U Thant của Miến Điện làm Tổng thư ký
của Liên Hiệp Quốc năm 1962
Ngày 30
tháng 11, 1962
·
1962 – Nhà ngoại giao người Miến Điện U Thant chính
thức đảm nhiệm chức vụ Tổng thư ký thứ
ba của Liên Hiệp Quốc.
U Thant
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thant
U Thant in 1963
Thông tin cá nhân
Quốc tịch Miến Điện
Quan
hệ Po Hnit (cha), Nan Thaung (mẹ), Khant (em trai), Thaung (em trai), Tin
Maung (em trai),
Con
cái Maung Bo, Tin Maung Thant, Aye Aye Thant
Cha mẹ Po Hnit, Nan Thaung
Chữ ký
Thant ( /θɑːnt/; tiếng Miến Điện: သန့်; MLCTS: san.; Phát âm tiếng Myanma: [θa̰ɴ]; 22 tháng 1 năm 1909 – 25 tháng 11 năm 1974), gọi
kính trọng là U Thant ( /ˌuː ˈθɑːnt/) là một
nhà ngoại giao người Miến Điện và là Tổng
Thư ký thứ ba của Liên Hiệp Quốc từ năm 1961 đến năm 1971; là người ngoài châu Âu
đầu tiên giữ chức vụ này. Thant có quê tại Pantanaw, ông theo học tại Trường trung học Quốc gia và tại Đại
học Rangoon.
Pantanaw (Burmese: ပန်းတနော်မြို့ [páɴtənɔ̀ mjo̰]) is a town in the Ayeyarwady Region of south-west Myanmar. It is the seat of the Pantanaw Township in the Maubin District. It is the hometown of
former United Nations Secretary-General U Thant and of the renowned
artist U Ba Nyan.
Trong thời gian tình hình chính trị tại
Miến Điện trở nên căng thẳng, ông giữ quan điểm ôn hòa và đặt bản thân giữa dân
tộc chủ nghĩa nhiệt thành và trung thành với Anh. Ông là một người bạn thân của
thủ tướng đầu tiên của Miến Điện là U Nu, và giữ
một số chức vụ trong nội các của Nu từ năm 1948 đến năm 1961. Thant có thái độ
bình tĩnh và khiêm tốn, giúp ông được đồng sự kính trọng.[1]
Nu (Burmese: နု; pronounced [nṵ]; 25 May 1907 – 14
February 1995), known honorifically as U Nu (Burmese: ဦးနု; pronounced [ʔú nṵ]) or Thakin Nu, was a leading Burmese statesman, politician, nationalist, and political figure of
the 20th century. He was the first Prime Minister of Burma under the provisions of the 1947 Constitution of the Union of Burma, from 4 January 1948 to
12 June 1956, again from 28 February 1957 to 28 October 1958, and finally from
4 April 1960 to 2 March 1962.
Ông được bổ nhiệm làm Tổng
Thư ký Liên Hiệp Quốc vào
năm 1961 sau
khi người tiền nhiệm là Dag Hammarskjöld
thiệt mạng trong một vụ rơi máy bay.
Dag Hjalmar
Agne Carl Hammarskjöld (1905 - 1961) là nhà ngoại giao người Thụy Điển, Tổng thư ký thứ hai của
Liên Hiệp Quốc. Ông làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ tháng 4-1953 tới khi mất trong một
vụ tai nạn máy bay có nhiều tình tiết
đáng ngờ vào tháng 9-1961.
Trong nhiệm kỳ đầu của mình, Thant tạo
thuận lợi cho đàm phán giữa Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy và
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikita Khrushchev trong Khủng hoảng
tên lửa Cuba.
Tháng 12 năm 1962, Thant ra lệnh tiến hành
Chiến dịch Grand Slam, kết thúc nổi loạn ly khai tại Congo. Ông được
tái bổ nhiệm làm Tổng thư ký vào ngày 2 tháng 12 năm 1966. Trong nhiệm kỳ thứ
hai của mình, Thant nổi tiếng vì công khai chỉ trích hành vi của Hoa Kỳ
trong Chiến tranh Việt Nam. Ông giám sát quá trình gia nhập Liên Hiệp Quốccủa một số quốc gia mới độc lập tại châu Phi và châu Á.
Thant từ chối phục vụ nhiệm kỳ thứ ba và nghỉ hưu vào năm 1971. Thant qua đời
do ung thư phổi vào năm 1974. Là một tín đồ Phật giáo nhiệt thành và là nhà
ngoại giao Miến Điện đầu tiên phục vụ trên trường quốc tế, Thant được dân cư
Miến Điện ngưỡng mộ rộng khắp và hết sức kính trọng. Khi chính phủ quân sự từ
chối vinh danh ông, bạo loạn bùng phát tại Rangoon. Tuy nhiên, chính phủ tiến
hành trấn áp mãnh liệt khiến hàng chục người tử vong.
