
trú ngụ của họ thì hỏi dò xem họ đến đây từ bao lâu rồi, còn lưu trú bao nhiêu
ngày nữa. Tên người nhà được lệnh ra đi, ước hơn hai giờ sau thì trở về. Y nói
:"Hai ni cô trú tại chùa Liên Tông, mới đến đây được vài ba ngày, còn ở
kinh nhiều ngày nữa để khuyến hóa". Ngày hôm sau, tôi gọi học trò tôi tên
Tài đến mà bảo rằng :"Ta có một việc khá đặc biệt, nhờ anh vì ta hết lòng
lo liệu". Anh ta nói :"Nếu đệ tử phải khó nhọc thì cũng là phận sự
của mình, đâu dám chối từ". Tôi nói :"Thuở nhỏ ta cầu thân với con
gái quan Tham Chính Thừa Ty Sơn Nam xưa ở xã Huê Cầu, đã nạp đủ lễ vấn danh và lễ nạp thái. Vì việc bị cản
trở, ta mới phải từ hôn, hồi cư Hương Sơn. Mãi sáu bảy năm sau ta về kinh, nghe
nói vị quan ấy đã từ trần. Còn người đàn bà làm ta chú ý hôm nay, ta có dò hỏi,
người ta nói rằng người đó rất kỳ quái. Nghe nói năm xưa có một công tử đến cầu
thân và đã nạp trọn sáu hôn lễ mà việc cũng không xong. Người con gái nói rằng
:- Đã có người hỏi mình làm vợ thì mình đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà
chồng bỏ, nay còn mặt mũi nào mà lấy chồng khác -. Cô ta thề chung thân ở vậy
thôi. Tôi nghe vậy thì tâm thần kinh loạn, than rằng : - Vì ta đã bất cẩn trong
vụ này, có thủy mà không có chung, khiến cho người mang hận mà ta có tội là
người bạc bẽo -. Ta bối rối không biết là m cách nào để gỡ cái mối ấy ra, mới
vội vã đến xã Huê Cầu dể tìm hiểu sự việc. Người làng, như trên đã nói, trong
số mười người thì bảy, tám người nói là ngày phụ thân cô ta tạ thế, người anh
ép gả bà cho một sinh
đồ trong làng để lấy tiền lo việc tang. Bà ta không thuận. Có kẻ nói
rằng nhà quan khi đã sa sút, kẻ cao sang không tìm đến, kẻ thấp hèn không dám
cầu xin, vì thế ở góa cho đến giờ. Ta nghe nói lòng cũng tạm yên, rồi trở về
Hoan Châu. Đến nay ta gặp lại người ấy, thấy cảnh cô khổ như vậy,
chẳng kể hữu tình hay vô tình, việc há chẳng có mầm mối ở ta sao ? Cái kế sách
ngày nay là bảo
dưỡng người ấy đến hết đời mới có thể chuộc cái lỗi trước. Ta còn ở
kinh đợi lệnh sai bảo thì việc chu cấp không khó gì, thảng hoặc trở về núi thì
giúp đỡ sao được, vì đường xá cách trở. Nếu bà ta thuận về nơi vắng vẻ; ở đó
anh ta đã sáng tạo một cái chùa nhỏ, có thể cung cấp đèn nhang, mùa đông cũng
như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để báo đáp cái cao tiết của bà
ta, mộ t nữa là để chuộc cái lỗi của ta. Cần hỏi kỹ để biết cái tình tiết ngày
trước, rồi trình bày dự định của mình một lượt để xem bà ấy có ưng thuận không,
dể rồi ta trù liệu công việc".
Tôi sai mua một ít thời vật đem tặng
làm tin. Người được giao phó công việc, y lời ra đi, đến chiều tối mới về. Y
nói :"Tôi đến chùa Liên Tông, thừa lúc vắng vẻ mà nói chuyện. Bà ấy cố cầm
giọt lệ, đáp rằng :- Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân
cô khổ cũng là do số mệnh vậy, có dám oán trách ai, một đời sống tàn sao đáng
tiếc. Có điều làm cho suy nghĩ là nhìn quanh không người thân thích, phần mộ
tiên nhân không người cúng tế quét tước, há chỉ lo thân mình mà đến quê người
độ sinh hay sao ? Ông hãy trở về trả lời với quan nhân là tôi tuy chưa được nhờ
ơn đức quan nhân, mà nay được biết tấm lòng tốt này cũng đủ an ủi cảnh linh lạc
vậy". Tôi lấy làm thương tình, mới dãi lòng trong một bài thơ như sau :
Việc đã hại người chẳng tính ra
Nhìn nhau buổi ấy xót lòng ta Một cười tình bạn mà rơi lệ Hai mắt xuân tàn mới ngó hoa Cuộc sống anh em lo giữ nghĩa Kiếp sau ao ước sống chung nhà Ta không phụ bạc dù ai phụ Nào biết làm sai nỗi ấy a ? |
Từ đó thói thường qua
lại hỏi thăm nhau. Bà ấy nói là ở Nghệ An có nhiều gỗ đóng quan tài, bà xin mua
cho bà một cỗ. Tôi sai người đi kiếm, nhưng chưa được. Ngày tôi được thả cho
về, tôi trao cho người lo việc ấy năm quan tiền cổ để tìm mua bán mà tặng bà ta.
Đó là thuộc về việc sau, không nói đến.
1.
Lão
ni : người đàn bà đi
tu đạo Phật, tuổi đã già.
2.
Huê
Cầu : tên làng thuộc
huyện Văn Giang, Bắc Ninh.
3.
Công
quả : hiệu quả của một
việc đã thành.
4.
An
Tử Sơn : tên quả núi ở
huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dư ơng. Tục truyền rằng An Kỳ Sơn xưa tu ở đấy, nên
gọi là An Tử. An Kỳ Sinh là một v ị tiên, người đời Chiến Quốc bên Tàu.
5.
Sơn
Nam : vùng tỉnh Nam
Định.
6.
Tiểu
nhân : tiếng dùng riêng
để chỉ người đàn bà mà đối với mình đã có quan hệ về tình cảm.
7.
Vấn
danh : một lễ trong
việc hôn nhân, hai bên trao đổi cho nhau tờ biên tên trai gái.
8.
Nạp
thái : lễ đưa đồ dẫn
cưới.
9.
Sinh
đồ : người thi đỗ
khoa thi hương xưa, nhưng vào bậc dưới.
10.
Cô
khổ : cô đơn và khổ
hạnh.
11.
Bảo
dưỡng : giữ gìn và nuôi
nấng.
12.
Cao
tiết : cái khí tiết cao
quý.
13.
Thời
vật : phẩm vật trong
mùa.
Thăm Làng Cũ
Một ngày kia, anh tôi cùng với những người trong
họ ở kinh thành bàn định muốn cải
táng phần một tổ, định
ngày và báo cho biết. Tôi đến dinh quan Chính Đường xin phép về quê. Vị quan
này cho rằng tôi xin cáo biệt là muốn về Hoan Châu chăng, cho nên mấy lần đến
mà vẫn chẳng cho vào giáp mặt. Tôi chán nản chẳng biết làm cách nào. Quận hầu
bảo tôi rằng :"Phải vào trong phủ mà yết kiến". Tôi vào phủ, đến trú
sở Hậu Mã ngồi đợi. Nửa ngày trôi qua mới thấy quan Chính Đường ở trong cung
cấm đi ra. Tôi đem việc ra nói; lúc mới đầu ông không ưng thuận. Tôi nói rằng
:"Tôi bỏ nhà ra đi, xa phần mộ đã hai mươi năm nay, nghèo túng không về
thăm được. Ngày nay vâng chiếu chỉ, may được về kinh đã quá nửa năm mà vẫn chưa
trở về thăm lấy một lần. Cái tình làm con như vậy, chịu đựng làm sao được. Xin
đại nhân thương cho". Lúc đó lời nói và sắc mặt của tôi đều tỏ ra cương
quyết. Quan Chính Đường nói rằng :"Hiện nay về thuốc thang cần luôn luôn
có cố vấn . Nếu có lệnh triệu thì sao ?". Tôi nói :"Từ nhà tôi tới
kinh, đường đi hết nửa ngày. Thảng hoặc có việc khẩn cấp thì đi về bất quá một
ngày có khó gì". Ông nói rằng :"Ông nên làm tờ khải xin một hạn dài
để hồi hương, nói rõ việc cải táng, xin nghỉ mười lăm ngày, sau sẽ trở lại
kinh, trông coi việc thuốc thang". Tôi xin một tháng; ông nói rằng
:"Nếu cần lo liệu xếp đặt việc nhà, thăm hỏi cố cựu thì bấy nhiêu cũng đủ
rồi". Tôi lại nài xin thêm, ông bằng lòng tăng thêm năm ngày nữa. Tôi biết
là cái thế chẳng cưỡng lại được, mới làm tờ khải đệ nạp, cảm ơn mà cáo biệt,
quay về nhà trọ, mừng khôn xiết. Tôi thu xếp hành trang, mượn vài ba người đi
theo, cắt năm người lính Tiền Dũng giữ nhà. Ngày mùng mười tháng chín, nhân đêm
trăng lên đường sớm. Khi đến cửa Ông
Mạc thì cửa thành chưa
mở, quân giữ cửa thấy có phù hiệu hành quân mới mờ cửa cho đi qua. Tôi tới đò Thanh Trì, trời mới bình minh. Tôi lên đường qua sông. Lúc này ở trong
thuyền, lòng tôi lâng lâng nhẹ. Tôi ngâm một bà i thơ để tả khúc nhôi rằng :
Ba chục năm lưu lạc đất người
Lại qua sông Nhị một thuyền bơi Nghìn dòng họp nước dâng trong cõi Tam đảo gần mây đứng giữa trời Cảm cũ hứng nay dường chẳng vợi Tình quê nỗi khách luống khôn nguôi Dịp may vâng chiếu vào kinh ấy Được gặp thân bằng thỏa nói cười ! |
Đến bến sông Bát Tràng,
bỏ thuyền lên bộ mà đi. Hai bên đường hương thôn trù thịnh, thần đình phật tự
đều lập ngói, điếm rượu phòng trà nối liền nhau. Mỗi lần đi được hơn một dặm
đường thì tôi dừng chân nghỉ ngơi. Người hầu mang gậy trúc đi theo. Tôi vui ngắm
phong cảnh, mỗi bước chân lại thấy cây liễu, cây bưởi. Khi sắp tới nhà ở Liêu
Xá, thì noi theo cái cầu ngói (trước thôn có cầu ngói bắc qua sông) mà đi vào
dinh cũ của cha tôi xưa để nghỉ ngơi. Lúc này người anh làm quan trấn Lạng Sơn
đã có dinh riêng biệt trong làng. Bà chị dâu trưởng, tức vợ quan Thống Nhất xưa, ở đó trông coi việc thờ phụng tổ
tiên, tuổi đã ngoài bảy mươi, tóc bạc như tơ, mà tinh thần còn sảng kiện. Bà
thấy tôi thì vừa đau khổ, vừa mừng rỡ, cầm nước mắt mà cất tiếng nói. Trong
cảnh lữ thứ này lòng tôi cũng xót xa.
