Friday, November 23, 2018


Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài VN
Nguyễn Sang

Ngày nay, nhiều khách Trung Hoa khi tham quan hoàng thành và cung đình nhà Nguyễn ở Huế thường hay nói các vua chúa nhà Nguyễn đã bắt chước kiểu Cố cung của Trung Quốc mà xây dựng hoàng cung và cung điện của mình, nhưng quy mô bé nhỏ hơn nhiều. Mặt khác, bất cứ thượng khách của quốc gia nào trên thế giới hay là khách du lịch ngoại quốc nào tới thăm Bắc Kinh, các cán bộ và lãnh đạo Trung Quốc thường hay giới thiệu cho họ đi tham quan Cố cung, một di tích hoàng cung triều Minh, triều Thanh có quy mô to lớn, gồm nhiều cung điện nguy nga đồ sộ, tráng lệ huy hoàng, sân đình rộng thênh thang, nổi tiếng thế giới. Nhưng rất ít ai được biết công lao đóng góp quan trọng của nhà kiến trúc thiên tài Việt Nam, Nguyễn An trong những công trình kiến trúc vĩ đại này.
 
Lược sử thành phố Bắc Kinh
Thành phố Bắc Kinh hiện nay có một lịch sử lâu dài. Ngay từ đời nhà Chu, khi Trung Quốc còn đang ở trong thời kỳ xã hội nô lệ (trước công nguyên 11 thế kỷ), vùng này đã là một thị trấn quan trọng của đất phong của con cháu vua Nghiêu. Ðến đời Xuân Thu (trước công nguyên 720-476 năm), Chiến Quốc (trước công nguyên 475-221 năm), nơi đây là kinh đô của nước Yên. Qua đến đời Tần (trước công nguyên 221-206 năm) thì vùng này thuộc về các quận Quảng Dương, Ngũ Dương và Thượng Cốc. Sang đến đời Hán (trước công nguyên 206-công nguyên 220 năm) và đời Ðường (công nguyên 618-907 năm), vùng này thuộc Bộ Thứ Sử U Châu quản hạt. Năm 938, vua Thái Tôn nhà Liêu lấy nơi đây làm kinh đô phụ và đổi tên thành Yên Kinh (kinh đô chính của nhà Liêu ở Thường Kinh, nay là thành Ba Lê, Taý Kỳ Ba Lâm thuộc tỉnh Liêu Ninh).

Tới năm 1153, nhà Kim (công nguyên 1127-1279) chính thức đặt kinh đô ở Yên Kinh và đổi tên thành Trung Ðô. (Nhà Kim có tất cả 3 kinh đô:
-      kinh đô chính ở Hội Ninh, nay là phía nam thành Á, thuộc tỉnh Hắc Long Giang;


Tỉnh Hắc Long Giang (giản thể龙江phồn thể黑龍江省bính âm: Hēilóngjiāng Shěng) là một tỉnh phía đông bắc của Trung Quốc. Hắc Long Giang có nghĩa là "sông rồng đen", đây là tên tiếng Hán của sông Amur.
-      kinh đô thứ hai là Trung Ðô, nay là Bắc Kinh;

Bắc Kinh (tiếng Trung北京bính âm: Běijīng, Phát âm tiếng Trung: [peɪ˨˩ t͡ɕiŋ˥] nghetrợ giúpchi tiết), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là một trong số các thành phố đông dân nhất thế giới với dân số là 21,707,000 người vào năm 2017.
-      kinh đô thứ ba là Nam Kinh, nay là thành phố Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam).

Hà Nam (tiếng Trung河南bính âm: Hénán), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là Dự (), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là phía nam Hoàng Hà.
Ðến đời Nguyên, Trung Ðô được dùng làm thủ đô của đế quốc triều Nguyên, nhưng được đổi tên gọi là Ðại Ðô. Năm 1368, Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Minh (1368-1644), đóng đô ở phủ Khai Phong, cố đô của triều Bắc Tống. (nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Thủ đô Ðại Ðô của nhà Nguyên được đổi tên thành Bắc Bình. Năm 1403, Chu Lệ (Minh Thành Tổ) lên ngôi, đổi tên phủ Bắc Bình, đất phong của mình thời còn làm Yên Vương thành phủ Thuận Thiên. Ba năm sau (1406), Minh Thành Tổ tổ chức quân dân tiến hành các công trình xây dựng liên tiếp 18 năm trời, tới năm 1424, các công trình ấy hoàn thành, vua Thành Tổ dời đô tới phủ Thuận Thiên, đồng thời đổi tên nơi đây thành Kinh Sư. Tới năm 1425, vua Nhân Tôn nhà Minh, tức Chu Cao Xí, lại đổi Kinh Sư thành Bắc Kinh. Năm 1441, vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trấn, chính thức lập Bắc Kinh làm kinh đô nước mình.

Năm 1644, triều Mãn Thanh sau khi diệt nhà Minh, cũng đóng đô ở Bắc Kinh, trải qua 267 năm, cho tới năm 1911, mới bị quân đội cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo lật đổ. Nước Trung Hoa Dân Quốc sau khi thành lập lúc đầu vẫn đặt thủ đô ở Bắc Kinh, tới năm 1928, mới dời đô về Nam Kinh. Bắc Kinh do đó lại dược đỏi tên lại thành Bắc Bình. Sau ngày 1-10-1949, Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do Ðảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo ra đời, lấy Bắc Bình làm thủ đô, khôi phục lại địa danh là thành phố Bắc Kinh cho tới nay. Hiện nay, sách báo phương tây quen gọi thủ đô Bắc Kinh là "Bei Jing" (theo âm tiếng quan thoại) hay là "Peking" (theo âm tiếng Quảng Ðông). Người Ðài Loan thì vẫn giữ cách gọi là "Bei Ping" (theo âm tiếng quan thoại, nghĩa là "Bắc Bình"). Vì lẽ họ không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền do Trung Cộng lãnh đạo.

Tính từ ngày thành Kê, quốc đô của nước Yên ra đời trước công nguyên 1057 năm cho tới nay thì thành phố Bắc Kinh đã có 3050 năm lịch sử. Nếu tính từ ngày Bắc Kinh trở thành trung tâm chính trị và thủ đô của chính quyền thống nhất toàn Trung Quốc (năm 1267) thì Bắc Kinh đã được 726 năm lịch sử.
 