Sinh hoạt ban đầu
Thant là con cả trong bốn anh em, ông sinh tại Pantanaw, Miến
Điện thuộc Anh trong một gia đình địa chủ và buôn gạo tương đối giàu có. Cha
của ông là Po Hnit từng theo học tại Calcutta, Po
Hnit là người duy nhất trong thị trấn có thể giao thiệp tốt bằng tiếng Anh.[2]
Kolkata (IPA: ['kolkat̪a] Bengali: কলকাতা, nepali: कोलकाता), trước đây, trong các văn cảnh tiếng
Anh, Calcutta, là thủ phủ của bang Tây Bengal, Ấn Độ. Thành phố tọa lạc ở
phía Đông Ấn Độ bên bờ sông Hooghly. Thành phố có dân số
khoảng 11 triệu người với một dân số vùng đô thị mở rộng lên đến 14 triệu
người, khiến nó trở thành vùng kết tụ đô thị lớn thứ 3 và là thành phố lớn thứ 3 ở Ấn Độ.
Po Hnit là thành viên sáng lập của Hội Nghiên cứu Miến Điện, và
giúp thành lập báo The Sun (Thuriya) tại Rangoon. [2][3]Mặc dù
các thành viên trong gia đình ông thuộc dân tộc Miến và tôn sùng Phật giáo,
song cha của Thant theo lời Thant Myint-U (cháu ngoại của U Thant) có tổ tiên
xa là "những người đến từ cả Ấn Độ và Trung Quốc, tín đồ Phật giáo và Hồi
giáo, cũng như người
Shan và người Mon".[4] Po
Hnit hy vọng rằng cả bốn người con trai của mình đều có bằng đại học.[5] Những
người con trai khác là Khant, Thaung, và Tin Maung trở thành các chính trị gia
và học giả.[3]
Po Hnit thu thập được một thư viện cá nhân gồm nhiều sách của Mỹ
và Anh, và tạo thói quen đọc sách cho các con. Do đó, Thant trở thành một người
mê đọc sách và bạn cùng trường gán biệt danh cho ông là "nhà triết
học".[6] Ngoài
đọc sách, ông còn tham gia nhiều môn thể thao như đi bộ đường dài, bơi, và
chơi Chinlone.[7]
Người dân đang chơi chinlone tại Myanma
Chinlone (tiếng Miến Điện: ခြင်းလုံး; MLCTS: hkrang:
lum:, IPA: [tɕʰɪ́ɴlóʊɴ]) là môn thể thao truyền thống
của Myanmar. Chinlone là sự kết hợp
giữa thể thao và nhảy múa, chỉ gồm một đội không
đối đầu nhau. Về bản chất chinlone là không phải là môn cạnh tranh, nên không
tập trung thắng thua mà chỉ tập trung vào cái đẹp khi chơi môn thể thao này.
Ông theo học tại Trường trung học Quốc gia tại Pantanaw. Năm 11
tuổi, Thant tham gia bãi khóa chống Đạo luật Đại học 1920. Ông có ước muốn trở
thành một ký giả và khiến gia đình ngạc nhiên khi viết một bài cho tạp
chí Union of Burma Boy Scouts (Liên hiệp nam hướng đạo sinh
Miến Điện). Năm ông 14 tuổi, cha ông qua đời và một loạt tranh chấp thừa kế
khiến cho mẹ của Thant là Nan Thaung cùng bốn người con lâm vào thời kỳ khó
khăn về tài chính.[8]
Sau khi cha qua đời, Thant tin rằng bản thân không thể lấy bằng
cử nhân bốn năm và thay vào đó ông theo học hai năm lấy chứng chỉ sư phạm tại
Đại học Rangoon vào năm 1926. Do là con cả, ông phải hoàn thành các nghĩa vụ
làm con của mình và chịu trách nhiệm với gia đình. Tại đại học, Thant cùng với
thủ tướng tương lai là Nu theo học lịch sử do D. G. E. Hall giảng
dạy.
Daniel George Edward Hall (1891-1979) was a British historian, author, and academic. He
wrote extensively on the history of Burma. His most notable work
is A History of Southeast Asia,
said to "...remain the most important single history of the region,
providing encyclopedic coverage of material published up to the time of its
1981 revision."[1]
Nu được một người họ hàng xa của cả hai nhờ chăm sóc cho Thant,
và hai người sớm trở thành bạn thân.[9] Thant được bầu làm đồng
thư ký của Hiệp hội triết học tại đại học và thư ký của Hội Văn chương và Tranh
luận.[10] Tại
Rangoon, Thant gặp J.S. Furnivall, người
thành lập Câu lạc bộ Sách Miến Điện và tạp chí The World of Books-
nơi Thant thường xuyên đóng góp.