Ngày hôm sau, tôi đi
ngoạn cảnh trong vườn, coi kỹ cái nền móng thuở xưa. Khi bước tới một gốc cây
lớn, tôi nhận ra phòng ngủ của cha tôi xưa ở đây. Ở giữa vườn cau là nhà khách,
ở về một bên phía sau công đường; bên tả là nhà trong, bên hữu là nhà bếp. Ngói
vỡ và bậc đá là vết tích còn lại của nhà học, nom thấy khá rõ ràng. Mỗi khi đi
đến một nơi nào đó thì lại một phen trù trừ. Việc đời biến cải, thời gian đổi
dời, cái cảnh thử ly khiến
cảm động khôn xiết, trong dạ bồi hồi chẳng nỡ bỏ đi. Khoảng nửa giờ sau mới lại
nhà, cùng thân thuộc gặp gỡ, bày biện đủ sanh lễ, tế từ đường. Người trong làng
sắm lễ vật đến yết
hạ, già trẻ có đến vài mươi người, trong số đó biết tên, biết mặt chừng vài
ba người. Tôi đem rượu, tiền đáp lại và vội vã dọn mâm chén cùng bọn ấy uống
rượu. Từ đó có ai đến thăm thì lại nói chuyện về chi phái của tổ phụ, về nhũ
danh của mọi người. Có để ý kỹ càng mới phân biệt được những điều ấy. Nghĩ cái
tình huống xa cách nhớ nhung, bất giác tôi khóc lên mà rằng :"Tôi từ bỏ
quê hương ra đi đã ba mươi năm nay, đến nay trở về thì vật đổi sao dời, thân
thuộc đầy dẫy trước mặt mà không rõ tính tự, thật là ra người Lạn Kha vậ y".
Tôi mới nhân cảm hứng có mấy vần thơ rằng :
Một chuyến thăm làng cũ
Sầu này dễ kẻ không Chơi bời xưa đất ấy Cảm động nay tình nồng Chùa mới trúc tùng rậm Dinh xưa hoa cỏ lồng Nhi đồng cùng lứa gặp Tên cũ nhớ lung tung |
Ngày hôm sau, tôi sắm đủ
nhang đèn, tiền giấy, mang theo đi lễ phần m ộ tổ tiên cùng các từ đường, lại
còn đến miếu trong làng lễ yết bản
cảnh thần linh. Xong việc rồi, nhân
đến cái cầu trong làng chơi ngắm cảnh, tôi cùng các công tử em họ trò chuyện.
Nguyên trong làng tôi có
một cái khe nước nhỏ giống hình quả bầu. Là ng chia làm hai thôn, một thôn ở
giữa quả bầu, thôn kia ở phía ngoài. Mộ t cái cầu gỗ nối hai thôn lại để tiện
qua lại. Trên cầu có cột và dầm lập ngói, hai
bên dựng ván cao, phía ngoài lại dựng lan can bằng gỗ để tiện cho du khách nghỉ
ngơi. Trong thôn, đàn bà hàng ngày đến ngồi ở đây bán trà, rượu và những dồ
chứa đựng trà r ượu. Thuở thiếu thời tôi rất thích mến nơi này, chẳng ngày nào
không đến đây chơi. Mỗi năm về đầu mùa hạ, hai dòng nư ớc dâng lên đầy dẫy,
nước sông chảy cuồn cuộ n. Tôi thường cùng anh tôi là quan trấn Lạng Sơn nhảy
xuống nước tắm, lúc bơi lúc lặn, cùng nhau đùa giỡn, canh khuya mới về nhà. Tôi
nhớ lời anh tôi bảo tôi rằng :"Bọn ta còn nhỏ tuổi, nên tùy ý du ngoạn,
nữa một mai trưởng thành đi làm quan, xa gót chốn giang hồ, làm sao ngày ngày
lại có thể chơi đùa ở chốn này được". Rồi sau này quả nhiên anh tôi thi đỗ
còn tôi đi xa đó đây, há chẳng phải là lời sấm của trẻ con sao ? Lúc đó tôi kể
chuyện cũ cho các công tử cùng nghe, bỗng thấy tấm lòng hoài cổ như bị khêu
gợi, tôi mới ngâm lên một bài thơ ngắn rằng :
Chốn ấy xưa du ngoạn
Mắt trông than thở phiền Lá vàng bao độ rụng Nước bạc một dòng tuôn Cầu bắc như xưa đứng Cây cằn tựa trước xiên Tháng ngày người cách biệt Lắm kẻ vắng gia môn |
Các công tử bảo tôi rằng
:"Trong thôn ta, chùa Từ Vân do quan Đốc dồng Lạng Sơn tự xuất của nhà ra
hưng công sáng tạo, cực kỳ tráng lệ; trước chùa có hồ phẳng lặng. Năm ngoái
không biết từ đâu bay đến, mà trong hồ thấy có vài ba thân cây sen hồng; năm
nay đầy khắp mặt hồ nào hoa nào lá tốt tươi, mùi thơm bay khắp ấp, thực là cái
điềm tốt hiếm có. Nghĩ rằng trong làng ắt có cái triệu ứng vào danh cao vọng
lớn, nay thấy đại huynh phụng chiếu mà đến, ý giả cái điềm lành ở đó chăng
?". Tôi cười mà rằng :"Phàm xử thời giữ đạo, xuất thì
thi ân, thế mới là làm được việc lớn, ta là người bỏ đi, nay lại cầu may thì hổ
thẹn biết bao, sao có xứng cái điềm tốt được !". Các công tử nói rằng
:"Anh đừng coi nhẹ mà phụ cái điều thần ứng". Rồi chúng tôi dắt tay
nhau trèo lên gác chuông mà ngắm cảnh. Các công tử còn đòi phải có thơ. Tình và
hứng của tôi đang dào dạt, tôi ngâm rằng :
Buổi trước loạn xơ xác
Cảnh nay sáng tựa gương Giếng xưa soi bóng nguyệ Sen nở thoáng mùi hương Chuông gác nghe âm vẳng Rặng tùng nổi nhạc vang Chim bay dường đã mỏi Vỡ tổ lạc tha hương |
Các công tử cười mà nói
rằng :"Chim bay đã biết mỏi mệt rồi vậy". - Tôi nói :"Kẻ du tử
thương xót quê cũ, ai chẳng một bụng ấy, huống chi cái niềm vui sống trong tử lý cũng đã muộn màng rồi. Thơ Đường có câu :
Mạch thượng qui tầm vô
sản nghiệp
Thành biên chiến cốt hữu thân tri
Lối cũ tìm về vô sản nghiệp
Bên thành chết trận có thân nhân.
Thành biên chiến cốt hữu thân tri
Lối cũ tìm về vô sản nghiệp
Bên thành chết trận có thân nhân.
Thơ ấy thật tả trúng cái
bệnh của ngu huynh".
Trong lúc chuyện trò,
bỗng nghe lanh lảnh tiếng chuông xa vang lại. Tôi nói :"Không biết tiếng
chuông ở xứ nào mà khêu gợi như vậy ?" - Các công tử đáp rằng :"Chùa
Liêu Xuyên". Tôi mừng rỡ mà rằng :"Xưa kia ngu huynh cùng với người
ấy có chút giao tình". Tôi mới cùng mọi người đến chơi nơi đó. Khi tới cửa
chùa thì thiền sư chống trượng, đứng ở bên sân Đàm Hoa. Trông thấy tôi
nhà sư mừ ng rỡ vô cùng, dắt tay đi vào thiền phòng cùng
ng ồi, pha trà, cùng nhau đàm đạo. Nhà sư mở đầu nói rằng :"Từng nghe đại
nhân nằm mát một nơi sơn thanh thủy tĩnh, cảnh trí tịch mịch mát mẻ, vượn hạc
từng bầy, yên hà đầy cửa; bần tăng muốn đến nương nhờ, chỉ giận không có cách
nào cả". Tôi đáp :"Người gặp cảnh mà nên sang, cảnh gặp người mà nên
đẹp. Giữa cái vườn trong núi của tôi lại có ngư ời đức hạnh nữa. Anh tôi mến
cái cảnh nhàn tịch mới dựng lên một nơi thờ Phật dưới gốc cây trong đám rậm
rạp; phía ngoài xây gác chuông, sớm tối đánh mấy hồi chuông để quên trần niệm" - Nhà
sư nghe vậy thì chắp hai tay lại mà nói to rằng :"Thanh nhàn và thích thú
như vậy, thì dẫu có đỉnh
chung cũng không đổi lấy được".
Lúc đó mặt trời về tây
sắp lặn,tôi muốn cáo biệt. Các công tử nói rằng :"Nhà chùa tuy ở chốn thôn
dã, nhưng có hoa cỏ u nhã cũng đủ cung hứng thơ, sao anh lại lặng thinh được ư
?" - Tôi nói :"Xin đề thiền phòng một bài thơ ngắn để lưu biệt mà
thôi" - Nhà sư nói :"Nếu ban cho như thế thì còn cái gì hay hơn
!". Rồi đưa ngay tứ bảo lại. Tôi đề
rằng :
Sông thôn dâng khói nước
Hoa cỏ phủ thiền phòng Sạch bụi chèo qua bến Bén mùi tu gắng công Gió tùng vang đạo nhạc Trăng biển chiếu Thiền tông Hương khói thờ khuya sớm Trống chuông âm điệu đồng |
Đề xong, tôi từ giã nhà
sư ra về. Lúc này gặp ngày húy chú tôi, xưa l àm thượng thư. Quan Đốc đồng tuy
làm quan nơi xa xôi, đến ngày giỗ cũng về. Cúng lễ xong, ngày hôm sau, ông đến
chùa Từ Vân, rủ tôi cùng đi chơi với các công tử, lại bày yến tiệc thịnh soạn
cùng nhau hoan hội. Tôi đến, các công tử đem mấy bài thơ đề vịnh của tôi ra
cùng nhau bình ph ẩm. Quan Đốc đồng chọn hai bài Qui Tỉnh và Đề
Kiều mà ông cho là trội hơn cả.