Ai thiết kế, tổ chức xây dựng các công trình quan trọng Bắc Kinh đời Minh?
Trước ngày nhà Kim đặt quốc đô ở nơi đây, quy mô Bắc Kinh vẫn còn nhỏ lắm. Năm 1149, vua Hải Lăng nhà Kim là Hoài Nhan Lượng định dời đô đến đất Yên Châu, bèn sai thợ vẽ vẽ đồ án, quy cách cung điện Biện Kinh, cố đô của triều Bắc Tống để làm mẫu. Sau đó, động viên 800 ngàn dân phu và 400 ngàn binh lính tiến hành xây dựng và cử Lương Hán Thần làm Chánh Sứ Ðại Nội Yên Kinh, Khổng Nhân Chu làm Phó Sứ, phụ trách điều khiển đoàn quân xây dựng này. Trải qua 3 năm vất vả xây cất, các công trình này mới hoàn thành. Di tích ấy hiện vẫn còn ở vùng cửa thành Hội ở phía tây nam ngoại ô thành phố Bắc Kinh ngày nay.

Người thiết kế và tổ chức các công trình xây dựng đô thành và cung điện Ðại Ðô, thủ đô của nhà Nguyên theo các sử gia nghiên cứu là một người Á Rập, tên là Dã Hắc Diệp Nhi. Vậy ai là người đứng ra thiết kế và tổ chức thi công xây dựng các công trình hoàng cung và thành phố Bắc Kinh đời Minh cách đây hơn 500 năm?

Cách đây hơn 40 năm, có một nhà sử học Trung Quốc tên là Trương Tú Dân liên tiếp phát biểu một số bài vở ghi nhớ công lao của Nguyễn An trên các báo chí đương thời với những đầu đề như "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Nguyễn An, vị Thái giám nhà Minh, người An Nam" [
1], "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" [2], "Sự đóng góp của người Giao Chỉ cho Trung Quốc đời Minh" [3]. Sau năm 1953, các nhà sử học Việt Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Ðào Duy Anh và Ðặng Thai Mai lần lượt sang thăm Trung Quốc, đến Thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt Nam. Phía Trung Quốc nhiều lần giới thiệu với khách Việt Nam về những cống hiến của Nguyễn An đối với công cuộc xây dựng Bắc Kinh và coi đó là giai thoại về mối tình hữu nghị Việt-Trung lâu đời. Nhưng những năm gần đây, nhiều tài liệu Trung Quốc khi nói tới các công trình xây dựng Bắc Kinh đời Minh, chẳng hạn như quyển "Niên Biểu Ðại Sự Lịch Sử Trung Quốc" và quyển "Giới Thiệu Sơ Lược Về Cố Cung" của Thẩm Khởi Vĩ khi nhắc tới chuyện Minh Thành Tổ và Minh Anh Tôn xây dựng Bắc Kinh, đều không có tên của Nguyễn An. Quyển "Danh lam cổ tích Bắc Kinh" liệt kê danh sách những người tham dự công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh, có Ngô Trung, Thái Tài, thợ mộc Khoái Tường, thợ nề Dương Thanh và thợ đá Lục Tường, nói "Lục Tường có đóng góp rất to trong công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh". Tuy quyển này có thừa nhận sự đóng góp về quy hoạch thiết kế và thi công của Nguyễn An cũng không nhỏ, nhưng đặt tên của Nguyễn An ở chỗ cuối cùng, đứng sau cả thợ nề, thợ đá. Ðiều đó hiển nhiên là một sự bất công. Cuốn "Kỷ Niên Lịch Sử Bắc Kinh" ghi chép đời vua Minh Anh Tôn có hạ lệnh cho Thái giám Nguyễn An xây dựng chín cửa thành lầu Kinh Sư và đốc công xây dụng tường thành Bắc Kinh, nhưng khi nói đến các công trình kiến trúc quy mô lớn nhất thời đó như hai cung, ba điện thì lại không có tên tuổi của Nguyễn An. Hơn nữa, lại lầm đem Tây cung đặt vào vị trí của Cố cung ngày nay, đem điện Phụng Thiên của Tây cung gán vào điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung ngày nay [4]. Vĩnh Lạc năm thứ 8 (1410) và năm thứ 12 (1414), vua Minh Thành Tổ hai lần thân chinh, khi ban sư về triều, đã làm lễ chúc mừng ở điện Phụng Thiên. Ðiện Phụng Thiên này là điện Phụng Thiên của Tây cung, chứ không phải là điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung ngày nay. Vì điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung mãi tới năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) mới bắt đầu khởi công xây cất.

Mấy năm trước đây, tạp chí "Văn Hiến" do Thư viện Bắc Kinh xuất bản lại đem công lao xây dựng hoàng cung Bắc Kinh hoàn toàn quy vào một anh thợ mộc tên là Khoái Tường, người gốc Hương Sơn, Tô Châu, chẳng nhắc đến Nguyễn An một lời [
5]. Ðiều này lại càng không phù hợp với sự thực lịch sự Các quyển "Hoàng Minh Kỷ Lược" của Hoàng Phố tuy quả có chép chuyện Khoái Tường trong những năm Vĩnh Lạc được triệu về triều tham gia công việc xây dựng hoàng cung, được vua Hiến Tôn nhà Minh khen là Khoái Lỗ Ban. Nhưng thực ra, Khoái Tường chỉ phụ trách một bộ phận của công trình. Sách "Ngô Lương Chí" đời Khang Hy chép rằng: Vĩnh Lạc năm thứ 15 (1417) xây dựng cung điện Bắc Kinh và năm 1436, đời Chính Thống vua Anh Tôn nhà Minh trùng tu lại ba cung điện với quy mô to lớn, đều do Khoái Tường phụ trách. Nhưng đây chẳng qua chỉ là những lời lẽ khoe khoang ở chốn quê nhà. Các sử sách chính thức của nhà Minh, như "Minh Sử""Minh Thực Lục" đều không có ghi chép như thế. Ngược lại, nhiều sử sách khi nói đến các công trình xây dựng quan trọng đời Minh đều nhắc tới Nguyên An. Thí dụ như cuốn "Thủy Ðông Nhật Ký" của Diệp Thịnh đời Minh ghi chép rằng: "Nguyễn An, cũng gọi là Á Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về kiến trúc. Trong các công trình xây dựng thành trì Bắc Kinh và chín cửa thành lầu, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ ở Bắc Kinh và nạo vét sông Trạch Chư ở thôn Dương, đều có nhiều công lao to lớn [6]. Các nhân viên thuộc hạ của Nguyễn An ở Bộ Công chẳng qua chỉ là những người thừa hành phận sự chấp hành những công trình do Nguyễn An quy hoạch, thiết kế ra đó thôi."

