Tuesday, October 13, 2015

Phiên bản 2. SẤM TRẠNG TRÌNH

Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ xây nền
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bỉ thái lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
Ðông A âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy Đế đô vạn toàn

Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dễ khẳng nhìn giúp cho
Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đắp núi khi say xây thành
Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người

Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu
Thống (
?) rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân ?
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non
Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi

Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã giơ ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

Một góc thành làm tâm chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình ?
Nội thành ong ỏng hư kinh (M-L?)
Ðầu khỉ tin sứ trèo thành lại sang

Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giửa hai xuân bỗng phá tổ Long
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nay sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
Xum xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

Máy Hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi ?
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẫy chừng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này

Nói cho hay Khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Thánh nhân (rồng) dấy lên ở phương Bắc (Khảm cung), vào thời gian lục thất. Lục thất nguyệt gian có thể dựa trên lịch Thái Ất ( ? ), trên vận thất khai ( ? ), cụ Ba La không giải rõ mà chỉ nói Thánh nhân xuất vào thời này, nhưng trước khi xuất thì "phương Bắc phải mạnh lên đã rồi mới tới đúng thời". Chữ lục thất giống sấm Nostradamus nói về tháng 7 tháng 8 dương lịch 1999, tức tháng 6 tháng 7 âm lịch chăng ? Nếu vậy thì đây là đoạn sấm tính chu kỳ tinh đẩu kỹ càng như sấm Nostradamus. Chúng tôi nghĩ chữ lục thất đã được xử dụng trong cả bài sấm của Sư Vạn Hạnh, như vậy đây là một ẩn ngữ hoặc một cách tính chiêm tinh lý số mà bây giờ không mấy ai thấu triệt.

Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì Phụ Nguyên mới trổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Thánh nhân xuất bốn phương an tĩnh, mọi người mọi phe qui phục, bờ cõi mở rộng, thần châu bao gồm châu Kinh châu Dương khi xưa thuộc địa phận Bách Việt sẽ thu lại vẹn toàn cho nòi giống.

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài


Chữ Đà giang bị vua Tự Đức đổi là Hoàng giang, một con sông gần vùng phát tích của họ Nguyễn (Gia Miêu, Thanh Hóa), đổi như vậy dễ nhận ra vì câu sau Tây phong (Tây phương ? ) ăn khớp với Đà giang, thuộc phương Tây đối với Thăng Long hoặc đối với Bạch Vân Am nơi Trạng Trình nhìn sao chép Sấm. Sau này có cơ quan tuyên truyền đổi thành: Lại nói sự Nam Đàn sinh thánh, Nam Đàn thuộc Nghệ An, phía Nam ! (Ông Phan Khắc Hòe cũng đã thuật lại năm 1945 chính ông đã đặt ra câu sấm: Đụn sơn phân giái, Bò đái thất thanh, Nam đàn sinh thánh để thuyết Bảo Đại thoái vị - Tạp chí CS 11 -82 Hà Nội).

Đại Ý: Thánh nhân trị nước thanh bình nhân đạo như thời Nghiêu Thuấn, tài giỏi như Hán Cao Tổ, Quang Vũ Đế trong sử Trung Hoa...


Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
Chọn đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà sớm mai
Đoạn này dùng khoa chiêm tinh, tính chu kỳ tinh đẩu để tìm ra thời thánh xuất, sự tụ hội của các vì sao trên nền trời nước Việt, ở đây là sao Ngưu (chủ tinh, xem phần chữ Nho) và sao Đẩu, sao Thai trên phương Bắc vốn là phương chính khí theo Dịch lý. Danh hiệu Bạch Sỉ của Thánh nhân được nhắc tới nhiều lần trong bộ Sấm. Bạch liên hệ tới tên Thánh, Sỉ hàm chữ Nhân, tức thánh Tản Viên. Tản Viên Sơn Thánh là một trong tứ bất tử của dân tộc Việt, ngài hóa thân vào một nhân vật để trị nước an dân.
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường


Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Đoạn này mô tả dung mạo đức độ thánh quân vương, ngài xuất từ phương Đoài (tây phương, kim tinh). Thể thơ lục bát cho thấy đoạn sấm được viết vào thời sau, thế kỷ 18 – 19 - 20, như một công trình chú giải Sấm Trạng Trình bằng thơ nôm. Có thể đưa ra giả thuyết là Trạng Trình không viết Sấm, chỉ đọc một số quẻ Dịch (như quẻ Càn thuần quái cho học trò là Trương Thời Cử) hoặc quẻ Thái Ất... các môn sinh ghi nhớ sao chép lại, từ đấy lời Sấm được truyền đi, bằng chữ hoặc bằng lời. Một số quẻ tiên tri như vậy dần dần được chú giải thêm bằng thơ nôm sau này trong giới nhà Nho, nhà Chùa...tới thời hiện đại Sấm Trạng Trình trở thành một công trình tập thể.

Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu

Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cùng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ

Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới ngẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

So mấy lời để tàng kim quĩ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng

Xem Đoài cung đến thời bất tạo
Thấy Vĩ tinh liệu dạo (chạy) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
Vĩ tinh, sao chổi, là điềm rất xấu đối với Đông và Tây. Năm 1910 sao chổi Halley có đuôi dài hết chân trời, các lần xuất hiện trước vào năm 1531, 1607, 1682, 1758... lần gần đây nhất là năm 1986. Cổ nhân thấy sao chổi, mây thành (mây đen kín và thẳng băng chân trời như bức thành đen dài) chiêm nghiệm là loạn lạc binh biến xẩy ra. Năm 1949 có mây thành xuất hiện ở miền Bắc và chiến tranh kéo dài suốt 25 năm. Hai câu cuối nhiều người cho là ứng vào cuộc chiến Việt Nam vừa qua, đàn bà trẻ con thiếu niên cũng được dùng vào chiến trận. Nơi tam hiểm có người cho là núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhưng nếu ẩn thân vào những nơi đó thì phải vào thời xưa mới bảo thân được, thời nay chiến tranh bom đạn không còn nơi nào trốn tránh an toàn.

Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

Phá điền đầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vả lại thêm hung kiệt mất mùa

Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày

Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi nào bảo thân

Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình
Bốn bề núi đá diễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật Đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào ?
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào Thần kinh

Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẩm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để lấy dấu truyền
Ngẩm xem bốn báu còn in đời đời
Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là Tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Phả Lại, còn gọi là An Nam tứ khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng như là dấu ấn của triều đại vương đạo thịnh trị. Triều Lý khởi đầu vào năm Canh Tuất 1010, được 215 năm, thì bị họ Trần diệt. Trong các vương triều Việt Nam, đây là vương triều dài liên tiếp nhất và tương đối nhân đạo nhất sau đời Hùng Vương. Đồng dao có câu:

Bao giờ rừng Báng hết cây,
Đầm Long hết nước Lý nay lại về

Rừng Báng và Đầm Long gần Đình Bảng, đất phát tích của họ Lý một ngàn năm trước. Nay rừng Báng cây đã chặt hết, đầm Long đã lấp từ lâu, vậy là tới chu kỳ họ Lý trở lại chăng


Thần Qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường

Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang Vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều chỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm Giáp Tí vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chẳng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Đoạn này nhắc lại Bảo giang và lục thất, hai chữ lục thất chưa thấy tài liệu nào giải được rành mạch. Có thể chắc rằng đây là một cách tính trong kinh Dịch, Thái Ất... để cho mốc thời gian từ đó có thể tính ra chính xác thời điểm xuất hiện của "Ngưu tinh tụ Bảo giang" và "Đại nhân cư chính trung". Trong đoạn sấm khác cũng có câu tương tự
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian

Trong khi chờ đợi các bậc cao minh nghiên cứu lý số tinh đẩu để xác định, may thay trong đoạn số 5 và số 6 người xưa đã cẩn mật để thêm một mốc nữa đánh dấu thời điểm thánh xuất: Câu "Ngẫm về sau họ Lý xưa nên" được nối tiếp ở đoạn sau: "Nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn". Như vậy đã khá rõ khi ta đọc liền lại hai câu là nghìn năm sau họ Lý lại thấy mọi nơi vẹn toàn. Triều Lý khởi đầu năm 1010, khoảng nghìn năm sau là 2010, hợp với câu Sấm: Canh, Tân, tàn phá (Canh Thìn 2000 ?, Tân Tỵ 2001 ?), Tuất, Hợi phục sinh (2006 - 2007 ?), nhị ngũ dư bình (nhị ngũ có thể là năm nhuận tháng 5 ?) sẽ thái bình. Hai câu sấm khác cũng diễn tả tương tự :

Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa
Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày

Chó là năm Tuất, Lợn là năm Hợi, cùng hợp vào câu "Tuất Hợi phục sinh". Câu "Thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về" và câu trên "Có thầy Nhân Thập đi về" nhấn mạnh khéo léo những chữ Nhân ám chỉ tên thánh Tản và cũng hàm ý nhân nghĩa đạo đức của bậc Thánh quân vương.

Chữ Giáp Tý có thể bị vua Tự Đức đổi vì năm Giáp Tý (1804) là năm vua Gia Long được Tầu phong vương mặc dù lên ngôi từ năm Nhâm Tuất (1802). Nếu suy diễn một nghìn năm sau nhà Lý đúng, thì câu đó phải đọc là năm Mậu Tý 2008 đi liền sau 2 năm phục sinh Bính Tuất 2006 và Đinh Hợi 2007.

Nếu là năm Giáp Tý chu kỳ sau, 2044, thì lại không ứng hợp với câu nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn (sau nhà Lý). Chữ Đà giang bị đổi thành Hoàng giang, chữ phụ nguyên (chiết tự thành chữ Nguyễn) cũng có thể đã bị sửa vào đời Nguyễn. Tưởng cũng nên kể ra ở đây một sự kiện lịch sử lý thú là con cháu Hoàng tử Lý Long Tường lưu lạc sang Hãn Quốc từ bảy trăm năm nay, đã trở về thăm đền Lý Bát Đế tại Đình Bảng, Kinh Bắc, và lễ tổ vào năm 1997. Như vậy một phần nào lời Sấm đã bắt đầu ứng nghiệm và đang mở dần dần ra.

* Theo lời Bốc sư Ba La, Sư Vạn Hạnh đã biết núi Tản Viên là tổ sơn, Bảo giang, Bảo Sơn có đại thế phong thủy nên đã đặt đất cho nhà Lý để nghìn năm sau tái phát thánh vương, lấy đại địa tối linh phối hóa vào Nhân Thập Bạch Sỉ với đại hồng vận non sông.

* Năm 1963, một nhà Chiêm tinh Ấn Độ sang Việt Nam và đã nhìn thấy ma khí trong dinh Độc Lập, sau ngày chính biến 11 - 1963, ký giả Phan Nghị trên báo Ngôn Luận đã tường thuật cuộc phỏng vấn bị kiểm duyệt trước đó, bài tường thuật có 2 điểm rất đáng chú ý: Một là nước Việt Nam có nhiều cơ hội để thống nhất, hai là ông (Chiêm tinh gia Ấn) nhìn thấy một vì sao rất sáng trên vòm trời Khảm phương nước Việt, báo hiệu sự giáng thế của một đại nhân.
14 - Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Vững nền Vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước Vạn Xuân lâu dài
Bậc chân nhân xuất ở phương Tây cùng thất thập nhị hiền tướng (xem phần Sấm chữ Nho), phân phân tùng bách khởi, nhiễu nhiễu xuất Đông chinh,đây là cuộc đại tập hợp dân tộc, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn của quần tiên phá chấp, từ bi đại lượng, không một giọt máu đổ. Lúc ấy núi sông sẽ vững âu vàng, thế nước Vạn Xuân lâu dài Vương đạo.