Họa Qui
Tỉnh
|
Họa Đề
KIều
|
Cổ Liêu danh thắng địa
Hào kiệt mỗi thời sinh U nhã tam hiền miếu Oanh hồi nhất thủy tình Nhân dân hằng kiệm ước Đình vũ thủy kinh doanh Cao chí ưng đa thứ Hà tu ẩn tính danh |
Thử kiều cư thử địa
Du ngoạn mỗi ta ta Văn đồ hoàn vũ lộ Tiền lưu chuyển hậu ba Bằng lan thi hứng sảng Đối bạn trúc chi tà Tứ vọng hân hân xứ Thi thư lễ nhạc gia |
Cây cầu xây đất ấy
Du ngoạn luống than phiền Đường võ nghề văn sẵn Dòng tiền sóng hậu tuôn Lan kề thơ vịnh khoái Bờ trước trúc cành xiên Bốn phía say sưa ngắm Văn chương thi lễ môn |
Anh Trấn Lạng nói rằng
:"Nghề văn đường vũ, dòng trước sóng sau, những câu ấy chứa đựng cái khí
tượng xa rộng, thơ họa như thế thật hay". Lúc ấy người cháu họ cũng có mặt
tại đó. Quan Đốc đồng bảo rằng :"Bọn các ngươi khi nhỏ chưa coi mặt quan
tổ thượng thư, nên coi mặt bác đây sẽ rõ". Tôi cười mà rằng :"Cứ nghĩ
đến mi rậm tóc dày thì sao có tương tự được với tôn thúc". Các công tử đều
nói rằng :"Coi cho kỹ, quả mư ời phần không sai". Chúng tôi ngồi
chuyện trò ăn uống thỏa thê, mãi đến canh khuya, mọi người mới giải tán ra về.
Các ông vui mừng thấy tôi về làng, chưa có cách gì để cùng vui với nhau. Quan
Đốc đồng đưa giấy báo em rể là quan Viên hình, khiến chỉnh bị một chiếc thuyền,
ước hẹn với quan Trấn Lạng Sơn, quan Viên lễ (cũng là em họ tôi) đem rượu và đồ
nhắm đến cùng tôi xuống thuyền, phóng chèo trên sông Hồ Lô, ngắm trăng, làm
thơ, thuận giòng mà xuôi, như vậy trong hạn mười ngày. Lại có người làng đến
nói là hiện đình đài mới xây dựng lên, sẽ có lễ lạc thành, có tổ chức
một chầu ca xướng, mời tôi định ngày đến dự lễ. Tôi cúng hương tiền ba quan.
Lúc này có quan
Doãn Thừ a Thiên đến xin chẩn bệnh. Nguyên lúc tôi ở Kinh thì ông mắc
bệnh đã lâu, có sai người đến lấy thuốc. Đến khi nghe tin tôi trở về làng thì
bệnh của ông ta vốn vẫn là hư kiệt; tôi chế tạo một tễ cao dược cho ông ta.
Trong lúc dùng thuốc, ông ta thấy tôi về làng mà vẫn để tâm nghiên cứu chữa
bệnh, mới gửi cho tôi một bài thơ để tạ ơn (nói về lúc bị triệu, trên đường đi
tả nỗi lòng, dùng vần của bài thơ ấy). Thơ rằng :
Ngửa trong chiếu cố cảm lòng chân
Trọng nghĩa không coi nặng phú bần Trước cậy điều thang trừ sạch bệnh Nay nhờ chế tễ giữ yên thân Chẳng cần cản trục mà lưu khách Chỉ đợi cho cao để cứu nhân Tạ đáp lấy chi làm tặng vật Dãi lòng mấy vận nhớ ơn quân |
1.
Cải
táng : thu góp xương
cốt người chết đã đ ược táng năm ba năm, lau chùi cho sạch, bỏ vào một cái tiểu
bằng sành mà di đi, chôm tại một nơi khác.
2.
Ông
Mạc : thường gọi là Ô
Đồng Mác.
3.
Thanh
Trì : tên một huyện
cách Hà Nội chừng 12 cây số, thuộc tỉnh Hà Đông.
4.
Tam
Đảo : tên ngọi núi cao
thuộc tỉnh Vĩnh Yên, Bắc Phần.
5.
Quan
Thống Nhất : chưa rõ vị nào.
Hoàng giáp Lê Hữu Danh là thân ohụ Lê Hữu Hy, Lê Hữu Mưu và Lê Hữu Kiều. Không
rõ đây có phải là Hữu Hy không ?
6.
Thử
ly : Kinh Thi, thiên
Vương Phong nói về điều thương xót nhà Chu. Quna đại phu nhà Chu đi hành dịch
(công tác) đến chỗ nhà Chu, đi qua cung thất xưa chỉ thấy đầy dẫy cây lúa và
cây kê, thương xót cái cảnh nghiêng đổ của nhà Chu, bàng hoàng không nỡ bỏ đi,
nhân đó mới làm ra bài thơ ấy. Khi này nhà Chu đã dời đô về ph ương đông, nhà
Chu túc là Tây Chu trước vậy. Ở đây mượn tích Thử ly để tả
cảnh tang thương trước mắt.
7.
Yết
hạ : đến hầu chuyện
và đưa lễ mừng.
8.
Lạn
Kha : tên núi Lạn Kha
ở Triết Giang. Đời Tấn, Vương Chất vào núi kiếm củi, thấy hai đồng tử ngồi chơi
cờ. Đồng tử cho Chất một vật như hột táo, ăn vào hết đói. Xong cuộc cờ, đồng tử
trỏ tay mà bảo rằng :"Cán búa nhà ngươi hư nát rồi". Chất quay trở về
làng thì đã được một trăm năm rồi. Vì thế mới có tên núi là Lạn Kha (lạn là hư
nát, kha là cán búa).
9.
Bản
cảnh thần linh : vị thần cai quản
địa ph ương.
10.
Dầm : phiến gỗ bắc ngang để đỡ xà nhà hay s àn
gác.
11.
Tử
lý : quê cũ (tử là
cây thị - lý là là ng). Cây tử thường được trồng ở đầu làng, dùng để chỉ quê
hương. Nhị Độ Mai có câu :"Kẻ về Tử Lý người vào Ngọc Kinh".
12.
Đàm
Hoa : tên cái sân. Đàm
hoa là một thứ cây ba nghìn năm mới trổ, một lượt thì có Phật xuất thế.
13.
Thiền
phòng : Phòng ốc nhà sư
ở.
14.
Trần
niệm : những mối ưu tư
của người đời.
15.
Đỉnh
chung : cái vạc và cái
chuông. Ý nói nhà quyền quý, mỗi bữa ăn, đánh chuông gọi người về ăn, bầy vạc
ra cho ăn (vì nhân gia đông đảo). Đỉnh chung do câu "Chung minh đỉnh
thực" của Vương Bột.
16.
Tứ
bảo : Bốn thứ là bút,
nghiên, giấy và mực.
17.
Thiền
tông : tên tông phái
Phật Giáo, cũng có tên là Phật tâm tông.
18.
Ba
đấng : dịch chữ tam
hiền, ba nhân vật tà i giỏi được thờ phụng trong đền làng.
19.
Kiệm
phác : cần kiệm và chất
phác.
20.
Thi
lễ môn : Nhà có học Thi
học Lễ, ý nói l à nhà văn học.
21.
Lạc
thành : lễ mừng mới làm
xong, đền đài, nhà ở - lễ khánh thành nhà cửa.
22.
Quan
doãn Thừa Thiên : quan đầu phủ
Thừa Thiên. Doãn tức là chức quan phủ, huyện cũ (phủ doãn, huyện doãn).
Thăm Bệnh Chúa Trịnh Sâm
Đến ngày ước hẹn, quan Viên hình đã sai người nhà
chèo hai chiếc thuyền đến. Quan Đốc
đồng sai chuẩn bị bếp
núc, đợi lúc mặt trời sắp lên thì lên thuyền mà đi. Sau giờ ngọ, thấy kẻ dịch
mục của quan Chính Đường đem sáu người lính bản dinh đến. Tôi kinh ngạc hỏi
duyên cớ. Y nói :"Vâng Thánh chỉ tuyên triệu quý sư. Lúc nửa đêm được lệnh
đại quan diện truyền, gà gáy qua sông, một mạch đi thẳng tới đây mời quý sư về
kinh, việc chẳng thể để chậm được". Tôi nghe vậy, than rằng :"Mình là
kẻ tôi mọi vậy ! Chỉ tiếc rằng cái cao hứng của mình bị cản trở, biết làm sao
đây ?".
Lúc ấy chẳng kịp gặp mặt
chào biệt các công tử, chỉ vái chào chị dâu, ngậm đắng ra đi, gấp bước mà tiến.
Chiều tối đến quán trọ thổi cơm ăn, xong rồi rong đuốc mà đi. Canh hai đêm ấy,
đến bến Bát Tràng. Khi này gió giục đùng đùng, sóng dâng cuồn cuộn. Tôi bảo
người dịch mục rằng :"Dùng thuyền ngang nhỏ qua bến thì khó mà sang sông
được, nếu có dùng thuyền buồm chăng nữa, cũng chẳng có thể vào phủ được; bọn ta
hãy tạm trú lại, sáng sớm hôm sau lại ra đi cũng không muộn đâu". Chúng
tôi quay lại quán nghỉ ngơi. Lúc gà gáy quân sĩ qua sông, sau đó đến dinh quan
Chính Đường. Áo mũ chỉnh tề rồi, tôi vào cửa phủ.
