Friday, October 16, 2015

Tôi dùng quyển "Bần nữ thán" của nhà xuất-bản Tân-Việt (sáng lập năm 1937), tại 20 Amiral
Courbet, Sai-gòn (quyển này in khoảng 1952).

Toát-yếu
"Bần nữ-thán" không phải là truyện ký, chỉ là một thiên văn vần, thể song thất lục bát, gồm có
216 câu. Tác giả là một vô-danh-thị, viết theo lời than của gái nghèo, có thể tóm-tắt chia ra từng
đoạn nhỏ:
1.- Cất tiếng than
2.- Tự xét mình
3.- Mong được thế này thế khác
4.- Có ngờ đâu...
5.- trách trời
6.- Trách Nguyệt-lão
7.- Trách chị Hằng
8.- Trách người đời
9.- Tức-tối
10.- Xét chỉ vì nghèo.
11.- Nỗi buồn-rầu
12.- Tự yên-ủi
13.- Hy-vọng
14.- Còn nhiều hy-vọng,
15.- Đợi chờ.
Ngày 14 tháng 8 năm 2003, tôi chuyển sang kiểu trình bày mới. Khi đọc tới chỗ có hình thì quý
vị để con chuột tại đó; sẽ thấy phần chú-thích của chữ ngay đằng trước.
Cách mới đòi hỏi dùng Internet Explorer.
1- Cất tiếng than
Kiếp phù-thế , nhân-sinh thấm-thoắt,
Vì chữ bần, nên ngắt chữ duyên !
Ai làm số-phận xui nên ?
Há thua sắc thắm, há hèn màu tươi.
Con tạo-hóa trêu ngươi chi tá ?
Đem sắc, tài thu cả vào khuôn.
Hiên tây thấp-thoáng trăng suông,
Gió vàng hiu-hắt như tuôn mạch sầu.
Niềm tâm sự thấp cao mọi nỗi,
Tình cảnh này biết nói cùng ai ?
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Bực mình mà gửi mấy lời vân vân:
2- Xét mình
Nghĩ mình cũng dự phần son phấn,
Cũng dự phần ngọc trắng, gương trong,
Cũng môi son, cũng má hồng,
Cũng màu thi-lễ cũng dòng trâm anh.
Cũng chải-chuốt màu thanh vẻ quí,
Cũng não nùng trâm vẽ, hương xông,
Cũng hay nữ-hạnh, nữ-công,
Nữ-ngôn cũng lịch, nữ-dung cũng mầu.
Vẻ quyền-quí phong-lưu cũng thuộc,
Nết đoan-trang, trinh-thục cũng ưa,
Ở-ăn nề-nếp sau xưa,
Dám sai phận gái mà thưa phép nhà.
Việc canh-cửi, tay đưa chân dận,
Đường dệt-thêu bướm lượn óng đôi,
So xem quốc sắc, nũ tài,
Đã trong gia-huấn, lại ngoài nam-phong.
Khi nối gót kiếm, cung, kỵ, ngự,
Khi theo đòi kinh-sử, tứ thư,
Khi lựa vận, lúc so tơ,
Khi bầu Lý Bạch, khi cờ Trương Ba.
3- Mong được thế này thế khác
Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ-dị.
Nhưng cũng trong ý-nhị thanh tân,
Những mong vườn hạnh gặp tuần,
Gieo cầu đáng dịp,nhắc cân đương vừa,
Tuy chưa chắc cung-phi hoàng-hậu,
Thì cũng rằng mệnh-phụ, phu-nhân,
Hoặc là tài-tử, giai-nhân,
Thì công sửa túi nâng khăn cũng đành !
May mà gặp khoa danh, khoa giáp,
Cũng bõ công đánh sáp soi gương.
Những công trang-điểm sửa-sang,
Dẫu treo thước ngọc, nhà vàng cũng nên !
Tưởng không nổi giận duyên, tủi phận,
Tưởng không điều nhạt phấn, phai son !
Một hai tính cuộc vuông tròn,
Đào còn đương thắm, liễu còn đương tơ.
4- Có ngờ đâu
Ngẫm duyên-phận, ai ngờ nên nỗi,
Nghĩ nguồn cơn, dở-dói thêm càng,
Vì đâu nên nỗi dở-dang?
Nói càng thêm giận, nhĩ càng thêm thương.
5- Trách trời
Con tạo-hóa, đa đoan lắm nhẽ ?