Các sách "Quốc Triều Chính Lục" của Tiêu Hoành, "Minh Sử Thiết" của Doãn Thu Hoành đời Minh và "Minh Thư" của Phố Duy Lân,"Ngu Sơn Tập" của Thi Nhuận Chương đời Thanh đều đồng thanh nói rằng các công trình xây dựng quan trọng ở Bắc Kinh thời đó như thành trì Bắc Kinh, chín cửa thành lầu, hai cung, ba điện và các dinh thự năm phủ, sáu bộ của triều đình nhà Minh đều do Nguyễn An một tay phụ trách thiết kế, quy hoạch, mắt đo, bụng nhẩm tính, nhanh nhẹn, chính xác, mọi việc xếp đặt đâu ra đó, đạt yêu cầu của hoàng thượng. Thuộc hạ trong ngành ai nấy đều râm rấp tuân theo. "Minh Sử" quyển thứ 304 phần phụ lục Truyện Kim Anh cũng có đoạn nói về Nguyễn An như sau: "Nguyễn An người Giao Chỉ, đầu óc minh mẫn, kỹ thuật tài giỏi hơn người, vâng mệnh vua Thành tổ xây dựng thành trì, cung điện và các dinh thự của các phủ, bộ, mắt đo, bụng nhẩm tính đâu ra đó, đều đúng kế hoạch. Công bộ chỉ biết vâng theo, chấp hành. Ðời vua Anh Tôn (1436-1449), Nguyễn An phụ trách dựng lại ba điện và trị thủy sông Dương Thôn, lập được công to""Chính Thống Thực Lục" đời Anh Tôn quyển 54, 84, 91 và 130 cũng có ghi chép những nội dung tương tự như thế, quy công cho Nguyễn An, chẳng hạn như:

"Ngày 10 tháng 2 năm thứ 6 Chính Thống (1441), hai cung ba điện xây dựng hoàn thành, nhà vua ban thưởng cho Thái giám Nguyễn An và Tăng Bảo (Sâm Bảo) mỗi người 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm lụa, 1 vạn quan tiền; thăng thưởng cho Ðô đốc Ðồng Tri Thẩm Thanh tước Tu Vũ Bá, ăn lộc 1.000 thạch, con cháu được quyền thế tập; Công bộ Thượng Thư Ngô Trung thăng chức Thiếu Soáị Các nhân viên công tác khác cũng được ban thưởng tiền bạc, lụa là khác nhau." Tháng 11 năm đó, nhân việc hai cung, ba điện xây dựng hoàn thành, nhà vua ra lệnh đại xá toàn quốc và định đô Bắc Kinh.

Tháng 4 năm sau (1442), vua Anh Tôn thấy các cung điện hoàng thành đã xây dựng xong, bèn ra lệnh cho đội quân lao động ấy tiếp tục tiến quân xây phủ Tôn nhân [
7], Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Công, Hồng Lô Tự, Khâm Thiên Giám [8], Viện Thái Y, Viện Hàn Lâm và Quốc Học (Quốc Tử Giám)....

"Chính Thống Thực Lục" tuy không ghi chép rõ ràng việc nhà vua hạ lệnh cho Nguyễn An phụ trách những công trình này, nhưng các sử sách khác đều có nói rằng các dinh thự, ty sở thuộc 5 phủ, 6 bộ đều do Nguyễn An quy hoạch, tổ chức, xây dựng. Chỉ tiếc là những tòa kiến trúc đó về sau đều bị phá hủy hầu hết, chỉ còn lại có tòa kiến trúc Quốc Tử Giám trong cửa An Dinh là hoàn chỉnh, nay đổi thành Thư viện Thủ đô Bắc Kinh.

Ðể hiểu rõ giá trị đóng góp của Nguyễn An trong việc thiết kế, xây dựng các kiến trúc thời đó, chúng ta hãy thử đi sâu nghiên cứu vài công trình quan trọng nói trên.
 
1. Thành trì Bắc Kinh.
Thành trì Bắc Kinh đời Minh lúc đó chu vi 68 dặm. Do cấu tạo thuần túy bằng đất, nên tường thành dễ bị sụp đổ. Những năm Vĩnh Lạc (1403-1424), Tuyên Ðức (1426-1435) có tu sửa đôi chút, nhưng bên trong tường thành vẫn còn làm bằng đất, nên gặp phải khi mưa dầm lụt lội, tường thành thường hay sụp đổ.

Ðến đời vua Anh Tôn năm thứ 10 (1445), Nguyễn An vâng lệnh triều đình đốc công tu sửa tường thành, kể cả phía trong và phía ngoài, khiến cho tường thành Bắc Kinh từ đó cao đến 3 trượng 5 thước (đời Minh mỗi thước dài 31,1 cm hiện naỵ 3 trượng rưỡi tức là 10 mét 88,5 cm), nền tường thành dày 6 trượng 2 thước (19 mét), mặt thành rộng 5 trượng (15,5 mét). Mấy năm trước đây, các tường thành Bắc Kinh đều bị phá hủy hết.
 