Lúc này Thánh Thượng ngủ
tại Đông cung. Quan Chính Đường trú ở cung Thập Tự phía ngoài. Tôi vào yết
kiến. Quan Chính Đường trông thấy tôi thì mừng rỡ, cười mà bảo rằng :"Sao
trở về nhanh được thế" - Tôi đáp :"Đi suốt đêm". Ông đuổi các
người tả hữu đi, bảo tôi đến trước mặt, ghé vào tai mà nói rằng :"Trước
tuần nhật này, Thánh Thượng đến cung Vọng Hà, xem thủy quân bơi đua, rồi cảm
gió. Sáu, bảy năm nay vẫn đau sẵn rồi, nguyên khí suy tổn, cho nên chỉ bị cảm
mà bệnh đã trầm trọng ngay. Ông nên ở đây đợi lệnh". Nói xong, ông đi vào
cung. Tôi ngồi đợi đến gần tối mới thấy ông đi ra, bảo nhỏ tôi rằng :"Lúc
này Thánh Thượng bị sốt âm, nên không vào được, ông hãy ngủ tại đây, đợi sáng
hôm sau vào chầu". Tôi đáp :"Đi đêm bị gió sương, xin được về chỗ ngụ
điều dưỡng, sáng hôm sau xin đến thật sớm". Tôi được phép rồi thì trở về
chỗ ngụ.
Sáng sớm hôm sau, từ tám phương đi tới, đã thấy
người đến triệu thôi thúc ba lần rồi. Lúc ấy binh lính theo hầu dùng cáng chở
tôi đi, ra sức chạy nhanh, trên đường đi bất luận sang hèn đều bị đánh đuổi.
Đến cửa phủ, cáng hạ xuống, tôi bước vào đã thấy quan Chính Đường đứng chờ ở
dưới thềm. Ông bảo tôi theo sau ông mà đi, khi đến cửa Cấm, bảo tôi dừng lại
đợi lệnh, còn ông đi vào. Chẳng bao lâu, quan Nội Sai là Thạch Trung Hầu đến
truyền lệnh dắt tôi vào. Đi qua dãy nhà ngang mười bước thì trèo lên một cái
nhà cao, phía sau nhà này là mọt căn nhà rộng rãi, tức ngự tẩm ở đó. Quan Nội
Sai cầm tay áo tôi mà dắt, mở trướng gấm, qua vài ba lần trướng màn nữa thì
thấy ở giữa nhà, Thánh Thượng nằm trên cái võng mắc nơi ngự tọa dát vàng. Ngự
tọa có đệm gấm. Bên hữu là giường ngài ngự, trên giuờng gấm vóc sắc vàng mấy
lượt bỏ rủ xuống, lại có màn che muỗi. Quan Chính Đường cùng với quan Tham Đồng
(vị quan này là người Việt An, ngự y được tin dùng) ngồi hầu ở bên tả, thị thần
chỉ có Thạch Trung Hầu đứng tại đấy. Ngự tọa có một bức trướng che ngang, đằng
sau bức trướng có tiếng người nói, ý giả các cung nhân ở đó, vì khách đến nên
lánh đi. Trước chỗ chúa ngự có đốt một cây nến cắm vào một cái giá bằng đồng.
Lúc ấy tôi đứng thẳng ở trước ngự tọa, cách xa độ hơn mười bước. Tôi cất tay
ngang trán muốn làm lễ lạy chào. Quan Chính Đường truyền cho tôi được miễn làm
cái lễ ấy. Thánh Thượng trông thấy tôi, quay bảo quan Chính Đường rằng
:"Rất giống mặt Liêu sư" - Liêu sư tức là chú tôi.
Quan Chính Đường bảo tôi
đến bên Ngài ngự coi mạch. Tôi khom mình đi tới. Quan Tham Đồng bảo tôi ngồĩ;
quan Chính Đường lại bảo tôi ngồi vào giữa, tôi mới nghiêng mình lách vào. Quan
Chính Đường, quan Tham Đường tại tả hữu, tôi ở giữa, ba người ngồi chạm vai
nhau. Sau lưng có bức vách phấn, bức vách chỉ cách ngự tọa có hơn hai thước,
mình tôi như dính liền vào bàn ngự tọa. Thánh Thượng xuống võng, ngồi trên nệm
gấm, quay sang phía tả mà thở, đặt tay trên gối gấm cho quan Chính Đường coi
mạch, rồi cho tôi coi, sau hết cho quan Tham Đường coi. Lúc ấy mặt trước, ngự
tọa chỉ cách tôi có vài ba thước, tôi chỉ cúi đầu, chẳng dám trông lên. Quan
Chính Đường bảo tôi rằng :"Ý kiến thế nào, cho cứ thực nói ra". Tôi
thưa rằng :" Thần kính xem các mạch tả hữu quan thốn đều chạy rất mau,
mạch tả chạy mau mà chìm, mạch hữu chạy mau mà nhỏ. Lại ấn tay lên mạch thì
thấy đều vô lực".
Thánh Thượng hỏi
:"Hai ông có thấy gì khác không ?". Hai ông đều tâu là cùng nhận thấy
như thế, riêng không thấy mạch găng ở tay tả. Rồi cho tôi ra ngoài, bảo tôi
biên đơn tiến nạp. Tôi ra ngoài cửa cung đến điếm Thị Ky, cùng ngồi với quan
Chính Đường. Ông nói nhỏ về nguồn bệnh, thấy chứng bệnh thế nào nhất nhất kể cho
tôi hay và hỏi kín tôi :"Bệnh chứng ra sao ?". Tôi nghĩ : -Thân thể
gầy gò, da thịt khô khan, nước tiểu vàng đục, đại tiện táo bón, bụng đầy, thời
thường thở dốc, lại toát khí nhiệt, miệng khát, lưỡi nổi mụn, ho mất tiếng, mọi
thứ đều là triệu chứng tinh khô huyết kiệt. Tình thế lại rất gấp, sợ rằng cái
khí của dạ dầy đã suy bại đến cùng cực, mà ý chừng trước kia trong lúc điều trị
chưa từng bồi bổ. Có thể là chính căn bệnh không đến nỗi thế mà vãn hồi được
chăng ? - Tôi đáp :"Khó hay dễ thực chẳng dám quyết. Xin dâng thuốc một
lần, nếu sáu đường mạch trở lại hòa hoãn mới khỏi lo ngại". Hai ông thúc
tôi kê đơn. Đơn thuốc như sau :
Tiểu
thần Lê Hữu Trác phụng kê
|
||||
Xin
phỏng theo bát vị, có tăng giảm để chế cao
|
||||
Thục địa
|
5 lạng
|
|||
Sơn dược
|
3 lạng (cơm rang, sao 2 lần)
|
|||
Sơn chu
|
2 lạng (dùng rượu nấu, bỏ hạt)
|
|||
Mẫu đơn
|
1lạng 5 đồng cân
|
|||
Bạch phục linh
|
1 lạng 5 đồng cân (ngâm sữa)
|
|||
Mạch môn
|
1 lạng 2 đồng cân
|
|||
Ngũ vị
|
8 lạng (dùng sống)
|
|||
Quế phụ
|
5 lạng
|
|||
Nhục quế
|
5 lạng (ky lửa)
|
|||
Cho tất cả vào một nồi đất, đun
thành cao, đoạn thêm vào :
|
||||
Cao lộc nhung
|
2 lạng
|
|||
Cao câu kỷ
|
1 lạng
|
|||
Đun lửa và quấy đều. Đem cao ấy
ra, bỏ nhục quế đã tán nhỏ vào, đậy nắp giữ kín.
|
||||
Mỗi lần dâng một chén trà nhỏ, sau
khi đã đun to lửa, dùng thần thảo làm thang
|
||||
Nay kính trình
|
Đến tối thấy quan Nội
Sai là Thạch Trung Hầu đến tuyên triệu quan Chính Đường, quan Tham Đồng cùng
tôi vào chầu. coi mạch như lần trước, lại xem xét bệnh một lần nữa. Chẩn bệnh
sau, Thánh Thượng hỏi :"Mạch đã nổi lên và chạy nhanh, sao lại dùng quế phụ
?" . Tôi thưa rằng :"Thần trộm xét mạch vô lực, nếu có nhiệt lắm cũng
là nhiệt giả, nay lại đưuợc chẩn bệnh một lần nữa, quả thấy mạch tình thượng
thực hạ hư, phương thuốc tiến nạp thật là đích đáng". Thánh Thượng lại hỏi
:"Đã bị sốt, sao bụng lại đầy, cơm không tiêu ?". Tôi thưa rằng
:"Thần trộm thấy trong sách thuốc có nói :- Xét mạch thấy vô thần, chính
là phù du, cái nóng phát ra ở da thịt thì ngoái nóng mà trong lạnh, thượng thực
hạ hư, cho nên bụng đầy không tiêu". Ngài ngự lại hỏi :"Trong đã lạnh
sao nước tiểu lại vàng đục ?". Tôi thưa rằng :"Thần thấy trong sách
nói bên trong khí không đủ thì nước phải biến sắc, chẳng phải ở trong thực có
nóng". Thánh Thượng nói rằng :"Người này nói quả quyết ắt có định kiến. Vậy theo đơn
chế một tễ nhỏ dùng thử". Hai ông thưa rằng :"Cái đơn thuốc tiến nạp
ấy thật đích đáng". Rồi mọi người đều bước ra điếm Thị Ky cùng ngồi. Quan
Chính Đường sắc mặt tỏ ra ngại ngùng, bảo tôi rằng :"Mạch hồng sác mà dùng
quế phụ để cho nóng, sợ chẳng phải là hư hỏa mà ông quả quyềt như vậy, thật là
đáng sợ". Quna Tham Đồng nói :"Lử a đổ thêm dầu, nếu chẳng phải là
điều chân kiến,
há chẳng dám làm liều". Tôi nói :" Búa rìu ngay
tại trước mặt, tôi há lại không biết điều họa phúc sao ? Chỉ biết đem hết cái
kiến thức của mình ra cho hết lòng. Vả lại trước đây đã dùng thuốc mát mà nhiệt
chẳng giảm, bụng lại đầy thêm, đó là cái cớ trong thì lạnh, chẳng còn hồ nghi
gì nữa". Quan Tham Đồng khen rằng :"Như thế là có bằng cứ rồi".
Quan Chính Đường cười nói trằng :"Phải gấp chế thuốc". Rồi ông sai
quan thủ phiên Hữu Viện man cái rương thuốc ngự để mọi người cùng cân lường,
trao thuốc cho quan thị dược để đem đun lên. Hai ông đều quay về trụ sở. Tôi
cùng các quan coi thuốc hữu viện chuyện trò. Tôi thấy một viên hoạn gác cửa,
đứng ở chỗ giả sơn nhà quảng đưởng, cách tôi vài ba chục bước, đưa tay ra vẫy tôi.