(John Sydenham Furnivall (often cited as JS Furnivall or J.S.
Furnivall) was a British-born colonial public servant and writer in Burma. He is credited with coining the concept of
the plural society and had a noted career as an influential
historian of Southeast Asia, particularly of
the Dutch East Indies (modern-day Indonesia) and British Burma.[1] )
Furnivall thuyết phục Thant hoàn thành khóa đại học bốn năm và
tham gia phục vụ công vụ song Thant từ chối.[11] Sau khi có chứng chỉ, ông
trở lại Pantanaw để giảng dạy tại Trường trung học Quốc gia với thân phận giáo
viên cấp cao vào năm 1928. Ông thường xuyên tiếp xúc với Furnivall và Nu, viết
bài và tham gia các cuộc thi dịch thuật của The World of Books.[12]
Năm 1931, Thant giành giải nhất kỳ Khảo thí giáo viên toàn Miến
Điện và trở thành hiệu trưởng ở tuổi 25.[13][14] Thant
thường xuyên đóng góp cho một số báo chí dưới bút danh "Thilawa" và
dịch một số sách, trong đó có một cuốn về Hội Quốc Liên.[15]
Hội Quốc Liên là một tổ chức liên chính phủ được thành
lập vào ngày 10 tháng 1 năm 1920 theo sau Hội nghị hòa bình Paris nhằm kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là tổ chức quốc tế
đầu tiên có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì hòa bình thế giới.[1]
Những người có ảnh hưởng lớn đến ông là chính trị gia Công đảng AnhStafford Cripps, Tôn Trung Sơn và Mahatma
Gandhi.[6] Trong
thời gian căng thẳng chính trị tại Miến Điện, Thant giữ quan điểm ôn hòa giữa
dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành và trung thành với Anh.[14]
Công chức
Thant cùng Nu năm 1955 khi tản bộ lúc sáng
sớm
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện từ
năm 1942 đến 1945. Người Nhật đưa Thant đến Rangoon để lãnh đạo Ủy ban Tái tổ
chức Giáo dục. Tuy nhiên, Thant không có bất kỳ thực quyền nào và trở lại
Pantanaw. Khi người Nhật ra lệnh cưỡng bách học tiếng Nhật trong các trường
trung học tại Pantanaw, Thant bất chấp lệnh và hợp tác với phong trào kháng
Nhật đang phát triển.[16]
Năm 1948, Miến Điện giành độc lập từ Anh. Nu trở thành thủ tướng
của Miến Điện độc lập, người này bổ nhiệm Thant làm giám đốc truyền thông vào
năm 1948. Đến lúc này, nội chiến bùng phát tại Miến Điện, người Karen bắt
đầu khởi nghĩa và Thant liều mạng đến các trại của người Karen nhằm đàm phán về
hòa bình. Đàm phán đổ vỡ, và đến năm 1949 phiến quân đốt cháy quê ông, trong đó
có cả nhà ông. Phiến quân từng đẩy tiền tuyến đến nơi chỉ cách thủ đô Rangoon
bốn dặm Anh (~6,4 km) song bị đánh lui. Sang năm sau, Thant được bổ nhiệm
làm thư ký của chính phủ Miến Điện trong Bộ Thông tin. Từ năm 1951 đến năm
1957, Thant là thư ký của thủ tướng, viết các bài phát biểu cho U Nu, dàn xếp
các chuyến đi ngoại quốc của ông ta, và gặp các khách ngoại quốc. Trong toàn
thời kỳ này, ông là bạn tâm giao và cố vấn thân cận nhất của U Nu.[16]
Ông cũng tham gia một số hội nghị quốc tế và là thư ký của Hội
nghị thượng định Á-Phi lần thứ nhất vào năm 1955 tại Bandung,
Indonesia, là sự kiện khai sinh Phong trào Không liên kết.