Vừa năm Nhâm Tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
Mỗi thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao ?
Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay ?
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra am chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
Chờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn

Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết lăng loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỉ dân thì khốn thay

Tiếc tài ngẩm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
Khá xem nghiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nghiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ Thánh sẽ nên tay anh hùng
            Còn bên thì náu chưa xong
            Nhân lực cướp lấy thiên công những là
            Ðời ấy những quỉ cùng ma
            Chẳng còn ở thật người ta đâu là
            Trời cao đất rộng bao xa
            Làm sao cho biết cửa nhà đế vương ?
Dù cho (trai) ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trong 8 câu này lại thấy Bảo giang, Khảm phương chỉ phương hướng thánh xuất, ba chữ lục thất gian chỉ định tuần này hưng vương. Đọc đoạn này càng thấy rõ hai chữ lục thất là chìa khóa Tử vi tinh đẩu xác định thời điểm hưng vương, thánh Tản hóa thân xuất hiện trên vòm trời Việt với chủ tinh sao Ngưu ở trung ương và các phụ tinh rực sáng chung quanh Khảm phương. Chìa khóa đó nằm trong Thái Ất, Tổng Trì Tam Ma Địa, Quẻ Dịch...mà hiện tại không còn mấy ai thấu triệt. Có thể Trạng Trình đã xử dụng nhiều khoa lý số - trong đó phải có khoa chiêm tinh - để đi đến một quẻ tiên tri vận số quốc gia ngũ bách niên hậu. Điều này Sư Vạn Hạnh đã làm trước Trạng Trình 500 năm và đã xử dụng khoa Tổng trì Tam Ma Địa với ảnh hưởng chiêm tinh học Tuyết sơn Hy Mã do các nhà sư Tây Trúc mang sang trung tâm Luy Lâu (thuộc Kinh Bắc). Bài Sấm của Vạn Hạnh được ghi trong chính sử có ba câu kết đáng chú ý:

Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình.

Đoài cung, phương Tây, và lục thất gian được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Sấm Trạng Trình. Có thể Trạng Trình chỉ xác định lại lời tiên tri của Vạn Hạnh. Vạn Hạnh nhìn ra ẩn tinh một ngàn năm sau và Trạng Trình cũng nhìn ra năm trăm năm sau bằng cùng một khoa lý số học. (Xin xem phần Sấm Vạn Hạnh)
.
Trí xem nghiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
            Gà kêu vượn hót vang lừng
            Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
            Nhân dân vắng mạt bằng tờ
            Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương Khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Đoạn này mở rộng đoạn trước: Vua ở Thạch Bàn bên Bảo giang trong khu rừng vắng vẻ. Vua chưa xuất, còn cuốc trăng cày mây chờ thời. Người biết chiêm tinh lý số thấy được mây ngũ sắc hiện ra nơi Khảm cung phương Bắc, thấy chu kỳ tinh đẩu tụ hội trên giang sơn gấm vóc với sao Ngưu tinh trung ương rực rỡ. Có thể đoạn Sấm này được viết ra không lâu (thế kỷ XIX ?) vì người viết đã thấy ngũ sắc mây tức điềm lành, mà điềm lành không thể hiện ra mấy trăm năm trước.

Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi

Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến đời thịnh vượng còn lâu
Đoạn này của hậu thế dựa trên Sấm Trạng đi tìm đất sinh Thánh và mô tả phong thủy địa lý của ngôi đại địa đó. Thạch Bàn Khê là khe suối Thạch Bàn nơi Sơn Tinh tức Thánh Tản lựa chọn ngự giá: "Vương đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở..." theo Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp. Câu Thánh chưa sinh Thánh có nghĩa là Thánh Tản chưa hóa thân vào một vị Thánh vương.Về phương diện phong thủy người ngắm đất thấy Tả long, Hữu hổ, Minh đường và một thế đất hình con voi. Hữu hổ uốn khúc giang này cho biết tay hổ bên dòng sông, Bảo giang tức Đà giang vốn là tay hổ (tả long hữu hổ) theo địa lý vùng đất Hồng Đà, Tam Đảo Tản Viên. Đến đời thịnh trị còn lâu cho thấy đoạn này đã được viết khá lâu, có thể từ thế kỷ XVIII - XIX.

Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn (?)* phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây

Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo (?)* cho hay

(?)*Đoạn này vua Tự Đức sửa

Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình

Canh niên tân phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
Long Hổ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa Tàu

Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương

Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân

Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh

Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái bình
Nam Việt hữu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi Bắc kinh

Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh

Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương

Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương

Thiên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch
Ðạo đức thực dữ đương

Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn Đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương

Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương

Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành

Ðoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
Trần công nại thị phúc lâm
Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất Y Chu
Thứ kỵ phục kiến Ðường Ngu thi hành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .

--- Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ---



Gạn lọc sấm bản

Qua 14 đoạn Sấm gồm 105 câu kể trên, chúng tôi hy vọng đã chắt lọc được những ý chính của tập Sấm quốc ngữ khoảng 400 câu tương truyền là Sấm Trạng Trình. Những câu khác, khoảng 300 câu, chúng tôi không bàn luận vì rơi vào những trường hợp sau :

1- Những câu không phải là sấm trạng: Những câu Sấm (16 câu) do cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng sáng tác vào thời 1930 sau khi Pháp thả bom Cổ Am để tiêu diệt các nhà ái quốc:

Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
Cha con nhà Vĩnh, Bảo cho hay


Các địa danh Kiến An, Vĩnh Bảo, Cổ Am thuộc vùng khởi nghĩa của Quốc Dân Đảng Việt Nam. Hoặc câu :

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây

Tám gà chữ Nho là Bát Kê, ám chỉ Toàn quyền Thực dân Pasquier (đọc âm giống chữ Bát kê !) bị nạn máy bay chết cháy thời đó. Một nhà Nho cùng thế hệ với các cụ Sở Cuồng, Nguyễn Can Mộng... là cụ Ba La (1870 ? - 1973) cho biết thời 1930, để thức tỉnh lòng yêu nước và vận động tinh thần chống Pháp, một số nhà Nho đã đặt ra nhiều bài thơ loại bí hiểm như sấm ký để truyền trong quần chúng. Cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng cũng là người viết ra bài Văn tế Cá Sấu với tên Hàn Thuyên để đề cao văn chương chữ Nôm đã có dấu tích từ thế kỷ XII ! Nhưng cũng chính nhờ các nhà Nho yêu nước đó mà mọi người mới tìm về cội nguồn dân tộc và hãnh diện với kho tàng tinh thần của tổ tiên lưu truyền lại.

2 - Lẫn lộn: Ngoài vài bản đáng tin cậy nhất như bản của Sở Cuồng (1930), bản Nam Ký (1945), nhiều bản sau này in lẫn cả bài Sấm của Sư Vạn Hạnh vào Sấm Trạng Trình

Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành..


Hoặc những câu đồng dao, ca dao như :

Bao giờ ngựa đá qua sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng


Có khi người sau dựa vào một biến cố lịch sử rồi viết ra cũng gọi là sấm :

Đầu cha lộn xuống chân con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi

Chữ Quang (Quang Trung) có chữ Tiểu ở trên, chữ Cảnh (Cảnh Thịnh con vua Quang Trung ) cũng có chữ Tiểu ở dưới, được 14 năm thì dứt.

3 - Rất nhiều câu thơ đặt ra với dụng ý TUYÊN TRUYỀN hoặc chống đối, rồi gán cho Sấm Trạng Trình từ thời nhà Nguyễn tới hiện đại :

Dục lòng chinh chích u mê
Thập trên tư dưới nhất đề chữ tâm
Để loài bạch quỷ Nam xâm...


Thập trên tứ dưới là chữ Đức, với chữ Dục ở câu trên là vua Dục Đức hay Tự Đức, để Pháp xâm chiếm Việt Nam.

Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.


Năm Gà (Dậu 1945), năm Khỉ (Thân 1944), nhà Nguyễn (phụ nguyên) hết số. Sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản lại thấy truyền khẩu hai câu :

Nguyên tử giản cầu kinh Nhật Bản
Phong lôi hỏa thạch chấn Hoa Kỳ


Hai câu khác :

Chừng nào sen mọc biển Đông
Cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi...


Có người giải là hoa Sen (Liên hoa) chỉ Liên Sô bành trướng về phương Đông, có người giải là thời Nhật mang Sen thả ở sông ao, là lúc nhà Nguyễn phải ra đi. Sau này câu trên được đổi thành :

Chừng nào trúc mọc quanh thành...