2. Chín cửa thành lầu.
Chín cửa thành lầu do Nguyễn An thiết kế, đốc công xây dựng lúc đó là các cửa nội thành: cửa Chính Dương, cửa Sùng Văn, cửa Tuyên Vũ, cửa Triều Dương, cửa Ðông Trực, cửa Phủ Thành, cửa Tây Trực, cửa An Dinh và cửa Ðức Thắng. Mỗi cửa thành trên đều có xây lầu chính và một nguyệt thành - một thành nhỏ hình bán nguyệt bao quanh che chở cho cửa thành. Do kiến trúc nguy nga đồ sộ, hùng vĩ, nên sau khi xây xong đều trở thành những thắng cảnh ở kinh đô lúc bấy giợ Rất tiếc là hầu hết các cửa thành lầu này qua thời gian trên 500 năm, trải qua nhiều cuộc biển dâu, nay chỉ còn có cửa thành lầu Chính Dương tồn tại.
  • Cửa Chính Dương (Chính Dương Môn) nay gọi là Tiền Môn, nằm ở phía nam quảng trường Thiên An Môn, là cửa chính của Nội thành Bắc Kinh đời Minh và đời Thanh, được xây dựng từ đời Vĩnh Lạc năm thứ 19 (1421), cao 42 mét, mặt tiền rộng bảy gian, ngói ống màu xám, phía cạnh màu xanh lá cây, mái to mà cong, dưới mái, mặt tiền và mặt hậu có nhiều cửa to và cửa sổ, cửa sổ hình trám. Tầng dưới tường gạch màu đọ Mặt trước và mặt sau có một cửa to dùng để cho người qua lại hay xe cộ ra vào. Trên lầu thành, còn có lầu cao dùng để bắn tên, gọi là "tiễn lầu". Hình dáng nóc, mái tiễn lầu cũng giống như thành lầu, có khác là trên tường dưới mái hiên ở ba phía đông, tây và nam có tất cả 82 cửa nhỏ dùng để nhắm bắn tên ra bên ngoàị Phía bắc chia thành 5 gian, có ba cửa thông ra sân thành lầu. Cửa lầu thành Chính Dương từng bị hỏa hoạn và chiến tranh phá hoại nhiều lần, nhưng nhờ đuợc tổ chức trùng tu, nên kết quả hình thành cảnh vật như ngày nay.
     
3. Hai cung, ba điện.
Hai cung ba điện là một quần thể kiến trúc to nhất ở Cố cung.

Cố cung cũng gọi là "Tử Cấm Thành", là hoàng cung của nhà Minh và nhà Thanh, nằm ở trung tâm thành phố Bắc Kinh. Nơi đây bảo tồn quần thể kiến trúc cổ đại Trung Quốc quy mô to nhất và hoàn chỉnh nhất, là trung tâm tiêu biểu cho chế độ phong kiến quân chủ lâu dài vào bậc nhất thế giớị Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ bắt đầu xây dựng Bắc Kinh. Lúc bấy gió, công trình trọng điểm là xây cất Tử Cấm Thành (Hoàng cung) và hoàng thành. Tử Cấm Thành nam bắc dài 960 mét, đông tây rộng 760 mét, trong đó, theo đường trục giữa, phía trước có ba tiền điện: điện Phụng Thiên, điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân. Phía sau có ba hậu điện: cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh. Cửa chính Tử Cấm Thành là cửa Ngọ Môn ở phía nam. Cửa bắc là Huyền Vũ Môn. Hai phía đông tây có cửa Ðông Hoa Môn và Tây Hoa Môn. Chung quanh Tử Cấm Thành có sông đào bao bọc bảo hô Hai bên bờ dùng đá miếng xếp thành. Ðồng thời tiến hành còn có các công trình cải tạo thủ dô Bắc Kinh. Ngoài ra, ở Nam giao (ngoại ô phía nam) Bắc Kinh còn xây dựng Thiên Ðàn với quy mô to lớn. Những công trình này khởi công xây dựng từ năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) tới năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420) cơ bản hoàn thành, trải qua 570 năm, 24 đời vua. Tuy đời Minh và đời Thanh có tu sửa và mở mang nhiều lần, song bố cục vẫn như buổi ban đầu.

Cố cung ngày nay chiếm diện tích 72 vạn mét vuông, cung điện, lầu gác, kiến trúc trên 9900 ngôi (ngụ ý "cửu cửu"), diện tích kiến trúc là 15 vạn mét vuông. Chung quanh là tường thành cao hơn 10 mét, chu vi dài độ 3 cây số. Bốn góc có lầu gác, phong cách độc đáo, tráng lệ. Ngoài tường hoàng thành có sông đào bao quanh hộ vệ thành, mặt sông rộng 52 mét, khiến cho hoàng cung thành một thành lũy trang nghiêm, kiên cố. Cách bố cục của các kiến trúc trong Cố cung ngày nay vẫn chia thành 2 phần: phần triều ngoại và phần hướng đình. Phần triều ngoại lấy ba điện Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa làm trung tâm, hai điện Văn Hoa và Vũ Anh ở hai bên cạnh sườn. Phía nam Cố cung là một sân trước (tiền đình) hình dài theo chiều nam bắc, có cửa Thiên An Môn và cửa Ðoan Môn, hình thành trước cung điện có một loạt dài kiến trúc. Cửa chính hoàng thành là cửa Ngọ Môn ở phía nam, cửa bắc là Thần Vũ Môn, cửa đông là Ðông Hoa Môn, cửa tây là Tây Hoa Môn. Sau Ngọ Môn là một quảng trường hình vuông. Giữa quảng trường có con sông nhỏ - sông Kim Thủy uốn khúc lượn quanh. Trên sông Kim Thủy có 5 chiếc cầu làm bằng đá trắng Hán Bạch ngọc. Phía bắc, sau cầu Kim Thủy, là cổng Thái Hòa mái to, hai bên có 9 điện nhỏ. Hai phía đông tây có hai cổng Hiệp Hòa và Hy Hòa có thể thông sang điện Văn Hoa và điện Vũ Anh. Sau khi vào cổng Thái Hòa, đối diện là điện Thái Hòa. Sau điện Thái Hòa là điện Trung Hòa. Tiếp đó là điện Bảo Hòa Ba điện này đều hình vuông, tường đỏ, xây trên nền đá trắng Hán Bạch ngọc cao độ 2 mét, theo hình chữ "công" (ứu), mái bốn phía lợp ngói lưu ly, chóp mũi nhọn mạ vàng. Bốn bề của ba điện trên có mái che, dưới có trụ đá vây quanh. Trên các trụ đá, điêu khắc rồng bay phượng múa. Mặt tiền và mặt hậu của mỗi điện, mỗi phía có ba bậc thềm đa. Giữa các bậc đá đó có điêu khắc Ngự lộ với hình rồng lượn trên mây, sóng gợn phía dưới.