Tôi đứng ngay dậy mà đến vơi y. Vị quan này nói rằng :"Vâng chỉ truyền của
Thánh mẫu đến vời lão sư coi mạch, khó dễ ra sao, cho được cứ sự thực mà
thưa". Tôi nghĩ một lúc khá lâu mới nói rằng :"Tôi là người chốn sơn
dã, một sớm triều kiến mặt trời, lấy làm sợ hãi, mười phần chẳng nói lên được
một. Tuy có xem mạch, còn sợ biện nhận chẳng đúng, nay đang bận coi thuốc
thang, sau đó mới biết hay dở, xin quý hầu xét cái tình thực của tôi mà tâu lên
cho". Vị quan này trở vào trong cung Cấm. Tôi quay lại trụ sở hỏi viên
trực nhật y viên quan ấy là ai. Y nói đó là Thản Trung Hầu, quan nội sai tại
Công Phiên Quản thị Cán Quân. Tôi đi đến cung Thập Tự xin phép trở về nhà. Quan
Chính Đường bảo :"Sáng sớm thì quay lại". Tôi được phép rồi ra đi.
Đêm ấy vào giữa canh năm tôi đến cửa phủ, cửa chưa mở, ngồi đợi cửa mở rồi vào.
Tôi thấy quan Chính Đường mặt mũi vui tươi, thì cũng mừng thầm, như vậy quả quế
phụ không nóng. Quan Chính Đường nói rằng :"Thuốc ấy dâng Ngài ngự lần thứ
nhất được hòa bình, ho giảm bớt, đến gà gáy theo đdn chế một tễ dâng lên, thì
tiểu tiện dễ dàng mà ít vàng, ắt là nhiệt đã giảm rồi. Ông bảo tôi đi theo vào
cửa Cấm; đến ngoài cửa đứng đợi, còn ông vào trong trước. Một nháy mắt sau đã
thấy có lệnh truyền cho tôi vào, và cho thăm mạch. Thánh Thượng nói rằng
:"Uống thuốc ấy vào cũng được thanh thái, hơi có ý muốn ăn, nay nên làm
thế nào ?". Tôi tiến lên thưa rằng :"Sức thuốc còn kém cỏi, chưa được
thành công, xin cho chế cao dược. Khi khí thuần, lực toàn mới dùng đến thuốc
bổ".
Ngài ngự truyền quan Chính
Đường gấp rút chế cao dược. Ông được lệnh, cùng tôi rảo bước đi ra đến điếm Thị
Ky. Ông đến trụ sở ăn sáng, bảo tôi ở đó đợi cơm bữa. Chẳng bao lâu nhà bếp
bưng mâm cơm đến. Đồ ăn ngon lành chẳng cần phải kể. Từ đó mỗi ngày ba bữa tôi
ăn cơm tại đó. Quan Chính Đường chiều tối thì đến điếm Thị Ngư bảo tôi cân,
chọn và chế thuốc cao. Tôi mớn chọn những thứ rất tốt để làm thuốc, về lộc
nhung chỉ chọn Bắc nhung, lấy mầm non nơi có huyết ngưng 10 lạng, nấu thành cao
2 lạng để hòa hợp v ới thuốc cao khác, lại chọn nhân sâm thứ to béo (1 cân) 45
chi, giá tiền là một ngàn một trăm quan tiền, nấu mọi thú mà chế thành thang
thuốc. Quan Chính Đường giao cho quan thị trà coi giữ và nung nấu, chẳng nói
đến việc này.
Tôi lại thấy Thản Trung
Hầu thuở nọ bảo tôi rằng :"Vâng chỉ truyền của Thánh mẫu đến cho quý sư
hay là nay thấy Thánh Thượng ngự trà rất được thanh thái, Thánh mẫu rất vui
mừng và truyền hỏi lão sư là Thánh mẫu thường bị đau ở hông nơi cạnh sườn đã
hơn một năm nay, nay điều trị có choíng khỏi không ?" - Tôi nói :"Cứ
như bệnh ấy chữa không khó, còn chóng hay chậm khỏi, phải xin đợi thăm mạch mới
dám có định kiến". Thản Trung Hầu bỏ đi ra rồi, lại thấy Thạch Trung Hầu
từ trong cung Cấm tới điếm Thị Ky nói là vân g chỉ đến ban thưởng lão sư. Quan
Chính Đường bảo tôi quỳ xuống. Thạch Trung Hầu đứng xướng lên rằng :"Cung
hỉ Thánh chỉ ban khen lão sư vào chầu tấu đối minh bạch, lại am tường việc xem
mạch, vậy ban thưởng một chiếc thái ngưu, lại còn dự ban áo mát và áo ấm để trở
lại vào chầu". Quan Chính Đường truyền tôi đứng dậy và bảo Thạch Trung Hầu
rằng :"Xin ông anh chiếu lệ cho !". Thạch Trung Hầu quay về cung Cấm.
Vì chẳng biết duyên cớ gì, tôi mới dò hỏi môt quan thủ phiên ở Nội Viên về việc
này. Ông ta cho biết chiếu lệ là mỗi khi có ban thưởng thì lệ phải làm lễ bái.
Tôi lại hỏi :"Thái ngưu là vật gì vậy ?". Ông ta nói :"Một chiếc
thái ngưu là chuẩn cho sồ tiền mười quan". tôi hỏi tường tận, chẳng am
thời sự thật rất nực cười. Câu chuyện đầu đuôi đang muốn tiếp tục, thì có người Bắc khách tên Chú
Bẩy thấy tôi chế thuốc thì nói rằng :"Thánh Thượng giàu có khắp bốn bể,
thuốc dùng sáu. bảy năm nay mỗi lần ước định giá tiền không quá ba, bốn trăm gián; nay
một tễ thuốc lớn dùng tiền tới mười ngàn quan, có dùng thế mới xứng với bậc
vương giả". Nguyên y rất được sủng hạnh nên mới nói bừa bãi mà không sợ
sệt gì. Từ đó tôi quen biết chơi bời với y. Lúc ấy cũng có cái khẩu hiệu là mười
bốn (tôi là con đứng hàng thứ bảy mà y là chú Bảy, cho nên gọi là mười
bốn). Y với tôi khi ngồi thì cùng chiếu, ăn thì cùng mâm. Gia tình thật là
khắng khít. Nguyên do y có biết thuốc, học Vương đạo. Trước đây,
mỗi khi thấy Thánh Thượng dùng thuốc lạnh cùng các thứ tiêu đạo, y nhiều lần cố
khuyên dùng phương thuốc bồi bổ, nhưng vì klhác biệt với các ngự y, nên chẳng
ai chịu nghe theo. Y uất ức trong lòng mà không nói ra được. Khi này thấy tôi
dùng thuốc bổ thật mạnh thì đạo đồng, ý hợp, nên giao du cùng nhau thật là bền
chặt, điều đó miễn nói đến.
1.
Đốc
đồng : chức quan phó
trấn dưới chức Đốc trấn; đây là người anh họ của Lãn Ông làm Đốc đồng tỉnh Lạng
Sơn.
2.
Cửa
phủ : cửa Phủ liêu -
Từ khi họ Trịnh cầm quyền, thì bên nhà vua gọi là Triều đình, bên phủ chúa gọi
là Phủ liêu.
3.
Thạch
Trung Hầu : người xã Yên
Thường, huyện Đông Ngạn (nay là phủ Từ Sơn, Bắc Ninh); họ Phạm, làm quan Nội
sai, được phong tước Thạch Trung Hầu. Sau khi Tây Sơn dứt nhà Lê, ông khởi binh
chống lại, nhưng bị thua. Ông là thân phụ Phạm Thái, hiệu Chiêu Lỳ, tác giả bài Chiến
Tụng Tây Hồ Phú.
4.
Thang : Vị thuốc thêm ngoài để dẫn những thứ
thuốc chính.
5.
Định
kiến : cái ý kiến đã
liệu rõ mà không thay đổi.
6.
Chân
kiến : cái điều hiểu
biết thấu đáo không sai lạc.
7.
Búa
rìu : hai thứ đồ dùng
bằng sắt, có lưỡi để bổ và để đẽo gổ, bởi chữ phủ việt dịch ra. Đây là nói
chung về hình pháp.
8.
Bắc
khách : người khách
phương Bắc, chỉ người Trung Hoa sang ở nước ta.
9.
Tam,
tứ mạch : mạch là chữ dùng
thay cho chữ bách; sáu mươi hoặc bảy mươi đồng tiền là một mạch, cũng gọi là
một trăm gián - tam, tứ mạch : ba, bốn trăm gián.
10.
Vương
đạo : đạo chính theo
đời Tam vương. Nghĩa rộng : đạo làm chân chính, ngay thẳng.
Chữa Bệnh Không Thành
Quan Chính Đường bảo tôi rẳng :"Ông nên gấp
trở về nhà chuẩn bị áo mũ; sáng hôm sau vào chầu sớm để nhận ban thưởng. Việc
hệ trọng chẳng phải tầm thường, chẳng nên coi là việc nhỏ. Nếu ngày mai vào
chầu lại ăn mặc như cũ, ấy là coi thường ơn vua, tội đáng chết !". Tôi sắp
ra đi còn tái tam dặn dò. Tôi cảm ơn mà rằng :"Đâu có dám trái lệnh".
Tôi mới từ biệt ra về. Ý quan Chính Đường biết rõ lòng tôi vốn không lấy việc
được ban lộc làm vinh hạnh, lại chính ông đã tiến cử tôi, nên ông để tâm che
chở. Tôi nghĩ : - Mình tuy không có chí may
áo lá sen lá ấu mà
đem trao vật tại cửa đông thì sao lại không được ? - Tôi mới sai người đến chỗ
thân bằng mượn áo mũ. Tối hôm ấy thấy dịch mục của quan Chính Đường mang mười
quan tiền đến chỗ tôi trú ngụ; đến đêm vào canh hai lại thấy lính thị trù mang ngự
soạn ban cho đến nhà.
Bọn này có vẻ hoảng sợ, nói rằng :"Bọn chúng tôi đi tìm chỗ ngụ khắp nơi,
cho nên đến chậm, xin quý sư tha thứ cho". Tôi theo lệ thường cho chúng
tiền, chúng vì có lỗi mà chẳng dám nhận thưởng) mà ra đi.