Từ năm 1957 đến năm 1961, ông là đại biểu thường trực của Miến
Điện tại Liên Hiệp Quốc và trở nên tích cực tham gia trong các cuộc đàm phán về
Ageria độc lập. Năm 1961, Thant được bổ nhiệm làm chủ tịch của Ủy ban Liên Hiệp
Quốc về Congo. Chính phủ Miến Điện trao cho ông huân chương Maha Thray
Sithu.[17]
Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc
Tháng 9 năm 1961, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjöld thiệt mạng trong một tai
nạn máy bay trên đường đến Congo. Hội đồng Bảo an gấp rút tìm kiếm một tổng thư
ký mới, song lâm vào bế tắc trong vòng vài tuần sau đó, nguyên nhân là Hoa Kỳ
và Liên Xô không thể đồng thuận về bất kỳ ứng cử viên nào do các thành viên
khác đề xuất. Các siêu cường không còn phản đối khi các đại biểu từ các quốc
gia nhỏ và Phong trào Không liên kết đề cử Thant tiếp tục nhiệm kỳ còn lại của
Hammarskjöld.[14] Ngày 3 tháng 11 năm 1961,
Thant được Đại hội đồng nhất trí bầu làm
quyền tổng thư ký, theo tiến cử của Hội đồng Bảo an trong
Nghị quyết 168. Ngày 30 tháng 11 năm 1962, Đại hội đồng nhất chí bổ nhiệm ông
làm tổng thư ký trong một nhiệm kỳ sẽ kết thúc vào ngày 3 tháng 11 năm 1966.
Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông giành được uy tín rộng rãi do vai trò của mình
trong tháo ngòi nổ Khủng hoảng tên lửa Cuba và
kết thúc Nội chiến Congo. Ông
cũng phát biểu rằng mình muốn làm dịu căng thẳng giữa các đại cường trong khi
phục vụ tại Liên Hiệp Quốc.[18]
Nhiệm kỳ
thứ nhất
Trong một thời khắc nguy cấp—khi các cường quốc hạt nhân dường
như khởi đầu một cuộc chay đua xung đột-sự can thiệp của Tổng thư ký làm chuyển
hướng các tàu của Liên Xô hướng đến Cuba và bị Hải quân ta chặn. Đây là bước
đầu tiên không thể thiếu trong giải pháp hòa bình khủng hoảng Cuba.
Chưa đầy một năm trên cương vị Tổng thư ký, Thant phải đối diện
với một thách thức nguy cấp là tháo ngòi nổ Khủng hoảng tên lửa Cuba, thời khắc
thế giới tiến gần nhất đến chiến tranh hạt nhân. Ngày 20 tháng 10 năm 1962, hai
ngày trước khi tuyên bố công khai, Tổng thống Hoa Kỳ John F.
Kennedy trưng cho Thant các ảnh trinh sát trên không của máy
bay U-2 về các căn cứ tên lửa của Liên Xô tại Cuba. Tổng thống Hoa
Kỳ sau đó ra lệnh "cách ly" hải quân nhằm loại bỏ toàn bộ vũ khí tấn
công từ các tàu của Liên Xô đi hướng về Cuba. Trong khi đó, các tàu của Liên Xô
tiếp cận khu vực cách ly. Để tránh đối đầu hải quân, Thant đề xuất rằng Hoa Kỳ
sẽ đảm bảo không xâm chiếm Cuba để đổi lấy việc Liên Xô rút tên lửa. Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Khrushchev hoan nghênh đề xuất, nó tạo cơ sở cho các
đàm phán tiếp theo.[20] Khrushchev
còn chấp thuận đình chỉ vận chuyển tên lửa trong khi đang diễn ra đàm phán.[21] Tuy
nhiên, ngày 27 tháng 10 năm 1962, một máy bay U-2 bị bắn hạ trên không phận
Cuba, khiến khủng hoảng thêm sâu sắc. Kennedy chịu áp lực mãnh liệt từ Hội đồng Tham mưu trưởng
Liên quân và Ủy ban Hành pháp là phải xâm chiếm Cuba, song ông ta hy
vọng Thant đóng vai trò trung gian và sau đó đáp lại hai cơ quan này, "Mặt
khác chúng ta có U Thant, và chúng ta không muốn đánh đắm một chiếc tàu...ngay
giữa khi U Thant được cho là đang thu xếp để người Nga ở ngoài."[22]
Các cuộc đàm phán tiếp tục, Hoa Kỳ chấp thuận tháo dỡ các tên
lửa tại Thổ Nhĩ Kỳ và đảm bảo không bao giờ xâm chiếm Cuba để đổi lấy việc loại
bỏ các tên lửa Liên Xô tại Cuba. Thant đi máy bay đến Cuba và thảo luận
cùng Fidel Castro để cho phép các thanh sát viên tên