Ðiện Thái Hòa phía trước rộng 11 gian, phía sau sâu tới 5 gian. Ðiện cao 35 mét, bề ngang 63 mét, mái cong to, kết cấu điện phức tạp, tổng diện tích là 2.377 mét vuông. Các trụ cột trong điện đều được sơn son thếp vàng, đầy vẻ giàu sang phú quỵ Ðiện Thái Hòa là kiến trúc điện cấu tạo bằng gỗ to nhất và đẹp nhất ở Cố cung cũng như ở Trung Quốc ngày nay. Các vị hoàng đế Trung Hoa đời Minh, đời Thanh trước đây thường ngự trên chiếc ngai vàng tượng trưng cho vương quyền phong kiến ở trong điện này để chủ trì các buổi lễ lớn, quan trọng như lên ngôi, mừng sinh nhật, Tết Xuân, Tết Ðông Chí, Xuất chinh....

Ðiện Trung Hòa là nơi nhà vua tiếp kiến thành viên Nội các, Lễ bộ và Thị vệ triều bái, đôi khi cũng xem biểu chương, chúc từ và làm việc ở đây.

Ðiện Bảo Hòa nằm ở sau điện Trung Hòa, hàng năm đến đêm trừ tịch, nhà vua thường làm tiệc thết đãi các hoàng thân vương công quý tộc và quần thần văn võ trong kinh đô lúc đó. Cuối đời Càn Long, nơi đây trở thành chốn điện thi (thi đình) cho các khảo sinh sau khi qua các đợt thi hương, thi hội.

Phần nội đình (cũng gọi là hướng đình) bắt đầu từ cổng Càn Thanh nằm sau điện Bảo Hòa. Các kiến trúc ở đường trục giữa có cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh. Cuối cùng là Vườn hoa Ngự và điện Khâm An. Hai phía đông, tây điện Càn Thanh có 6 Ðông cung và 6 Tây cung. Ðây là nơi nhà vua cùng các hậu phi, hoàng tử cư ngụ, vui chơi và thờ cúng. Phía nam 6 Ðông cung là điện Phụng Thiên, Trai quán và cung Dục Khánh. Phía trước Tây cung là điện Dưỡng Tâm. Phía đông đường trục giữa có nhóm cung Ninh Thọ. Phía tây đường trục giữa có các cung Từ Ninh, Thọ Khang và điện Anh Hoa. Cung Ninh Thọ và cung Từ Ninh còn có vườn hoa riêng....

Hai cung Càn Thanh và Khôn Ninh do Nguyễn An thiết kế, xây dựng lại đời vua Anh Tôn, đời Thanh tuy có trùng tu nhiều lần, song tên vẫn giữ y như cũ. Ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân xây dựng lần đầu tiên hoàn thành vào tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420). Tết nguyên đán tháng giêng năm sau (1421), Minh Thành Tổ ra ngự ở điện Phụng Thiên nghe quần thần chúc mừng, và đại xá toàn quốc. Nhưng đến ngày mồng 8 tháng 4 năm đó, ba điện này đều bị sét đánh, lửa cháy, thiêu hủy ra tro tàn.
  • Các cung điện của Trung Quốc thời cổ, kết cấu đa số làm bằng gỗ, nên rất dễ bị lửa bốc cháy. Ngoài việc binh đao khói lửa chiến tranh phá họai gây ra, hiện tượng bị sét đánh bốc cháy cũng là nguyên nhân chính đưa đến tai nạn hỏa hoạn. Vì hồi đó, Trung Quốc chưa có kim thu lôi. Một khi vật kiến trúc to lớn bằng gỗ bị sét đánh thì dễ xảy ra hỏa hoạn, và thường thường là bị thiêu trụi, vô phương cứu chữa. Sau trận hỏa hoạn này, vua Minh đành chỉ ngự triều ở cửa Phụng Thiên, vì không còn khả năng tài chính để xây dựng lại nữa. Mãi cho đến đời chắt của Thái Tôn là vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trăn, nước nhà thái bình, nông dân được mùa, trong và ngoài nước không có việc chinh chiến, dân giàu nước mạnh, mới có sức người và sức của đi trùng tu lại. Tháng 3 năm Chính Thống thứ 6, Minh Anh Tôn phái Nguyễn An thiết kế, tổ chức thi công xây dựng lại ba điện này, kết quả so với đợt xây dựng trưóc càng thêm tráng lệ huy hoàng. Nhưng đến ngày 13 tháng 4 âm lịch năm Gia Tĩnh thứ 36 (1557), Bắc Kinh lai gặp phải một trận mưa to gió lớn, giờ Tuất (độ 7-9 giờ tối), đột nhiên có một trận lửa bốc cháy. Ngọn lửa bắt đầu từ điện Phụng Thiên, cháy lan ra điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân, gây ra thiệt hại nặng nề.
     
  • Ðến năm Gia Tĩnh thứ 38 (1559), tham khảo đợt xây dựng trước, ba điện lại một lần nữa được khởi công xây dựng lại. Ngày 3 tháng 9 năm 1562, công trình hoàn thành. Lần này, điện Phụng Thiên được đổi tên thành điện Hoàng Cực, điện Hoa Cái đổi thành điện Trung Cực, điện Cẩn Thân đổi thành điện Kiến Cực. Ðến đời Thuận Trị năm thứ 2 (1645), lại đổi tên ba điện thành Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa cho đến ngày nay.
Qua những điều kể trên, chúng ta có thể thấy rõ tác dụng của Nguyễn An trong công cuộc xây dựng Bắc Kinh và hoàng cung nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Người Mãn Thanh từ đông bắc Trung Quốc, ngoài Trường Thành vào làm chủ Trung Nguyên, song le, mọi chế độ, cung đình đều giữ y theo nhà Minh. Vì thế, Cố cung nhà Thanh hiện nay, dù đã trải qua nhiều cuộc tu sửa, mở mang, nhưng trên thực tế vẫn là Cố cung của nhà Minh. Ngày nay, nếu ta theo đường phía tây đi tham quan Cố cung, vẫn còn có thể trông thấy một số kiến trúc cung điện xây cất từ đời nhà Minh. Vì thế, phủ nhận sự đóng góp của Nguyễn An về mặt này là một điều thiếu khách quan.