Để chỉ huy hiệu cây trúc của họ Ngô ở miền Nam ! Khi Phan Bá Vành khởi loạn (1827 thời Minh Mệnh) cũng đặt ra câu sấm:

Trên trời có sao tua rua
Duới đất có vua Ba Vành


Thời 1949 - 50 lại xuất hiện câu sấm :

Bao giờ đá nổi lông chìm
Hồ kia cạn nước ngựa tìm về quê


Đá chỉ Tưởng Giới Thạch, lông chỉ Mao Trạch Đông, Hồ chỉ ***... Hoặc câu :

Bao giờ đường sắt đen xì
Voi đi trên giấy Tây thì về Tây


Cũng là loại sấm bình dân sáng tác văn chương truyền khẩu mà thôi. Tất nhiên cho tới hiện tại vẫn còn những câu sấm bịa đặt do các phe phái truyền ra như "lại nói sự Nam Đàn sinh thánh" của phe này, hoặc câu "bao giờ diều đỏ đứt dây, ma vương điện toán cộng thây đầy đường" của phe khác, càng chứng tỏ tầm ảnh hưởng của Sấm Trạng Trình mỗi ngày một lan rộng và vì thế việc phân định chính giả lại càng cần thiết hơn.

4 - Những câu không có giá trị tiên tri, chỉ là lời thơ mang chất đạo đức KHUYÊN RĂN như :

Một câu là một nhiệm mầu
Anh hùng ngẫm được mới hầu giá cao
Chốn Đông Nam là lò khổ ải
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
Lại giận đấng nam nhi chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý cát hung...


5 - Những câu chứa đựng NĂM THÁNG MƠ HỒ không thể định mốc thời gian như :

Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Tý, Sửu, Dần, hội Thánh hội Thần...
Hội Tiên hội Phật hội ông lão già...
Gà đâu sớm gáy bên đường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không


Có thể là những câu làm ra từ thời xưa, ứng với một hoàn cảnh lịch sử nào đó vào năm Tý năm Sửu, năm Gà năm Mèo... từ những thế kỷ trước mà nay không còn giá trị tiên đoán tương lai nữa. Hàng trăm câu sấm trong nhiều bản in rơi vào trường hợp 4 và 5, không liên hệ tới chủ đề Thánh nhân xuất của Sấm Trạng Trình.

CƠ BÚT THÁNH MẪU LIỄU HẠNH VÀO THỜI VUA TỰ ĐỨC

Dân gian có câu: Tháng Tám giỗ Cha tháng Ba giỗ Mẹ Tháng Tám giỗ Đức Thánh Trần, hóa thân của Phù Đổng Thiên Vương, tháng Ba giỗ Mẹ là giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là hai vị trong Tứ Bất Tử dân tộc: Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Tuy phát sinh sau ba vị kia cả ngàn năm, Thánh Mẫu Liễu Hạnh lại được sùng kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giầy Nam Định, tới Chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An...đâu đâu cũng hiển linh thiêng liêng. Ca dao có câu :

Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi Tản cổ bồng lại có Thánh sinh
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây...


Nguyên ngài là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng đế, giáng trần vào Rằm tháng Tám năm 1557 đời Mạc Phúc Nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên. Năm 18 tuổi kết duyên với Trần Đào Lang và năm 21 tuổi, mùng 3 tháng Ba, thì hóa về cõi Tiên. Sau đó Ngài lại hiện lên an ủi mẹ, chồng, rồi biến mất. Những lần tái giáng sau này Ngài biến hiện, lúc làm thiếu nữ ngâm thơ dưới trăng, lúc trụ trì nơi danh lam thắng cảnh, lúc làm bà lão chống gậy, lúc ngồi gốc tùng gẩy đàn.