lửa Liên Hiệp Quốc giám sát và trao trả thi thể phi công U-2 bị bắn hạ. Fidel
Castro tức giận trước việc Liên Xô chấp thuận loại bỏ tên lửa mà không cho ông
biết, do vậy thẳng thừng bác bỏ bất kỳ thanh sát viên Liên Hiệp Quốc nào, song
trao trả thi thể phi công, Hoạt động thanh sát được phi cơ và chiến hạm Hoa Kỳ
thực hiện trên biển. Khủng hoảng được giải quyết và một cuộc chiến giữa các
siêu cường bị ngăn chặn.[14][23]
Mặc dù thể hiện là một người theo chủ nghĩa hòa bình và một tín
đồ Phật giáo sùng đạo, ông không lưỡng lự sử dụng vũ lực khi cần thiết. Trong
Nội chiến Congo năm 1962, quân ly khai dưới quyền Moise Tshombe liên
tục tấn công lực lượng của Liên Hiệp Quốc tại Congo. Trong tháng 12 năm 1962,
sau khi lực lượng Liên Hiệp Quốc phải chịu một cuộc tấn công liên tục kéo dài
bốn ngày tại Katanga, Thant ra lệnh tiến hành "Chiến dịch Grand Slam"
nhằm mục tiêu để lực lượng Liên Hiệp Quốc hoạt động hoàn toàn tự do trên toàn
Katanga. Chiến dịch tỏ ra kiên quyết và kết thúc nổi loạn ly khai. Đến tháng 1
năm 1963, thủ đô của quân ly khai là Elizabethville rơi vào tay lực lượng Liên
Hiệp Quốc.[24]
Do vai trò của ông trong việc tháo ngòi nổ khủng hoảng Cuba và
các nỗ lực duy trì hòa bình khác, đại biểu thường trực của Na Uy tại Liên hiệp
Quốc truyền tin cho Thant rằng ông sẽ được trao giải Nobel Hòa bình 1965. Ông
khiêm tốn đáp lại "Chẳng phải Tổng thư ký chỉ làm công việc của mình khi
hành động vì hòa bình sao?"[1] Trên phương diện khác,
Chủ tịch Gunnar Jahn của ủy ban giải Nobel Hòa bình vận động mãnh liệt chống
lại việc trao giải cho Thant, và cuối cùng giải được trao cho UNICEF. Bất
đồng kéo dài trong ba năm và không có giải Nobel hòa bình nào được trao vào năm
1966 và 1967, khi Gunnar Jahn phủ quyết hữu hiệu việc trao giải cho Thant.[25] Một thuộc cấp của Thant,
và cũng từng được trao giải Nobel là Ralph
Bunche phê bình quyết định của Gunnar Jahn là "bất công thô
bạo đối với U Thant."[1]
Đêm trước Giáng Sinh năm 1963, xung đột liên cộng đồng bùng phát
tại Síp. Người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ rút vào các khu tách biệt của họ, khiến chính
phủ trung ương hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của người Síp gốc Hy Lạp. Một
"lực lượng kiến tạo hòa bình" được lập ra dưới quyền chỉ huy của Anh
song không thể kết thúc chiến đấu, và một hội nghị về Síp được tổ chức
tại Luân Đôn trong tháng 1 năm 1964 kết thúc trong
bất đồng. Ngày 4 tháng 3 năm 1964, giữa nguy cơ thù địch gia tăng về quy mô,
Hội đồng Bảo an nhất trì cấp quyền cho Thant lập một lực lượng duy trì hòa bình
tại Síp, với ủy thác giới hạn trong ba tháng nhằm ngăn chặn tái diễn giao tranh
và khôi phục trật tự. Hội đồng còn yêu cầu tổng thư ký bổ nhiệm một nhà trung
gian nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn dề Síp. Thant bổ nhiệm Galo
Plaza Lasso làm trung gian song người này từ chức khi báo cáo của ông ta bị Thổ
Nhĩ Kỳ bác bỏ trong tháng 3 năm 1965, và trách nhiệm người dàn xếp hết hiệu
lực.[26]
Tháng 4 năm 1964, Thant chấp thuận để Tòa Thánh làm
quan sát viên thường trực. Dường như không có sự tham gia của Hội đồng Bảo an
hay Đại hội đồng trong quyết định này.[27]
Nhiệm kỳ
thứ hai
Thant được Đại hội đồng tái bổ nhiệm làm Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc vào ngày 2 tháng 12 năm 1966, theo tiến cử nhất trí của Hội đồng Bảo an.
Nhiệm kỳ của ông tiếp tục đến khi ông nghỉ hưu vào ngày 31 tháng 12 năm 1971.