Thực ra, Nguyễn An không những là một nhà tổng kỷ sư kiến trúc thiên tài, mà còn là một nhà tổ chức, chỉ huy xuất sắc xây dựng các công trình quan trọng thời bấy giờ. Tháng 10 năm 1436 đời vua Minh Anh Tôn, khi chuẩn bị xây dựng công trình chín cửa thành lầu ở Kinh Sư, Công bộ Thị lang Thái Tín cho rằng: "Một công trình quy mô to lớn như vậy, cần phải có nhiều sức lao động, ít nhất phải trưng dụng 18 vạn dân phu." Nhà vua giao cho Nguyễn An toàn quyền phụ trách công trình này. Nguyễn An chỉ lấy có hơn 1 vạn quan binh đang thao luyện ở Kinh Sư cho tạm ngừng thao tập, tổ chức họ tham gia xây dựng chín cửa thành lầu. Ðể cho quan binh làm tốt nhiệm vụ này, Nguyễn An đã phát lương bổng và cung cấp thực phẩm đầy đủ cho đội quân lao động ấy. Trong quá trình xây cất, Nguyễn An lại chú ý tổ chức họ kết hợp lao động và nghỉ ngơi một cách thích đáng. Kết quả, tháng giêng năm 1437 khởi công, đến tháng 4 năm 1439, chín cửa thành lầu, bao gồm cả hào thành, cầu cống có liên quan đều hoàn tất một cách tốt đẹp. Như trên đã nói, công trình quy mô to lớn này, đáng lẽ phải huy động tới 18 vạn dân phu, song le, Nguyễn An chỉ dùng có hơn 1 vạn quan binh là có thể hoàn thành nhiệm vụ đạt yêu cầu. Dân chúng không ai bị quấy nhiễu. Dương Kỳ, người đời Minh đã viết trong bài "Ðô thành lam thắng thi lãm" trong quyển thứ 23 "Ðổng lý tục tập" rằng: "Sở dĩ sự việc nêu trên đạt được thành công, đó là do Nguyễn An giỏi về quy hoạch, trung thành với việc công, đối với thuộc hạ, nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ, nên mới có kết quả như vậy."

Tháng 3 năm 1440, Nguyễn An vâng mệnh vua Anh Tôn xây lại ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân (tiền thân của ba điện Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa ngày nay). Trong đợt xây dựng này, Nguyễn An chỉ huy 7 vạn thợ nghề và quan binh hiện dịch tạm ngừng thao luyện để tham gia thi công. Ðến tháng 10 năm sau (1441) thì hoàn thành toàn bộ công trình. Kết quả, vua Anh Tôn rất vừa ý, trọng thưởng cho Nguyễn An. Ðiều khiển một đoàn quân lao động gồm 70 ngàn người, nếu người chỉ huy không có tài tổ chức, biết cách điều động, xếp đặt, thì tất không thể nào khiến cho mọi người đều tin phục mình mà chung sức chung lòng trong vòng thời gian ngắn một năm rưỡi hoàn thành xong toàn bộ ba công trình to lớn, phức tạp như vậy.
 
Ðánh giá Nguyễn An
Ngày nay, mỗi ngày có hàng vạn khách du lịch thập phương đến thăm Cố cung. Ai nấy đều vô cùng khen ngợi cảnh kiến trúc đồ sộ, huy hoàng, tráng lệ, tầng tầng lớp lớp, nào cung nào điện, tường đỏ ngói vàng, đặc biệt là điện Thái Hòa với nét kiến trúc độc đáo và quy mô to lớn, hùng vĩ hiếm thấy của nó trên đời, khiến cho người người hết lời tán thưởng. Các cung điện trưng bày các của báu về nghệ thuật lại càng khiến cho mọi người ưa chuộng. Nhưng mấy ai được biết rằng điện Thái Hòa này trước kia vốn do một người Việt Nam quy hoạch, thiết kế, xây dựng nên.

Nguyễn An là người Việt Nam vì sao tới Bắc Kinh? Do đâu được các vua chúa nhà Minh tin yêu như vậy? Muốn tìm hiểu vấn đề này, ta hãy quay ngược dòng thời gian, lần tìm những trang sử cũ.

Ðời vua Vĩnh Lạc năm thứ 5 (1407), Trương Phụ, một vị tướng trẻ 33 tuổi đã bình định vùng An Nam trong vòng 8 tháng. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly (Hồ Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang, Trung Quốc), Trương Phụ theo lệnh vua, khôi phục địa danh "Giao Chỉ" như đời Hán, tỏ ý sau hơn 400 năm địa phương cát cứ, độc lập, Trung ương mất đất, giờ khôi phục lại chủ quyền của Trung Quốc trên phần đất này. Tháng 10 năm 1407, căn cứ theo chiếu chỉ của Minh Thành Tổ, "Sau khi bình định vùng An Nam, nên rộng rãi tìm kiếm các người hiền đức và có tài nghề trong vùng, đối xử lễ phép, tuyển đưa về Kinh", Trương Phụ cho người đưa 9.000 các loại nhân tài hiền đức, giỏi về Minh kinh, văn hóa và binh pháp cùng với 7.700 các loại nghệ nhân về Nam Kinh cho nhà vua tuyển dùng. Ngoài ra, Trương Phụ còn chọn một số thanh, thiếu niên Giao Chỉ dáng mạo thông minh, tuấn tú đưa về Nam Kinh, cho ăn học, đào tạo làm Thái Giám để hầu giúp vua, trong số đó có Nguyễn An, Phạm Hoành, Vương Cẩn.... (Tháng 11 năm đó, cha con Hồ Quý Ly bị Liễu Thăng đưa về Trung Quốc, vì là tội nhân, nên không thuộc diện này. Hồ Quý Ly sau được tha về Quảng Tây làm lính tuần, con trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương, do giỏi về binh khí, dâng vua súng thần, được cử trông coi chế tạo vũ khí, năm 1445 được thăng làm Công bộ Thị lang. Con cháu Hồ Hán Thương nối nghiệp cha, làm đến chức Hữu Thị lang Công bộ). Nhà Minh từ đời Tuyên Ðức trở đi, quyền hành của Thái giám rất lớn, thế lực của phe Thái giám Giao Chỉ lại càng mạnh. Mọi việc bảo vệ, phò tá Thái Tử, quyết định chinh chiến đối ngoại, đề cử các quan chức trông coi việc ngoại thương, nắm giữ quyền hành về tài chính.... đều có Thái giám phe Giao Chỉ tham dự, chẳng hạn như Phạm Hoành dùng hơn 70 vạn lạng bạc đi xây cất chùa Vĩnh An (Vĩnh An Tự) ở Hương Sơn, tây nam Bắc Kinh; Vương Cẩn (tức Trần Vũ) được chiếu vua cho miễn chết, lại được ban cho cung nữ và hàng vạn lạng bạc. Nguyễn An được các vua Thành Tổ, Anh Tôn tin dùng giao cho trọng trách xây dựng Bắc Kinh.....