Cái tiện-nghi chẳng xẻ cho cân.
Giàu thì trọn vẹn mười phần,
Khó không cho một vài phân với người !
6- Trách Nguyệt-lão
Tay nguyệt-lão trêu ngươi chi mấy ?
Cầm lấy dây giữ mãi thế mà ?
Giàu thì nẩy mực đương vừa,
Khó thì để mãi trơ trơ sao đành ?
7- Trách chị Hằng
Chị Hằng lại đành-hanh chi mấy ?
Quyết đang tay giữ mãi khăng khăng,
Cầm cân chẳng nhắc cho bằng,
Giàu thì nhắc đến, khó hằng chịu trơ!
8- Trách người đời.
Trách người thế mập-mờ có một,
Bỏ vàng mười mà chuốc thau ba,
Trách thay người thế mập-mờ,
Chơi non chẳng biết rằng là non thanh.
Trách người thế vô tình lắm lắm,
Cảnh thanh-kỳ bỏ vắng chẳng chơi.
Trách thay người thế mà sai,
Chỉ tham bông thắm, nỡ hoài bông thơm,
9- Tức-tối
Tưởng thế-sự ai làm nên nỗi,
Nghĩ càng thêm tức-tối, trăm chiều,
Hay là số-phận làm sao,
Xui ra duyên-phận hẩm-hiu thế mà !
Hay là kém da ngà mắt phượng,
Hóa cho nên bướm chán ong chê,
Hay là nắng chẳng thương huê,
Để rầu bông thắm, để xơ nhị vàng ?
Hay là kém màu gương, nước tủy,
Hay là thua màu quí vẻ thanh,
Hay là thua đẹp, thua xinh,
Thua son, thua phấn, thua tình, thua duyên.
10- Xét chỉ vì nghèo
Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,
Hóa cho nên thua sắc, thua tài,
So ra ai đã kém ai,
Kẻ kia tám lạng, kẻ này nửa cân.
Vốn đã biết cái thân kẻ khó,
Có dám đâu đánh đọ với giàu.
Rằng thì mang tủi đeo sầu,
Nói càng ấp-úng, nghĩ thêm ngại lời.
Xuân xanh kể đôi mươi có lẽ,
Quả mai còn ba bảy đường tơ.
Kìa như đông-bích lân-gia,
Kẻ đà bốc phượng người đà mộng lan !
Cũng mang tiếng hồng-nhan với thế,
Nỡ nào nên ruồng-rẫy chẳng thương.
Bao nhiêu thêu-dệt y-thường,
Vì người ta sửa tư-trang lấy chồng.
Cũng mang tiếng má hồng mặt phấn,
Luống năm-năm chực phận phòng không.
Há rằng hoa chẳng chìu ong,
Cho nên tủi phận thẹn hồng lắm thay !
Bắc thang đến cung mây mà hỏi,
Biết bao giờ phượng tới cành ngô ?
Bao giờ bắc lại cầu Ô,
Mà cho ả Chức chàng Ngưu tới gần?
11- Nỗi buồn-rầu
Tình rầu-rĩ thôi xuân lại hạ,
Cảnh thốt-nhiên xuất đơn" thu quá đông qua .
Rắp toan hỏi nguyệt than hoa,
Nguyệt trong mây tối, hoa đà ủ bông.
Giải phiền sắp so cung mượn chén,
Lựa vần nghĩ cuộc giải phiền,
Cờ tiên nước bí, thơ tiên túng vần.
Đêm thanh những âm-thầm với bóng,
Mặt âm-thầm mà bụng ủ-ê,
Buồn trông gương sớm đèn khuya,
Gương mờ nước thủy, đèn loe lửa phiền.
Buồn trông cảnh, cảnh xiên bóng bạc,
Buồn trông trăng, trăng gác non tây,
Buồn trông ngọn cỏ lá cây,
Tháng ngày theo ngọn gió bay tơi bời.
Buồn trông tranh, thẹn người tố nữ,
Buồn ngâm thơ, tủi chữ thanh-xuân,
Buồn trông mây kéo dần dần,
Như tuôn khói tỏa, như vần khí thiêng.
Trông non tây đá xiên lỗ-chỗ,
Trông bể đông sóng vỗ mênh-mông,
Lại càng như nấu như nung,
Như hun, như đốt, càng nồng, càng mê.
Trông ngàn bắc so-le ngọn cỏ,
Trông bể nam, nhấp nhố thuyền câu,
Lại càng như dệt như thêu,
Như vò như cuộn, càng khêu càng buồn.