Trong nhiệm kỳ này, ông giám sát quá trình hàng chục quốc gia mới tại châu Á và
châu Phi gia nhập Liên Hiệp Quốc và là một đối thủ kiên quyết của apartheid tại
Nam phi. Ông cũng cho lập nhiều cơ quan, quỹ và chương trình phát triển và môi
trường của Liên Hiệp Quốc, như Chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc (UNDP), Đại học Liên Hiệp Quốc, Hội nghị
Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển, Viện Liên Hiệp Quốc về
Đào tạo và Nghiên cứu (UNITAR), và Chương trình Môi trường
Liên Hiệp Quốc. Chiến tranh Sáu Ngày giữa các quốc gia Ả Rập
và Israel, Mùa xuân Praha và sau đó là Liên
Xô xâm chiếm Tiệp Khắc,
và Chiến
tranh Ấn Độ–Pakistan 1971 kéo theo khai sinh Bangladesh đều
diễn ra trong nhiệm kỳ thứ hai của ông trong vai trò tổng thư ký.[14]
U Thant họp cùng Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B.
Johnson tại Nhà Trắng, ngày 21 tháng 2 năm 1968.
Ông bị chỉ trích tại Hoa Kỳ và Israel vì chấp thuận rút lực
lượng Liên Hiệp Quốc khỏi Sinai vào
năm 1967 theo yêu cầu từ Tổng thống Ai Cập Nasser.[28] Đại
biểu thường trực của Ai Cập thông báo cho Thant rằng chính phủ Ai Cập quyết
định kết thúc sự hiện diện của lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Sinai và Dải Gaza, và
yêu cầu các bước rút quân càng sớm càng tốt. Thant không có lựa chọn nào khác
ngoài chấp thuận. Liên Hiệp Quốc sau đó phát biểu "Do Israel từ chối chấp
thuận UNEF trên lãnh thổ của họ, lực lượng chỉ được triển khai bên phía Ai Cập
của biên giới, và do đó nhiệm vụ của họ hoàn toàn tùy thuộc sự thỏa thuận của
Ai Cập với tư cách quốc gia chủ nhà. Một khi sự thỏa thuận là triệt thoái, hoạt
động của họ không còn được duy trì."[29]
Khủng hoảng Síp lại nổi lên vào tháng 11 năm 1967, song đe dọa
can thiệp quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ được ngăn chặn, phần lớn là do Hoa Kỳ phản
đối. Các cuộc đàm phán được tiến hành giữa Cyrus Vance đại diện cho hoa Kỳ và
José Rolz-Bennett nhân danh tổng thư ký nhằm tìm một giải pháp. Thương thảo
liên cộng đồng bắt đầu trong tháng 6 năm 1968, thông qua các quan chức của tổng
thư ký, nằm trong quá trình tìm giải pháp. Thương thảo bế tắc, song Thant đề
xuất một công thức để tái kích hoạt chúng dưới bảo trợ của đại diện đặc biệt
của ông là B.F. Osorio-Tafall, và chúng khôi phục vào năm 1972, sau khi Thant
rời chức vụ.[26]
Mối quan hệ từng hữu hảo với chính phủ Hoa Kỳ của ông nhanh
chóng xấu đi khi ông công khai chỉ trích hành vi của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.[30] Các
nỗ lực của ông về đàm phán hòa bình trực tiếp giữa Hoa Kỳ và miền Bắc Việt Nam
cuối cùng bị chính phủ Johnson bác
bỏ.
Nghỉ hưu
Ngày 23 tháng 1 năm 1971, Thant dứt khoát tuyên bố rằng dù trong
bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng không sẵn sàng cho một nhiệm kỳ tổng thư kỳ thứ
ba. Trong nhiều tuần lễ, Hội đồng Bảo an bế tắc trong tìm kiếm một người kế
nhiệm trước quyết định cuối cùng là để Kurt
Waldheim kế nhiệm Thant làm tổng thư ký vào ngày 21 tháng 12 năm
1971, chỉ mười ngày trước khi nhiệm kỳ thứ hai của Thant kết thúc.
Kurt Waldheim (21 tháng 12 năm 1918 - 14 tháng 6 năm 2007) là nhà ngoại giao Áo. Ông là Tổng Thư ký thứ tư của Liên Hiệp Quốc từ năm 1972 đến cuối năm 1981 và là Tổng thống Áo từ năm 1986 đến 1992.
Không giống như hai người tiền nhiệm, Thant nghỉ hưu sau mười
năm giao thiệp với toàn bộ các đại cường quốc. Năm 1961, khi ông lần đầu được
bổ nhiệm, Liên Xô nỗ lực kiên quyết về công thức nhóm ba tổng thư ký, mỗi người
đại diện cho mỗi khối trong Chiến tranh Lạnh, nhằm duy trì tính bình đẳng
trong Liên Hiệp Quốc giữa các siêu cường. Đến năm 1966, khi Thant được tái bổ
nhiệm, toàn bộ các đại cường quốc, trong cuộc bỏ phiếu nhất trí của Hội đồng
Bảo an, xác nhận tầm quan trọng của chức vụ tổng thư ký cùng các chức vụ dưới
quyền, một đóng góp hiển nhiên của Thant.[14]
Trong diễn văn tạm biệt trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng
thư ký Thant phát biểu rằng ông cảm thấy rất nhẹ nhõm khi thoát khỏi gánh nặng
của chức vụ.[31]Trong
một bài xã luận xuất bản khoảng ngày 27 tháng 12 năm 1971, tán dương
Thant, The New York Times viết rằng "những lời
khuyên khôn ngoan của người đàn ông tận tụy cho hòa mình này sẽ vẫn cần thiết
sau khi ông nghỉ hưu". Bài xã luận có tiêu đề "The Liberation of U
Thant" (Sự giải phóng của U Thant.