Trong thời kỳ xã hội phong kiến chuyên chế ở Trung Quốc, bọn hoạn quan đã gây ra nhiều tội ác. Số người tốt rất hiếm. Nguyễn An tuy là Thái giám, nhưng ông có khác với những Thái giám thường khác. Không những có công trong việc xây dựng Bắc Kinh, mà còn có nhiều cống hiến trong công việc trị thủy. Sử sách cho biết, Nguyễn An ngoài công việc thiết kế chỉ huy xây dựng các công trình quan trọng ở Bắc kinh ra, còn phụ trách công tác trị thủy ở sông Dương Thôn, sông Tái Dương và sông Thu Lịch. Ðiều đó có lẽ là vì công việc của Công bộ là trông coi về xây dựng các công trình kiến trúc và thủy lợi mà Công bộ thời đó do Nguyễn An phụ trách. Nguyễn An cũng từng trông coi việc vận tải đường thủy từ Thông Châu (nay là thành phố Nam Thông, tỉnh Giang Tô) đến Nam Kinh. Năm Cảnh Thái thứ 7 (1456) đời Minh Ðại Tôn, vùng Trương Thu, Sơn Ðông, sông Hoàng Hà vở đê, hàn mãi không được. Triều đình lại cử Nguyễn An đi trị thủy, không may bị bệnh mất trên đường công tác. Công lao của Nguyễn An tuy to lớn như vậy, song ông ta sống một cuộc đời rất là thanh bạch. Khi mất, nhà còn không đầy 10 lạng bạc. Phẩm hạnh thanh cao của Nguyễn An đã khiến cho nhiều người đương thời hết sức khâm phục, cảm mến. Có người nhận xét rằng, Nguyễn An cùng với Trịnh Hòa [9] là hai vị Thái giám xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Nhưng nay, tên nhà hàng hải Thái giám Tam bảo Trịnh Hòa ở Trung Quốc cũng như trên thế giới, nhiều người rất quen thuộc, nhưng tên tuổi của Nguyễn An thì không mấy ai được biết. Ngay cả giới sử học Trung Quốc đa số cũng chẳng biết Nguyễn An là ai. Ðó cũng là một điều bất hạnh.

Theo người viết thì đem Nguyễn An đi so sánh với Trịnh Hòa là một việc không cần thiết. Vì lẽ hoàn cảnh sinh hoạt của mỗi người một khác. Phạm vi hoạt động của họ cũng không giống nhau. Khuếch đại vai trò của Nguyễn An trong đầu thế kỷ 14, nói ngay từ năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ mới bắt đầu xây dựng thủ đô Bắc Kinh, Nguyễn An đã phụ trách tổng thiết kê xây dựng Bắc Kinh như các tác giả"Trung-Việt quan hệ sử giản biên" là chuyện khó tin (Xem "Trung-Việt quan hệ sử giản biên", đồng tác giả Hoàng Quốc An, Dương Vạn Tú, Dương Lập Băng và Hoàng Tranh, Nhà xuất bản Nhân dân Quảng Tây xuất bản, Nam Ninh, 1986). Vì làm thế, xa rời sự thật. Trương Phụ đưa người Giao Chỉ sang Trung Quốc, đợt đầu tiên và đợt thứ hai vào tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Ðột thứ ba vào tháng 11 năm đó. Lúc bấy giò, Nguyễn An mới hơn 10 tuổi, lại chưa sang đến Trung Quốc, làm sao có thể phụ trách thiết kế các công trình kiến thiết quan trọng ở Bắc Kinh? Ông Thanh An nói năm 1407, Nguyễn An còn là một cậu bé, nhưng ngược dòng thời gian - năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Nguyễn An đã "hai mươi mấy tuổi" "đảm đương một công công trình trọng đại", phụ trách thiết kế, xây dựng lưỡng cung và tam điện lúc bấy giờ, lại càng khó hiểu (xem Làng Văn số 116 trang 67, bài " Ðất nước ngàn năm văn hiến"). Nhưng nếu cho rằng lúc bấy giờ, Nguyễn An sinh sống ở nước ngoài, mọi cống hiến của ông ta đều không dính dáng gì tới người trong nước nên gạt bỏ Nguyễn An ra ngoài lịch sử Việt Nam thì tôi thấy đó là chuyện đáng tiếc. Nếu cho vậy là đúng thì từ nay, khi học lịch sử Việt Nam, chúng ta không nên nhắc lại những tên Lý Ông Trọng, Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ [10] và hàng ngàn người Việt Nam tài giỏi khác lúc sinh thời do hoàn cảnh phải sống nơi xa quê cha đất tổ. Ðem Nguyễn An đi so sánh với một số người đời nay, thì tôi thấy Nguyễn An vẫn đáng cho chúng ta khâm phục, kính mến. Vì ít nhất, ông ta không phải là phường ích kỷ hại người, lừa thầy phản bạn, bán nước buôn dân, bóc lột, đày ải đồng bào, đưa đất nước, dân tộc đến chỗ bần cùng, lạc hậụ Tuy sống ở nước ngoài, nhưng Nguyễn An đã không làm nhơ danh tổ tiên, dân tộc, để tiếng xấu lại cho muôn đời.

