Ngày kết thúc thế chiến thứ nhất
Ngày 11
tháng 11, 1918
·
1918 – Đức ký kết thỏa thuận đình chiến với các nước Đồng Minh, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết
thúc giao tranh.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thời gian 28 - 7 - 1914 đến 11 - 11- 1918 (ngưng
chiến) Hòa ước Versailles ký ngày 28 tháng năm 1919
Nguyên nhân bùng nổ Mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn tại
châu Âu
Vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand (28 tháng 6)
Áo-Hung tuyên chiến với Serbia (28 tháng 7); Nga kéo quân vào Áo-Hung (29 tháng 7).
Vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand (28 tháng 6)
Áo-Hung tuyên chiến với Serbia (28 tháng 7); Nga kéo quân vào Áo-Hung (29 tháng 7).
Kết quả Phe Hiệp ước chiến thắng kiểu Pyrros
Các Đế quốc Nga, Đức, Áo-Hung và Ottoman sụp đổ;
Kinh tế Anh, Pháp suy kiệt;
Đức bị mất nhiều lãnh thổ và phải bồi thường khoản tiền rất lớn, nhưng nền công nghiệp ít bị tổn hại
Hoa Kỳ thu lợi nhuận lớn và vượt lên các nước châu Âu về kinh tế
Nhiều quốc gia mới tại châu Âu và Trung Đông được thành lập
Hội nghị Versailles; Thành lập Hội quốc liên.
Các Đế quốc Nga, Đức, Áo-Hung và Ottoman sụp đổ;
Kinh tế Anh, Pháp suy kiệt;
Đức bị mất nhiều lãnh thổ và phải bồi thường khoản tiền rất lớn, nhưng nền công nghiệp ít bị tổn hại
Hoa Kỳ thu lợi nhuận lớn và vượt lên các nước châu Âu về kinh tế
Nhiều quốc gia mới tại châu Âu và Trung Đông được thành lập
Hội nghị Versailles; Thành lập Hội quốc liên.
Tham Chiến
Bỉ Được hỗ trợ
bởi:
Hỗ
trợ bởi:
Chỉ
Huy
Lực Lượng
Nga: 12.000.000 Đức:
13.250.000
Ý: 5.093.140 Bulgaria:
1.200.000
Mỹ: 4.743.826 Tổng
cộng: 25.248.321
Ba
Tây: 2.930.000
Bỉ:
1.234.000
Nhật:
800.000
Montenegro:
703.430
Bỉ:
380.000
Hy
Lạp: 250.000
Bồ Đào Nha: 200.000
Peter I: 50.000
Tổng
cộng: 45.889.850
Tổn
Thất
Binh
lính chết: Binh
lính chết:
5.525.000 4.386.000
Binh
lính bị thương: Binh
lính bị thương:
12.831.500 8.388.000
Binh
lính mất tích: Binh
lính mất tích:
4.121.000 3.629.000
Tổng
cộng: Tổng
cộng:
mất
tích ...thêm chi tiết
Các mặt trận
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
Châu Âu:
Balkan • Tây Âu • Đông Âu • Mặt trận Ý
Trung Đông:
Kavkaz • Ba Tư • Gallipoli • Mesopotamia •Sinai và Palestine • Nam Arabia
Châu Phi:
Tây Nam Phi • Tây Phi • Đông Phi • Bắc Phi
Châu Á-Thái Bình Dương
Balkan • Tây Âu • Đông Âu • Mặt trận Ý
Trung Đông:
Kavkaz • Ba Tư • Gallipoli • Mesopotamia •Sinai và Palestine • Nam Arabia
Châu Phi:
Tây Nam Phi • Tây Phi • Đông Phi • Bắc Phi
Châu Á-Thái Bình Dương
Chiến tranh thế giới thứ nhất, còn được gọi là Đại chiến thế giới lần thứ nhất, Đệ
Nhất thế chiến hay Thế chiến 1, diễn ra từ 28 tháng 7
năm 1914 đến
11 tháng 11 năm 1918, là một trong những cuộc chiến tranh quyết
liệt, quy mô to lớn nhất trong lịch sử nhân loại; về quy mô và sự khốc liệt nó
chỉ đứng sau Chiến
tranh thế giới thứ hai.