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613 ), một học trò của Trạng Trình, đã có lần gập ngài thị hiện khi đi sứ Tầu về qua Lạng Sơn và đã dựng đền thờ Mẫu tại vùng biên giới; lần sau ở Tây Hồ một đêm trăng Trạng Bùng cùng hai người bạn khác họ Lý, họ Ngô xướng họa với một thiếu nữ khuê các mặc áo đỏ. Lúc kết bài: "Trăng tròn soi một bóng Tiên thôi" mới biết là Ngài thị hiện. Về sau, Phủ Tây Hồ được coi là một linh địa nay vẫn còn hương khói ngay giữa Hồ Tây, Hà Nội. Sự thờ cúng Thánh Mẫu "Xuất thế vi Tiên, giáng thế vi Phật" phản ảnh tâm thức Mẹ hiền từ bao bọc, một nguyên lý Mẹ bên cạnh nguyên lý Cha hùng dũng che chở. Sau này cùng dân tộc Nam tiến, nguyên lý ấy lại hoá vào một Thiên Mụ (tương truyền Bà mặc áo đỏ quần xanh giống Chúa Liễu Hạnh !), một Thiên Y A Na, một Bà Đen, phù hộ độ trì cho dân lành.

Vua Tự Đức là một người có văn học thường chú tâm tới văn hóa tín ngưỡng truyền thống. Nhà Vua đã từng ngự giá tới thăm đền thượng Tản Viên Sơn và đã từng đọc và sửa Sấm Trạng Trình, Truyện Kiều...Trong lúc chính sự rối ren, Thực dân xâm lăng chiếm đất, ngài đã cử sứ thần tới cầu Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại đền Sòng xin phụ tiên giáng cơ bút về quốc sự nguy biến. Phép phụ tiên thời xưa có quy luật chỉnh tề: người cầu phải tắm rửa sạch sẽ, ăn chay ba ngày, bày hương án hoa rượu, lại có một mâm gạo để Tiên giáng bút. Bút của Tiên là một cành đào bẻ từ nhánh phía Đông vào buổi sương sáng. Hai ba người hầu ngâm cổ thi để tạo bầu khí, một người phù hương vào mặt và tay người ngồi đồng, khi thấy đồng đảo đảo là lúc Tiên sắp giáng.
Người cầu tấu lạy và Tiên gõ bút đào vào mâm gạo mà viết thật nhanh, một người hầu bút trông nét trên gạo mà thảo ra giấy.

Bài Cơ Bút đền Sòng nổi tiếng này đã được phổ biến từ thời tiền chiến và được in trên nhiều sách báo, đặc biệt có những câu rất giống với chủ đề Sấm Trạng Trình :

1- Hoành sơn một giải ra vào
Cuốc kêu vọng đế, Cáo gào giả vương
Cung trăng đã sẵn trời dương
Giang sơn lại mở một trường Xuân Thu


Bốn câu mở đầu nói ngay về thời suy vi của Triều Nguyễn tại Huế dùng chữ Hoành Sơn của Trạng Trình chỉ cho Nguyễn Hoàng :

Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân,


Nay thì Cuốc kêu vọng Đế (chữ Cuốc vừa nghĩa con chim Cuốc vừa hàm âm Quốc gia), chẳng còn vương đế, mà chỉ có bọn ma cáo giả làm vua ! Âm dương đảo lộn (cung trăng là âm đối với trời dương), giang sơn loạn lạc tranh chấp như thời Xuân Thu Chiến Quốc.

2- Tên đâu ba mũi phục thù
Khen cho Khắc Dụng bầy trò cho con
Ngọn cờ phất phới đầu non
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về
Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngả trắng ba que cuộc tàn

Đoạn này nói khá rõ về lá cờ vàng ba sọc, tiếp nối của nhà Nguyễn với Quốc trưởng Bảo Đại, một giai đoạn xoay vần tới tàn cuộc, với máu đổ lai láng của người Tây dương (dê). Tất cả chỉ là trò bầy đặt. Chữ Khắc Dụng, Thạch Thành mèo lại... chúng tôi không thấy tài liệu nào giải rõ những điển tích này. Riêng chữ Thạch nếu là bộ Thử thì có nghĩa là con chuột lớn, phải chăng là chơi chữ mèo, chuột đuổi nhau ? Thạch Thành còn là địa danh gần đền Sòng (Thanh Hóa) , Khắc Dụng có thể là tên một nhân vật địa phương thời đó chăng ?