Cách đây 6 năm, tôi có viết một bài nhan đề là "Năm Thìn kể chuyện Rồng" phát biểu trên tạp chí Quê Mẹ số Xuân Giai Phẩm ở Pháp. Trong bài đó, phần đầu bàn về nguồn gốc hình thành khái niệm "Rồng", phần thứ hai nói về những diễn biến của ý nghĩa "Rồng" qua các thời đại, phần cuối liên hệ tới hiện tình Việt Nam, đưa ra nguyện vọng mong mỏi mọi người Việt Nam ngày nay, bất cứ đang sống trong hoàn cảnh nào, đều nên sống sao cho ra sống, sống sao không hổ thẹn với non sông đất Việt, sống sao không nhơ danh dòng giống Tiên Rồng. Hôm nay, ngồi trước máy điện toán cá nhân, gõ mấy dòng chữ nói về Nguyễn An này, người viết không có ý định khuyến khích mọi người bỏ nước ra đi tìm cảnh giàu sang phú quý hay phục vụ cho nước ngoài để vinh thân phì gia, tận hưởng vật chất, mà chỉ là muốn ghi lại một sự việc có liên quan tới Việt Nam, hầu cung cấp sử liệu cho các sử gia tham khảo khi nghiên cứu, và thành tâm mong mỏi những ai đang phải sống cuộc đời lưu vong nơi hải ngoại hay đang phấn đấu ở trong nước nên cố gắng, sống sao cho ra sống, sống sao không hổ thẹn với cha ông, tiên tổ, sống sao cho xứng đáng là dòng dõi Lạc Hồng. Chỉ có thế thôi.
Nguyễn Sang
San Jose ngày 12 - 4 – 1994
Bài “Đi Cống” của Nguyễn Nhược Pháp:

Chú thích:
1. Bài "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Thái giám Nguyễn An, người An Nam" phát biểu ngày 11-11-1947 trên Tuần san Sử địa báo "Cái Thế" xuất bản ở Thiên Tân.

2. Bài "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" phát biểu dưới bút danh là "Người Việt", đăng trên Nhật báo Tiến Bộ xuất bản ở Thiên Tân ngày 2-2-1950.

3. Bài "Sự đóng góp cho Trung Quốc của người Giao Chỉ đời Minh" phát biểu trong tập 2 quyển 3 tạp chí "Học Nguyên" ở Hương Cảng. Bài này sau được thu vào tập "Minh sử luận tùng" xuất bản ở Ðài Loan. Trương Tú Dân là một nhà sử học Trung Hoa, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Việt Nam. Cho đến năm 1988, tuy đã về hưu ở quê nhà, vẫn còn phát biểu bài vở bàn về lịch sử Việt Nam. Nếu còn khỏe mạnh, năm nay ông đã 87 tuổi.

4. Tây cung này vốn là phủ phiên vương Yên Vương ở vùng điện Quang Minh phía nam đường trong cửa Tây An Môn. (cũng có thuyết cho rằng phủ Yên Vương là Cung Hưng Thánh của nhà Nguyên, địa điểm ở bờ tây Bắc Hải và vùng vườn Tập Linh ngày nay). Vì nằm ở phía tây Cố cung, nên gọi là Tây cung. Tây cung này xây dựng từ đời Hồng Vũ thứ 15 (1382), tổng số kiến trúc có 1630 ngôi, trong có cổng Phụng Thiên và điện Phụng Thiên, có khác với ba điện Tây cung xây dựng sau năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) có trên 8350 tòa kiến trúc, tức Cố cung ngày nay.

5. Ðời Minh có hai người cùng tên là Nguyễn An, đều là người Giao Chỉ. Một người có tên là Á Lưu, là nhà kiến trúc, Thái giám; một người khác cũng tên là Nguyễn An, vốn là thợ trốn dịch. Sau làm tới chức Phó sứ Văn Tư Uyển, đến năm Thành Hóa năm thứ 20 (1484) hãy còn sống.

6. 5 phủ 6 bộ: 5 phủ là: phủ Thái phó, phủ Thái úy, phủ Tư đồ, phủ Tư không và phủ Ðại Tướng quân. 6 bộ là: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hình và Bộ Công.

Phủ Thái Phó là dinh thự của thầy nhà vua, cấp bậc Tễ Tướng; Phủ Thái úy là dinh thự của võ quan cấp cao nhất toàn quốc; Phủ Tư đồ là dinh thự của Hộ bộ Thượng thư; Phủ Tư Không là dinh thự của Công bộ Thượng thư; Phủ Ðại Tướng quân là dinh thự của võ tướng cao cấp, người phụ trách việc chinh chiến trong nước.

Bộ Lại phụ trách những công tác tuyển chọn, ủy nhiệm, bãi bỏ, khảo sát, thanh tra, thăng thưởng quan chức.

Bộ Hộ chủ quản hộ tịch, ruộng đất, tiền tệ, thuế má, lương bổng quan chức toàn quốc, tương đương với Bộ Nông nghiệp và Bộ Tài chính hiện naỵ

Bộ Binh chủ quản việc tuyển dụng, khảo sát các quan chức võ bị, luyện binh, vũ khí và trạm dịch, tương đương với Bộ Quốc phòng ngày naỵ

Bộ Hình chủ quản công việc hành chính Tư pháp, tương đương với Bộ Tư pháp ngày nay.

Bộ Lễ chủ quản những nghi lễ cúng tế quan trọng của triều đình, tổ chức thi cử, tiếp đãi khách nước ngoài, tương đương với Bộ Giáo dục và Vụ Lễ tân của Bộ Ngoại giao ngày nay.

Bộ Công chủ quản xây dựng các công trình thủy lợi, đồn điền, các công trình kiến trúc thổ mộc quan trọng, tương đương với Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc ngày nay.

Ðứng đầu mỗi bộ là chức quan Thượng thư, tương đương với chức Bộ trưởng ngày naỵ chức Thị lang tương đương với chức Phó Bộ trưởng hay Thứ trưởng ngày nay.

7. Phủ Tôn Nhân là cơ quan nắm giữ danh sách và các vấn đề tước lộc, thưởng phạt trong hoàng tộc.

8. Hồng Lô Tự là cơ quan quản lý công việc cúng tế, phán đoán kiết hung, tiếp khách ngoại quốc... Cơ quan này sau gộp vào Bộ Lễ, tương đương Vụ Lễ Tân ngày nay.
 




No comments:

Post a Comment