Sáng hôm sau, tôi đội mũ
mẳc áo vào phủ. Quan Chính Đường thấy tôi có cái quan dạng ấy thì như có vẻ
mừng, bảo tôi rằng :"Vào khoàng tối đêm, cơn nóng của Thánh Thượng đã hết,
nước giải đã hơi trong, bụng bớt đầy nhiều, tiểu tiện vàng đục tạm ngưng. Đêm
qua đã dâng ba lần thuốc cao". Tôi nghe vậy cũng mừng thầm, rồi cùng ông
vào chầu xem mạch. Lúc ấy Thánh Thượng ngự trên võng, ngồi lên nệm gấm, cười
bảo quan Chính Đường và quan Tham Đồng rằng :"Hôm nay cử động thấy nhẹ
nhõm, có lẽ nhờ sức quế
phụ mới vận động dược mạnh mẽ, và bụng thấy đói. Nếu đúng thế thì từ
trước đến giờ dùng bừa bãi thuốc lạnh, chẳng hóa ra lầm lẫn sao ?". Quan
Chính Đường trình rằng :"Bọn thần thấy dùng quế phụ là lấy làm sợ hãi, có
biết đâu giả nhiệt gặp quế phụ là hết". Thánh Thượng nói :"Người này
dùng thuốc có kinh nghiệm mới dùng những thứ ấy". Quan Chính Đường lại
thưa rằng :"Thần vốn có nhiều bệnh, tự dùng thuốc của nhà, sau lại tìm
thầy khắp nơi để trị bệnh. Mãi đến khi thần phụng mệnh vào Hoan Châu mới được
biết nhau. Người thôn dã, nói năng thô nhưng về y lý thì uyên bác, thầy thuốc
hiện nay trong thiên hạ không ai hơn được". Lúc ấy tôi nghe vị quan này
nói vậy thì lông tóc dựng ngược, thầm kêu khổ rằng :"Ta quả như dầu tẩm
bột gạo vậy, không có kỳ hạn nào ra khỏi nữa". Tâu xong mọi người đều đi
ra, đến điếm Thị Ky. Quan Tri Binh là Hầu Cầu chắp hai tay nói rằng :"Ngày
hôm nay lòng tôi được thư thái vậy". Quan Tri Hộ là Hầu Diệm trách quan
Chính Đường rằng :"Có người như thế sao nay mới tiến cử ?". Quan
Chính Đường cười mà đáp rằng :"Đã hai tháng nay tiến cử vào hầu Thế tử,
nhưng chẳng dùng mà thôi". Nói xong, mọi người đều vào điếm Thị Ky cùng
ngồi. Lúc ấy trong phủ ai cũng nghe danh tôi. Trong lúc ngồi luôn luôn có người
dòm ngó tôi. Quá giờ ngọ thấy quan Nội Sai truyền chỉ cho tôi vào hầu thuốc Thế
tử, lại truyền cho quan Chính Đường rằng :"Từ nay chỉ cho lão y hầu thuốc,
không được cho đem vào dùng một hào ly thuốc nào
khác !". Quan Chính Đường được lệnh, mới đưa tôi vào cung, đến tẩm thất
của Thế tử. Tôi thấy lầu gác liên lu, tẩm thất của Thế tử cùng gần ngự tẩm mà ở
về phía tả. Tôi đi theo quan Chính Đường vào coi mạch. Lúc đó tôi thấy thân
hình Thế tử rất gầy ốm, bụng lớn da mỏng, gân xanh, rốn lồi hơn tấc, khi xuyễn
muốn thoát, mạch chìm mà chạy nhanh, lại vô thần. Tôi nghĩ mình xưa coi Thế tử
còn có da thịt, mạch còn hồng huyền, nay đến như thế này thì hẳn không còn làm
gì được nữa. Người xưa coi bốn chứng làm khó
chữa, chính là đây vậy. Nhưng tôi chì nói là bệnh cam, cái tiếng cổ thì
kiêng chẳng dám nói đến. Tôi xem xét xong, bái tạ đi ra (lệ nhập kiến cũng có
bái). Quan Chính Đường truyền bảo tôi đến Sở Thập Tự, ghé vào tai tôi nói nhỏ
rằng :"Ông thấy thế nào ?". Tôi đáp :"Thể chất và tinh thần suy
kiệt và mệt mỏi quá rồi, thế không thể trổi dậy được nữa !". Quan Chính
Đường nghe nói thế thì buồn hiu, thở dài một tiếng, nằm vật xuống giường. Tôi
biết Thánh Thượng tin dùng ông, lấy ông làm người tâm phúc, nhờ ông làm vây
cánh, vốn muốn thác
cô vào ông, bỗng nghe lời tôi nói như v ậy nên mới có quang cảnh ấy.
Ông lại hỏi tôi rằng :"Đem hết cái sức ông ra mà chữa trị, liệu có hy vọng
gì không ?". Tôi thưa :"Đã từ lâu dùng thuốc công phạt để đến nỗi
tinh huyết khô kiệt, đó là bị thuốc làm hại, chứ không phải bệnh khiến đến nỗi
ấy. Nay dùng thuốc bổ thì khác nào khô nắng từ lâu mà gặp mưa rào; sau vài ba
ngày, cát hung mới có thể biết được". Quan Chính Đường nói rằng :"Nếu
vậy nên gấp rút chế thuốc !".
Tôi đem cái đơn thuốc
ngày trước ra, tăng bội lên, thêm chút trầm hương :
Bạch Truật
|
4 lạng (tẩm mật sao)
|
|
Thục địa
|
1 lạng (nướng khô)
|
|
Can hương
|
6 đồng cân (sao đen)
|
|
Ngũ vị
|
4 đồng cân
|
|
Sinh trầm hương
|
2 đồng cân
|
|
Tất cả nấu thành keo, đun to lửa,
dùng Bắc sâm làm thang.
|
Đơn thuốc viết xong,
quan Chính Đường trao cho quan Tri Hộ A Bảo theo phép nấu cao. Tối đến, tôi xin
về nhà. Quan A Bảo nói rằng :"Lão sư am thục việc chế thuốc, nên ở lại đây
giúp việc". Tôi nói thác là có bệnh ở lá lách, ở đây mà đi ra ngoài chẳng
tiện. Ông ta đáp rằng :"Thày thuốc thì biết lo bệnh, ai mà tin được; hiện
có nơi đi giài ở cuối thành rất rộng rãi lại tịch mịch; đằng trước có một cái
ao, cứ đến đó thì thật là tiện". Tôi chỉ muốn về nhà, mới xin cho người
học trò của tôi là Hồ Tuy thay tôi mà coi việc thuốc. Vị quan này ưng thuận.
Tôi trở về chỗ ngụ, ngày hôm sau lại đến.
Từ đó, mỗi lần vào xem
mạch ở ngự tẩm cho Thánh Thượng, lại đến xem mạch cho Thế tử. Tôi nhận thấy
thuốc cao đã nấu xong, mà sao cho thấy dùng. Nguyên có người nói với Chính cung
(tức là bà sinh ra Thế tử) rằng :"Từ trước đến nay thuốc của Thế tử dùng,
tuyệt nhiên chẳng dám cho bạch truật, thục địa; chẳng qua truật làm bế khí,
thục làm trệ tì, nay dùng tới ba, bốn lạng thật là kinh hoàng. Nếu dùng như vậy
thì đại tiểu tiện đều bí". Chính cung mới cho vời Bắc Nhẩn (tên chú Bẩy)
đến mà hỏi ý kiến. Nguyên người Trung Hoa là gia nhân của Chính cung, vợ y ra
vào nơi Chính cung mà không bị ngăn cấm gì, vì là thị tỳ yêu dấu của người. Bởi
lẽ đó mà Chính cung vời người chồng lại hỏi. Người này thưa rằng :"Lâu nay
dùng thuốc tiêu lợi mà bệnh trướng tăng, bụng đã trướng thấy rõ rồi, nay dùng
thuốc bồi bổ chính là phương pháp làm cho hết bệnh trướng. Ý thần cũng giống
thế, xin đem thuốc tiến ngự, không cần phải nghi ngờ; nếu vạn nhất có làm sao,
thần xin đem toà n gia chịu tội". Chính cung nghe vậy mới dám cho dùng
thuốc. Người Trung Hoa đến điếm Thị Dược, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho tôi
nghe. Tôi lấy làm bất bình, mới cất to tiếng mà nói với các thày thuốc trong
Viện rằng :"Thế tử thật là ng ười nhà Trời vậy, ruột gan bằng sắt đá;
tưởng một năm nay, các thứ thuốc dùng nhiều biết là bao, mà thần sắc còn giữ
được, nếu là con nhà tầm thường thì sau một ngày ắt là chẳng lưu lại được. Điều
cốt yếu là bệnh có chứng thực nếu không thì là chứng hư, phép chữa bệnh không
công thì bổ. Khắc phạt đã không thành công mà bồi bổ cũng chẳng muốn. Vậy dùng
phương pháp gì đây ? Vả lại từ một năm nay, đã gắng sức đến cùng mà cũng không
làm gì được để cứu chữa, sao lại có thể ghen tài ganh công, lại còn phỉ báng
nữa ? Người làm thuốc lấy việc cứu người làm điều tâm niệm, trong cái nhân thuật cũng vốn
sẵn có cái tầm lòng trung của bọn thần tử, tấm lòng đó ở đâu ?" - Các y sĩ
nghe nói đều cười nhạt. Nguyên kẻ xàm báng tôi, cậy mình đắc sủng, khinh miệt
lời tôi nói, đều bị mọi người oán giận. Lại ngày thường kẻ ấy coi thiên hạ là
không ai bằng mình, đến khi thấy tôi có chút công lao, cho nên không tránh được
điều ghen tị. Người Trung Hoa nói rằng :"Tôi được nghe Thánh Thượng lấy
làm hối tiếc đã dùng thuốc lạnh mát, nếu thuốc của lão sư thành công thì kẻ
dùng thuốc khắc phạt, tội đáng phải chết". Tôi cùng y đều nói :"Ý
chừng cũng đến thế". Y còn nói trong vài ba ngày gần đây, Thế tử dùng cao
dược, tiểu và đại tiện được thông lại, bụng mềm, biết đói, cho nên những lời
nói vui mừng truyền ra tận bên ngoài. Lúc ấy người Bắc quốc dương dương đắc ý,
ngôn ngữ rặt một mùi châm chích. Kẻ kia sắc mặt bẽ bàng, cáo bệnh, không đến
nữa. Người Bắc quốc nói kín với tôi rằng :"Chính cung rất vui mừng, ý muốn
ban trọng thưởng". Tôi sợ bệnh chữa chưa được giảm nhiều, chưa hẳn đã
thành công, mới khẩn khoản nói với Bắc nhân rằng :"Mong anh hết lòng bẩm
xin, đợi lúc đã lập công vẹn toàn, mới dám nhận trọng thưởng". Việc này
khỏi phải nói.