3- Trời Nam mở vận Viêm Bang
Chân nhân đâu đến những phường thầy tăng


Đồng dao lại có câu rằng :

Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
Bấy giờ quét sạch thử ly
Ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm


Nhưng rồi nước Việt Nam sẽ tới vận Viêm Bang, trở lại thời vương đạo Lạc Long Hùng Vương. Chân nhân của hồng vận này không đến từ bọn Tây phương (thầy tăng nói lái là thằng Tây) mà là một bậc tên Bạch Sỉ (trắng răng), như Sấm Trạng Trình đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đây là đại vận cường quốc Viêm Việt với bậc chân nhân dẫn dắt nổi lên từ non xanh. Bấy giờ quét sạch bọn chuột (thử), bọn hồ ly (ly) đấy là thiên cơ (ky) mà toàn dân cần ghi tạc. Đoạn này Thánh nói một cách khinh miệt bọn Tây xâm lăng và trấn an bằng cách hé lộ thiên cơ về thời rực rỡ của đất nước sẽ tới. Cũng cần ghi nhận là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, một môn sinh của Trạng Trình, đã hai lần được Thánh Mẫu thị hiện, vậy có liên quan gì giữa Sấm Trạng và bài Cơ bút này không ? Hay tất cả đều cùng phát khởi từ một tàng thức cộng thể dân tộc ?

4 - Đương khi sấm sét ầm ầm
Ấy là khí số để găm trị bình
Vũ phu mà bức thư sinh
Long ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng


Sau thời binh lửa sẽ tới thời bình trị, bọn vũ phu độc ác bức bách thư sinh hiền lương, tới thời "long ô" thì vũ phu bằng mấy bạo chúa Tần Thủy Hoàng cũng không làm gì nổi. Long ô có thể hiểu là rồng đen, nhưng hiểu theo chữ nôm thì ô là ô dù che mưa nắng, tức lọng tản, hợp với ý Bạch Sỉ và Thánh Tản Viên xuất trong Sấm Trạng. Tản (ô), long (rồng) càng rõ ý bậc đế vương Bảo sơn thiên tử xuất hiện.

5 - Nực cười cho lũ bàng quan
Cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe
Thôi thôi mặc lũ thằng hề
Gió mây ta lại đi về gió mây.


Bốn câu kết thúc cơ bút thấy rõ lời lẽ của một giáng tiên, nhìn trần thế như trò hề, cuộc cờ đã tàn mà tục nhân vẫn chưa nhìn ra, còn loay hoay tính chuyện đẩy xe lên dốc ! Giống như hai câu của Nguyễn Khuyến :

Vua chèo còn chẳng ra gì
quan chèo thì có khác chi thằng hề !


Tất nhiên giá trị của phụ tiên cơ bút khó bằng Sấm ký Chiêm tinh vì không dựa trên một khoa học lý số nào. Đã có nhiều cơ bút chỉ phơi bầy tâm thức ước ao của người cầu cơ và nét bút lúc giáng có khi chỉ là tiếng vọng từ tiềm thức hay vô thức trào ra. Nhưng đây là một bài giáng cơ bút cách đây hơn trăm năm, tại một ngôi đền "thiêng nhất xứ Thanh", do Vua cầu và do Thánh Mẫu linh thiêng nhất đất Việt chủ giáng.

Giá trị của bài này có tầm ngang với những huyền khải như huyền khải Fatima, huyền khải Malachy (nhà tiên tri Ái Nhĩ Lan nhìn thấy tên của tất cả chư vị Giáo hoàng La Mã từ thế kỷ XI). Hơn nữa phối kiểm với Sấm Trạng Trình lại thấy cùng một tiên đoán chủ đề: vận Viêm bang, Thánh xuất và Bạch Xỉ. Cho nên Thánh Mẫu, Trạng Trình... cho dù không nói những lời tiên tri chính xác thì cũng cho ta những lời vàng ngọc vang lên từ Tàng Thức Lạc Việt, phổ độ chúng sinh bằng pháp môn huyền vi của các ngài.


No comments:

Post a Comment