Sau khi nghỉ hưu, Thant được bổ nhiệm làm một thành viên cấp cao
trong Học viện Adlai Stevenson về sự vụ quốc tế. Ông dành những năm cuối đời để
viết sách và và ủng hộ sự phát triển của một cộng đồng toàn cầu thực sự và các
chủ đề chung khác mà ông từng nỗ lực xúc tiến trong thời gian giữ chức tổng thư
ký.[14] Trong
thời gian tại nhiệm tổng thư ký, Thant sống tại Riverdale, Bronx, trong
một bất động sản rộng 4,75 mẫu Anh (1,92 ha) gần 232nd Street, giữa các
đại lộ Palisade và Douglas.[32]
Qua đời và di sản
Mộ của Thant, đường chùa Shwedagon, Rangoon.
Thant qua đời do ung thư phổi tại New York vào ngày 25 tháng 11
năm 1974. Đương thời, Miến Điện do chính phủ quân sự cai trị, họ từ chối vinh
danh ông. Tổng thống Miến Điện đương thời là Ne Win đố
kỵ với tầm vóc quốc tế của Thant và sự kính trọng của dân chúng Miến Điện dành
cho ông.
Ne Win (tiếng Miến Điện: နေဝင်း IPA: [ne wɪɴ]; 1910–2002),
là một chính khách và tướng lĩnh Myanmar. Ông là nhà lãnh đạo trên thực tế của
Miến Điện từ năm 1962 đến 1988
Ne Win cũng oán giận liên hệ thân thiết của Thant với chính phủ
dân chủ của U Nu, tức chính quyền mà Ne Win lật đổ trong một cuộc đảo chính
quân sự vào ngày 2 tháng 3 năm 1962. Ne Win ra lệnh không công chức nào được
tham dự hay kỷ niệm an táng Thant. Từ trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York, thi
thể của Thant được đưa về Rangoon, song không có đội quân danh dự hay các quan
chức cấp cao hiện diện tại sân bay khi quan tài đến ngoại trừ Thứ trưởng giáo
dục U Aung Tun, nhân vật này sau đó bị cách chức.[33] Ngày
an táng Thant 5 tháng 12 năm 1974, hàng chục nghìn người xếp hàng trên đường
phố Rangoon để biểu thị lòng kính trọng của họ. Quan tài của Thant được đặt tại
trường đua Kyaikasan tại Rangoon trong vài giờ trước khi được an táng theo kế
hoạch. Quan tài của Thant sau đó bị một nhóm sinh viên lấy đi ngay trước khi
được đưa đi an táng theo kế hoạch trong một nghĩa trang bình thường tại
Rangoon. Các sinh viên an táng Thant trong khuôn viên cũ của Hiệp hội sinh viên
Đại học Rangoon (RUSU), là nơi Ne Win cho phá hủy vào ngày 8 tháng 7 năm 1962.[34]
Trong thời gian từ 5-11 tháng 12, các sinh viên cũng xây dựng một
bảo tàng tạm thời về Thant trên khuôn viên của RUSU và có các diễn văn chống
chính phủ. Trong những giờ đầu buổi sáng ngày 11 tháng 12 năm 1974, binh sĩ
chính phủ xông vào trường, giết một số sinh viên đang bảo vệ bảo tàng tạm thời,
đem quan tài Thant đi an táng tại chân chùa
Shwedagon.[35]
Chùa Shwedagon (Shwedagon Zedi
Daw /ʃwèdəɡòun zèdìdɔ̀/), hay Chùa Vàng, ở Yangon được coi là ngôi chùa linh thiêng
nhất Myanma. Tại đây có lưu giữ bốn
báu vật thiêng liêng đối với các tín đồ Phật giáo, gồm cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, một mảnh áo của Phật Ca Diếp, và tám sợi tóc của Phật Thích Ca.