Lúc này Thánh Thượng
dùng thuốc cao đã được sáu, bảy ngày, các bệnh dường như đã hết, chỉ có điều
không ăn uống gì, tứ chi mỏi mệt, ít muốn nói năng. Quan Chính Đường hỏi kín
tôi rằng :"Bệnh đã lui mà tinh thần lại mỏi mệt hơn, thế là duyên cớ gì
?". Tôi ú ớ chẳng dám nói thật. Ông hỏi lại tôi hai ba lượt, tôi thưa
:"Hết bảy ngày thì ngũ tạng chuyển biến, một khi gặp những thuận lợi thì
phải khá lên dần dần. Nay thấy bệnh suy, có lẽ thuốc dùng công phạt quá nhiều,
nguyên khí đã bại rồi. Lời sách nói rằng : Cái khí ở dạ dầy đã bại rồi thì trăm
thứ thuốc cũng khó đem dùng". Ông nghe nói vậy thì sợ hãi rụng rời chân
tay, bảo tôi rằng :"Làm sao được bây giờ ?". Tôi đáp :"Cái việc
ngày nay là tạm hoãn thuốc cao mà cứu gấp cái vị khí". Ông bảo tôi biên
đơn thuốc, tôi kê ra như sau :
Bắc sâm
|
2 lạng
|
|
Bạch truật
|
1 lạng 5 đồng cân
|
|
Đại phụ
|
8 đồng cân
|
|
Đun lửa to thỉnh thoảng cho uống
|
Được vài ba ngày, bệnh
thế không chuyển. Được hai ngày nữa, tức là ngày mười một tháng chín, Thánh
Thượng yến giá.
Tôi cứ như trước, ngày
ngày đến Đông cung trông nom thuốc thang. Ngày hôm sau, Thế Tử kế vị, ra ngự
tại phủ đường để cho các quan liêu chào mừng. Lúc ấy cũng cho tôi đi theo hầu
giữ việc điều trị. Trong lúc còn mang bệnh, Thế Tử phải kiêng gió, nắng; nhất
thời ra ngoài, bị cảm phong hàn, khi về cung thì hơi phát rét, vời tôi vào coi
mạch. Tôi dùng bát vị, bỏ mẫu đơn, giảm trạch tả, cho thêm mạch môn, ngũ vị,
ngưu tất mà tiến ngự. Các chứng đều giảm bớt, mà hơi thở gấp tựa mắc xuyễn, còn
tăng hơn khi bệnh đã lùi trước kia. Các chứng lại nổi lên. Tôi thấy thế nguy
chẳng làm gì hơn được, mới kêu có bệnh chẳng vào hầu. Ba ngày sau lại sai người
hỏi đơn thuốc. Lúc ấy may có thầy thuốc người Sơn Tây mới được tiến cử, vào
hầu. Tôi muốn dược chút nhàn hạ, tự nghĩ rằng nên thừa dịp mà ra đi. Tôi đến
gặp quan Chính Đường, nói dối là trong nhà có bệnh kịch, nhiều lần được thư nhà
thôi thúc, nhưng chưa dám hé răng, nay sự thế đã quá gấp, mong đại nhân thương
tình. Quan Chính Đường có ý ngần ngại. Tôi lại nói rằng :"Xin tạm cho về
thăm, coi việc hay dở ra sao, rồi sẽ trở lại". Quan Chính Đường nói rằng
:"Ngày nay sự thế đã khác, ông nên vào phủ thỉnh cầu các quan thụ mệnh,
rồi vào bái tạ mới có thể ra đi". Tôi y lời làm. Các quan thụ mệnh, người
thì thuận, người thì chẳng thuận. Tôi nghĩ rằng :"Số người ưng thuận đã
quá bán, vậy tôi cứ bỏ đi". Tôi đến cung Cấm bái tạ thì gặp người Bắc
quốc. Y cầm tay tôi mà nói rằng :"Lão sư đi xa để cho tôi ngày đêm lòng
buồn bã". Y lại nói :"Bọn thày thuốc dốt nát có cứu giúp ai được, bọn
chúng ta nên tự mình xuất lực, ngõ hầu vãn hồi". Tôi nói :"Tôi ra đi bất nhật sẽ quay
lại". Bắc khách cười đáp :"Đã đi rồi thì lẽ nào còn trở lại".
Tôi cười nói rằng :"Sao anh lại nói mơ hồ vậy ?". Rồi cùng dắt tay
nhau đi vào. Khi ấy, quan Phó A Bảo ẵm tiểu chúa trong lòng. Tôi lạy bốn lạy.
Tiểu vương nói rằng :"Trà của lão sư thật ngọt dễ uống, ta thích uống lắm
!". Tôi nghe nói thì than thầm :"Đã bị thuốc lạnh làm hại nhiều rồi
!". Đoạn tôi đi ra, đến bái biệt quan Chính Đường. Ông đưa cho năm mươi
quan tiền làm hành lý. Tôi từ chối, chỉ lĩnh mười quan. Tôi đến từ giã Quận
hầu. Hai người đều tỏ ra buồn bã. Quận hầu đem thuốc, tiền cùng những phẩm vật
trong mùa ra tặng. Cùng nhau nói chuyện một lát, uống trà xong, tôi đứng dậy tạ
biệt. Quận hầu đi bộ, bước trong nước bùn mà tiễn chân tôi ra khỏi cửa dinh.
Quận hầu biết là tôi ra đi sẽ không trở lại nữa, mới cầm tay tôi mà nói rằng
:"Tôi cùng lão sư biết đến bao giờ mới gặp lại nhau !". Hai người
nhìn nhau, đều muốn ứa nước mắt.
1.
May
áo lá sen lá ấu : nguyên văn, phân
hà liệt ky - Sở Từ có câu : liệt ky hà dĩ vi y, có nghĩa cắt lá ấu, lá sen để
may áo (lời nói thác về y phục của kẻ ở ẩn) - Ky là cây thuộc loài thảo, lá nổi
trên mặt nước, quả (trái) chia ra bốn góc, gọi là quả ấu.
2.
Lính
thị trú : bọn lính trông
coi việc bếp núc.
3.
Ngự
soạn : đồ ăn của vua
chúa.
4.
Quế
phụ : hai dược phẩm có
tính chất tăng nhiệt độ.
5.
Hào
ly : hào là một phần
mười trong một ly - Ly là một phần mười trong một phân. Nghĩa rộng, hào ly là
một tí, một chút.
6.
Bốn
chứng : bốn thứ bệnh.
Theo thuyết y học xưa, có bốn thứ bệnh không chữa được là phong (bệnh điên),
lao (lao phổi), cổ (bệnh nhiễm độc vật), lại (bệnh hủi). Chữ cổ ở đây mà chúa
Trịnh Cán mắc phải được viết ra với ba chữ trùng (trùng là con sâu) trên chữ
húc.
7.
Thác
cô : gửi trẻ mồ côi.
Khi nhà vua có con còn nhỏ tuổi thì thường gửi gấm cho một hoặc nhiều đại thần
tín cần, để sau ngày vua băng, các người này phù tá con vua mà giữ vững ngôi
báu.
8.
Trầm
hương : thứ gỗ ngâm lâu
ngày dưới nước, chỉ còn lõi, sắc đen, thường dùng để làm thuốc.
9.
Nhân
thuật : nghề làm thày
thuốc.
10.
Yến
giá : băng (Yến có
nghĩa là yên nghỉ, giá là được chở đi bằng xe hay thuyền). Đây nói chúa Trịnh
Sâm mất.
11.
Bất
nhật : thế nào cũng có
ngày mà không biết đích ngày nào.
Về Nhà
Tôi sợ chuyến đi này có
sự ngáng trở, mới quay về ngụ sở, từ biệt chủ nhân là quan Trạch Ưu, rồi ngầm
rời đến nhà cháu họ là Hộ Hào, chỉnh bị hành trang, lại mượn lính của thân bằng
đi hộ vệ. Phàm những người bạn thân trong kinh thành mà không đến từ biệt được,
tôi đều viết thư gửi đến tạ lỗi. Tôi lại nói phao lên rằng tôi dùng đường bộ mà
đi, ngầm sai người thuê đò dọc chờ sẵn tại bếnTrường
Tín. Sau đó những người bạn
bè trong thành biết tôi đã ngầm rời nhà trọ, các quan viên như Thạch Trung Kiệu
Hữu, Trạch Ưu Tả Nhuệ đều thân đến tiễn chân.
Ngày mười hai tháng
mười, sáng sớm tôi đi bộ đến Hoàng đình, có binh lính ra đứng gác. Quan quân
thuộc Thị nội tả đóng tại Hoàng đình. Tôi đến từ biệt viên quan ở đây, nỗi lòng
băn khoăn, bối rối hiện ra sắc mặt. Lúc tôi ra đi, vị quan ấy đưa tặng một bao
danh trà, với một bài thơ có lời dẫn như sau : Canh gác Cấm thành nay đã lâu,
vẫn chưa có vật gì để tặng, bất giác lòng thấy buồn bã. Nay có trà Bạch hào
(một cân) xin đem đệ nạp.