Nghe oanh thành véo-von rộn-rã,
Nghe quốc hè ra rả giọng rên,
Lại càng ngơ-ngẩn lao-đao,
Lại càng tức-tối tâm bào lắm nao !
Nghe đêm thu ve sầu ri-rỉ,
Nghe đêm đông dọng dế nỉ-non,
Lại càng rầu-rĩ bồn-chồn,
Lại càng tức-tối gan vàng chẳng xong.
Buồn muốn nói, nghĩ không nên nói,
Buồn muốn trông, lệ lại chứa-chan,
Sắt cầm muốn lựa phím loan,
Dọng sầu ra-rả cho đàn ngang cung.
Buồn cầm quạt, khi phong khi mở,
Ngâm thơ tình, tình nhớ, tình quên,
Thương vì phận, xót vì duyên,
Chẳng ai phận nấy, hóa nên nỗi buồn.
Càng nghĩ lắm, tâm-hồn tức-tối,
Nghĩ nguồn cơn nông-nỗi càng đau,
Chẳng qua kẻ trước người sau,
Thôi thôi, ta sẽ bán sầu làm tươi.
12- Tự yên-ủi
Lọ là phải bàn may bàn rủi,
Lọ là nên kẻ tủi người sầu,
Ai ơi, xin chớ cười nhau,
Chẳng qua mai trước, hạnh sau khác gì.
Mai nở trước, mai cười hạnh muộn,
Hạnh nở sau, hạnh ngán mai suy,
Hạnh, mai cười lẫn nhau chi,
Đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa.
13- Hy-vọng
Kìa trai già có khi nở ngọc,
Nọ trúc đông có lúc nẩy măng,
Kìa thì nước nọ thì trăng,
Trăng thường tròn khuyết, nước hằng đày vơi.
Đêm thì có khi dài khi ngắn,
Thời-tiết trời khi nắng khi mưa,
Năm khi thiếu, có khi thừa,
Ngày thì khi sớm khi trưa khác nào.
Có đâu lại gieo đào trả lý,
Có đâu nên nhắn cá gửi chim,
Miễn cho chí ở cho bền,
Chẳng lo phận khó, chẳng phiền muộn duyên.
Kim, Kiều nọ, uớc-nguyền mấy độ,
Phan, Trần kia gắn-bó bao lâu,
Ấy là sớm đã gặp nhau,
Mà còn cách trở lâu lâu sum-vầy.
Kim-cúc nọ, sương bay mới nở,
Kinh-tùng kia, tuyết vỗ càng xanh.
Kìa sen, tiết muộn cành xinh,
Có khi cũng gặp duyên lành như ai.
14- Còn nhiều hy-vọng
Hễ hãy còn mày ngài mắt phượng,
Hễ hãy còn má phấn môi son,
Con đời, còn nước, còn non,
Hãy còn cát-sĩ hãy còn cát-nhân.
Thôi thì thôi, vườn xuân chực khóa,
Giận những loài nhạn cá ỏi tai !
Thôi thì vườn khóa then cài,
Lấp dòng lá thắm, ngăn loài chim xanh.
Nỡ nào để hồng ngâm chuột vọc,
Nỡ nào để hạt ngọc ngâu vầy,
Quyết gan chờ kẻ cân-đai,
Sớm khuya đành phó mặc nơi thanh-hoàng.
Mã Long-tuấn gặp chàng Bá Nhạc,
Ngọc Kinh-sơn gặp được Biện Hòa.
Nước non kia hẳn chưa già,
Nhân-duyên kia định, cũng là có nơi.
Còn hàn-vi biết ai hay ai dở,
Trải phong-trần mới rõ khá hèn.
Hễ mà vận đến thì nên,
Giàu-sang cũng có, nhân-duyên cũng mầu.
15- Đợi chờ:
Phượng chắp cánh kia còn đợi gió,
Rồng sinh răng cũng biến lên mây,
Trăm năm có phải một ngày,
Ôm cầm lựa-lọc so dây bốn bề.
Nên kết tóc xe tơ cho phải,
Đáng văn-nhân tài-tử mới trao,
Ngọc lành còn đợi giá cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc,
Khó đành khó, khó chẳng lụy ai.
*
* *
Giận duyên nói bấy nhiêu lời,
Ai khen cũng mặc, ai cười mặc ai.

No comments:

Post a Comment