Hay tin binh sĩ đột kích Đại học Rangoon và
dời quan tài của Thant, nhiều người làm loạn trên các đường phố tại
Rangoon. Thiết quân luật được công bố tại Rangoon
và khu vực xung quanh. Các sự kiện được gọi là khủng hoảng U Thant—các cuộc
biểu tình do sinh viên lãnh đạo trước cách đối xử tệ của chính phủ với Thant
song bị trấn áp.[35]
Sinh hoạt cá nhân
Thant cùng gia đình, trong đó có các em trai
Khant, Thaung và Tin Maung, mẹ Nan Thaung, cùng con gái Aye Aye Thant và con rể
Tyn Myint-U, năm 1964.
Thant có ba em trai là Khant, Thaung, và Tin Maung.[36] Ông kết hôn với Daw Thein
Tin. Thant có hai con trai song đều mất sớm; Maung Bo mất khi còn sơ sinh, còn
Tin Maung Thant ngã từ xe buýt khi thăm Yangon. Đám tang của Tin Maung Thant có
sự tham gia của những quan chức cấp cao, và lớn hơn quốc tang của Phó Đề đốc
Than Pe, một thành viên trong Hội đồng Cách mạng gồm 17 người và là bộ trưởng y
tế và giáo dục. Thant còn lại một con gái, một con trai nuôi, năm cháu ruột, và
năm chắt ruột. Cháu trai ruột duy nhất của ông là Thant Myint-U trở
thành một sử gia và là cựu quan chức cấp cao của Cơ quan Liên Hiệp Quốc về
chính vụ và là tác giả của The River of Lost Footsteps, một phần tiểu
sử của Thant.
Trong nhiệm kỳ tổng thư ký của mình, Thant theo đuổi các báo cáo
về UFO với một số quan tâm; năm
1967, ông sắp xếp cho nhà vật lý khí quyển người Mỹ James E. McDonald phát
biểu trước Nhóm sự vụ ngoại không gian của Liên Hiệp Quốc về đề tài UFO.[37]
Giải thưởng, vinh dự
Thant thường miễn cưỡng nhận các giải thưởng và danh dự do bản
tính khiên tốn cũng như liên hệ công khai với chúng. Ông từ chối vinh dự cao
thứ nhì của Miến Điện mà chính phủ U Nu trao cho ông vào năm 1961. Khi ông được
thông báo rằng giải Nobel Hòa bình 1965 sẽ được trao cho UNICEF do Chủ tịch
Gunnar Jahn phủ quyết, theo lời Walter Dorn thì Thant cảm thấy vui lòng.[1] Tuy
nhiên, ông nhận giải Jawaharlal Nehru về Thông cảm quốc tế vào
năm 1965,[38] giải Hòa bình Gandhi vào
năm 1972, và hàng chục bằng danh dự khác.
Thant nhận bằng luật danh dự (LL.D) của Đại học Carleton, Học
viện Williams, Đại học Princeton, Học viện Mount Holyoke, Đại học Harvard, Học
viện Dartmouth, Đại học California tại Berkeley, Đại học Denver, Học viện
Swarthmore, Đại học New York, Đại học Moskva, Đại học Queen's, Học viện Colby,
Đại học Yale, Đại học Windsor, Học viện Hamilton, Đại học Fordham, Học viện
Manhattan, Đại học Michigan, Đại học Delhi, Đại học Leeds, Đại học Louvain, Đại
học Alberta, Đại học Boston, Đại học Rutgers, Đại học Dublin (trường Ba Ngôi),
Đại học Laval, Đại học Columbia, Đại học Philippines, và Đại học Syracuse. Ông cũng
nhận bằng tiến sĩ thần học danh dự từ Giáo hội First Universal; tiến sĩ luật
quốc tế từ Đại học Quốc tế Florida; tiến sĩ luật từ Đại học Hartford; tiến sĩ
luật dân sự danh dự từ Đại học Colgate; tiến sĩ nhân văn từ Đại học Duke.[39]
Giải thưởng hòa bình U Thant do Nhóm Trầm tư Liên Hiệp Quốc lập
ra để công nhận và vinh danh các cá nhân hoặc tổ chức có thành tựu xuất sắc
hướng đến hòa bình thế giới. Nhóm này cũng đặt tên một đảo nhỏ tại East River
đối diện trụ sở Liên Hiệp Quốc là đảo U Thant.[40] Jalan U-Thant (đường
U-Thant) và thị trấn Taman U-Thant tại Kuala
Lumpur, Malaysia cũng được đặt tên nhằm vinh danh ông.[41]
Tháng 12 năm 2013, nhờ nỗ lực của con gái Aye Aye Thant và cháu
trai Thant Myint-U, nhà của Thant tại Yangon được chuyển thành một bảo tàng với
các ảnh, tác phẩm và đồ dùng cá nhân của ông.[42]