Thơ rằng :
Sương dãi đêm đông lạnh lẽo hoài
Nhớ nhau nên nỗi dạ khôn nguôi Đường chia nghìn dặm nên buồn bã Bóng xế mây đoài quặn ruột ai |
Tôi đi đến bến chùa
Trường Tín, lên thuyền thuận dòng xuôi. Tôi ở trong thuyền, thong thả trông ra
xa, pha trà mà uống, lấy làm khoan khoái, chuyện trò giòn giã khác nào như cá
thoát lưới, như chim sổ lồng. Lòng muốn về cho nhanh ví như tên bắn. Trông về tây,
hàng nghìn trái núi xa thẳm hiện ra. Hễ thấy nơi nào cách xa và sâu kín thì ngỡ
là nhà mình ở đó. Tôi mới ngâm một bài thơ tả nỗi lòng rằng :
Lúc này nước sông chảy mạnh, thuyền nhẹ, thuận
buồm, sau giờ ngọ thì đến Lãnh Tuần. Tôi bỏ thuyền lên bộ, đến chơi chùa Nguyệt
Đường. Chùa ấy ở trên núi, có cửa mở ra đường lớn; một bên đằng sau cửa này là
một cái ao hình bán nguyệt. Ở bờ ao cây cối rủ bóng liên lu, tùng bách che mặt
đất. Phía trước có một bức tường gấm, tường có cửa thông ra một con đường
thẳng. Về phía đông và phía tây sân chùa, có hai hòn núi đất; trên núi đều có
xây gác chuông. Ở giữa xây một cái cung điện rộng, nhà cao, nhà chơi mát sáng
sủa; nhà gác tranh vanh, bốn phương tám mặt đều có tường vẽ tranh huy hoàng,
những trấn song quanh co, thông nhau ngang dọc. Hoa lạ đua nở, ngáng quải mắc
míu nơi thềm đá trắng. Nghìn cửa thông nhau, một lối nối liền. Tôi du ngoạn giờ
lâu, than rằng :"Thật là tiếng đồn không sai, đất thần tiên cũng không hơn
được vậy ! Chỉ còn hiềm sức người không làm sao đi đến chỗ hoàn toàn như thiên
nhiên được, cho nên tao nhân mặc khách say mê cái khí vị của chốn lâm tuyền từ
lâu là vì thế". Tôi mới làm một bài thơ trên vách, rồi ra đi :
Bán nguyệt ao kia một lối vào
Trước thôn lầu gác dựng xây cao Nhà ngang khắp nẻo hoa bay rụng Cửa rảo quanh hiên trúc mọc bao Chín bậc đèn hương soi cửa Bụt Hai lầu chuông trống động trời chiều Bách tùng đây đó tăng u tịch Dâng quả ngoài sân thiếu vượn trao |
Đề xong, tôi đến dinh
Hiến Nam gặp quan Thư Ký. Nguyên ông này là người Hoan Châu, cùng tôi quen biết
từ trước; ông từng làm việc với quan Chính Đường tại trấn. Tôi ở lại đây vài ba
ngày, mua một số thuốc Bắc, lại mượn lính trấn sáu người đi theo hộ vệ. Ngày
mười sáu, tôi đến huyện Hoài An, xã Nguyễn Xá thăm hỏi nhà vợ tôi và họ hàng
nhà vợ.
Sáng ngày mười tám, tôi
đến Nguyễn xá,
sắm sửa sinh lễ cáo
yết nhà thờ bên vợ, rồi cùng với những người thân thuộc tỏ nỗi cách biệt bấy
lâu. Lúc ấy quan tri phủ Tiên Hư ng cũng ở
nhà, thấy tôi thì mừng rỡ, kể các chứng bệnh của mình ra. Tôi viết cho ông một
đơn thuốc và cho ông một nửa lạng quế. Ông ấy cảm tạ mãi.
Lúc này gia nhân của tôi
và lính theo hầu cộng lại là hai mươi người. Từ kinh đến đây, noi đường thẳng
mà đi thì chỉ mất một ngày. Chỉ vì sợ trên đường về gặp trở ngại, nên đã đi hết
bảy, tám ngày; lương thực đem theo sắp cạn, nên không thể ở lại lâu được.
Ngày mười chín, tôi từ
biệt mọi người lên đường. Nguyên con đường này ở giữa miền sông núi, thuở nhỏ
tôi ở nhà dưỡng phụ tôi tại đó, ngày ngày tôi từng đi du ngoạn. Về phía nam là
một giải động như Hương
Sơn, Giải Oan,
Tiên Am, Tuyết Sơn; về phía tây có Hư ơng Đài, Hương Trản, Vân Mộng và Tiên San. Các chùa trên
núi đều có phong cảnh tuyệt đẹp. Chùa nào cũng có vết chân của tôi. Dùng đư ờng
thủy mà đi thì dễ ngắm phong cảnh. Tôi mới mượn thuyền của quan tri phủ, từ bến
sông Nguyễn Xá thuận dòng mà xuôi, đến đỉnh Hà Xá là đến nhà bên mẹ của cha tôi
xưa; con cháu nay suy bại, không để dấu vết, tôi có đến tìm cũng không còn ai
trò chuyện được. Tôi sai buộc thuyền ở đình làng, hướng trông phần mộ tổ, vọng
bái mấy bái, rồi lại xuống thuyền mà đi.
Từ Trinh Tiết (tên xã)
đến Phù Viên (tên xã) ước bốn, năm dặm, hai bên bờ sông toàn là danh lam thắng
tích, nơi nơi đều nom thấy rõ. Phàm những chốn tôi qua chơi thuở nhỏ đều hoặc
ẩn hoặc hiện, tưởng tượng kỹ lại cũng tự thấy rõ rồi. Cảnh ấy tình này đã vậy,
lại nhớ đến những người thuở trước, kẻ còn người mất, luống những thở than.
Bỗng nghe chuông chùa Mãn Nguyệt vang lên mấy tiếng; đã buồn bã thêm, tôi mới
ngâm một bài thơ để tỏ nỗi lòng :
Ngày nay trở lại chốn xưa trông Đình Hà bến cũ hoa trong bụi Xã Đặng thôn chài bãi giũa đồng Hương Tích nam nhô ngưng sắc biếc Tuyết Sơn tây hiện ngất triền sông Sơn tăng ví biết tâm tình khách Đừng để thuyền vang động tiếng chuông |
Buổi tối hôm ấy tôi đến Châu Cầu, lên bờ ngủ trọ, sáng hôm sau khởi hành. Từ đó đêm ngủ ngày đi,
chẳng cần phải nói. Vài ba ngày sau đến Vĩnh Dinh, tôi vào yết kiến quan Thự
Trấn, giãi bày tấm lòng xa cách bấy lâu. Vì quân lính theo hầu mỏi mệt, tôi
phải mượn vài ba người lính ở đây theo về.
Ngày mùng hai tháng mười
một, tôi về đến nhà cùng vợ con kể lể mọi việc. Ngày hôm sau tôi cho binh lính
theo hầu tùy tiện, kẻ trở về nhà, kẻ lại kinh. Tôi sắm sinh lễ cúng tổ tiên.
Hương lý thân bằng đều đến hỏi thăm và có lễ mừng. Nỗi xa cách nhớ nhung cũng
là thường tình, chẳng phài dài lời.
Vài ba ngày sau nữa,
quan Chính Đường bị
hại, toàn gia bị giết. Tôi nghe vậy than rằng :"Giầu sang khác chi mây
nổi, ca nhạc lâu đài một sớm thánh hoang phế vậy". Tôi lại mừng thầm
:"Ta ẩn tung tích nơi lâm tuyền, chẳng phải lo nghĩ gì đến lẽ cùng thông, một sớm bị
triệu, chống gậy về kinh, một năm trời trôi qua đã phải trăm thỉnh nghìn cầu
mới được ra khỏi. Ví phỏng ý nguyện lúc đầu là chẳng muốn được một quan chức gì
mà ngay nay danh chửa thành, thân đã bị nhục, thì dẫu có hối hận cũng là muộn
mà thôi". May còn giữ được lời thề với non xưa. Tuy ở chốn danh lợi mà
chẳng để danh lợi mê hoặc, bẽ bàng mà đến, nghênh ngang mà đi; lại gặp non xưa,
tựa vào đá, ngủ trước hoa, mơ màng trong mộng; nghe có lời nói văng vẳng bỗng
sực tỉnh, thầm nghĩ :"Ta chẳng bị người chê cười, chẳng qua lòng không
tham mà thôi".
Sau này nhân lúc cung
đàn chén rượu được nhàn hạ, tôi mới cầm bút đem đầu đuôi câu chuyện ghi lại để
về mai sau, con cháu xử thế nên tùy duyên, thủ phận, biết tự mãn, biết tự
ngừng, tránh sự tham lam làm vinh, noi cái gương sáng này vậy.
Hoàng triều Cảnh Hưng năm thứ bốn mươi tư (1783)
Cuối mùa đông Quý Mão ghi chép
Cuối mùa đông Quý Mão ghi chép
1.
Trường
Tín : không rõ bến
sông nào.
2.
Cửu
bệ : chín bậc thềm. Ý
nói bậc cao, chỗ vua ngồi, cũng chỉ nhà vua.
3.
Long
lâu : cái lầu trên cửa
ra vào, có gắn con rồng bằng đồng.
4.
Nguyễn
Xá : một xã thuộc phủ
Ưng Hóa, tỉnh Hà Đông bây giờ.
5.
Sinh
lễ : đồ cúng tế có
con vật sống.
6.
Tiên
Hưng : tên một phủ nay
thuộc tỉnh Thái Bình.
7.
Hương
Sơn : tên núi thờ
Phật, thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông.
8.
Giải
Oan : tên chùa ở lưng
chừng núi, cách chùa Tiêu San độ hai cây số; nơi đây có giếng nước, múc nước mà
uống thì oan khổ sẽ được rũ sạch, vì thế mới có tên chùa. Từ đây qua núi Trấn
Song là đến chùa Hương Tích.
9.
Tiên
San : tên động, nơi
đây có chùa nên cũng gọi chùa Tiên San. Đường đi Hương Sơn phải đi qua chùa
Tiên San.
10.
Châu
Cầu : tên một làng
thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, quê của danh sĩ Bùi Ân Niên, tức Bùi Dị.
11.
Quân Tam phủ nổi loạn
(loạn Kiêu Binh). Năm 1674, quân Tam phủ giết Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và
phá nhà Phạm Công Trứ; năm 1741, chúng lại phá nhà và toan giết Tham Tụng
Nguyễn Qui Cảnh. Sau khi chúa Trịnh Sâm mất được ít lâu, chúng nổi lên, giết
quận Huy tức quan Chính Đường, phò Trịnh Khải lên làm chúa tức là Đoan Nam
Vương. Năm sau, Nguyễn Điều đem quân tứ trấn về dẹp tan. Cái chết của quan
Chính Đường đã được tả trong sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
12.
Cùng
thông : lúc khốn quẩn và
lúc hanh thông.
No comments:
Post a Comment