Cuộc chiến tranh này là một trong những sự
kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới. Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao
trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các
cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào
vòng chiến với số người chết trên 19 triệu người với sức tàn phá và ảnh hưởng
về vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc
chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở
hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của kỹ
nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả
của không quân và xe tăng trong
chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này. Chiến tranh chiến hào gắn liền với cuộc
Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.
Đây là cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (chủ
yếu là Anh, Pháp, Nga, và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) và
phe Liên
Minh (chủ yếu là Đức, Áo-Hung, Bulgaria và Ottoman). Cuộc Đại chiến mở đầu với sự kiện Hoàng thái tử Áo-Hung
bị ám sát, dẫn đến việc người Áo - Hung tuyên chiến với Serbia.
Sự kiện này được nối tiếp bởi việc Hoàng đế Đức là Wilhelm II truyền lệnh cho các tướng xua quân tấn công Bỉ, Luxembourg, và Pháp,
theo kế hoạch schlieffen. Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận tiền,
trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong một trong những cuộc chiến tranh
lớn nhất trong sử sách. Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, Pháp là
nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị khánh kiệt, dẫn tới đại bại
của bọn họ trong các cuộc chiến tranh về sau. Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp. Một trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là
tại Verdun cùng năm đó, khi quân Đức tấn công thành cổ Verdun của
Pháp, nhưng không thành công.Tuy nhiên, trận chiến đẫm máu nhất là tại sông Somme (1916), khi liên quân Anh - Pháp đánh
bất phân thắng bại với quân Đức., trong khi chiến dịch quân sự lớn nhất là Cuộc tổng
tấn công của Brusilov, khi quân
Nga đánh bại liên quân Áo-Hung và Đức.
Tất cả những Đế quốc quân chủ (trừ Đế quốc Anh) đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này. Đảng Bolshevik lên
nắm quyền tại nước Nga sau cuộc cách mạng tháng Mười lật đổ Nga hoàng,
trong khi việc Đức bại trận lại tạo điều kiện cho Đức Quốc xã lên nắm quyền tại Đức nhờ biết khai thác tâm lý bất
mãn của người dân. Tuy nước Đức thua
cuộc nhưng về thương mại và công nghiệp họ không bị tổn hại gì lớn (ít ra vẫn
hơn hẳn Pháp), vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất.
Không có một nước châu Âu nào thật sự chiến
thắng cuộc chiến tranh này, tất cả đều chịu tổn hại nặng nề về người và của.
Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng và những cao trào dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy ở các nước bại trận. Điển hình là ở Thổ Nhĩ Kỳ, bão táp phong trào Cách mạng
Giải phóng Dân tộc rầm rộ, đưa dân
tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Entente phải xóa bỏ những điều khoản khắc
nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt. Nước duy nhất không bị tàn phá mà còn thu được lợi
nhuận lớn từ cuộc chiến này là Hoa Kỳ, nó đã
tạo điều kiện cho nước này vượt trên các nước châu Âu về kinh tế kể từ sau cuộc
chiến.
Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ
"Đại chiến" (Great War). Vài thập kỷ sau, tên gọi Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (World War I) mới được áp dụng để phân
biệt với cuộc Chiến
tranh thế giới thứ hai. Đương thời, nó còn được gọi với cái tên "Cuộc
chiến tranh chấm dứt mọi cuộc chiến tranh" (The war to end all wars) bới
quy mô và sự tàn phá khủng khiếp nó gây ra.Chính những vấn đề liên quan tới Hiệp định Versailles (1918) đã khiến cho cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai bùng nổ.
Mục đích
Đây là một cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm
sụp đổ bốn đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Ottoman, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt
của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt
như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và
"thế giới mới" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn
đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản tại Nga, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít tại Ý, Đức và Nhật, sự
chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc... Những vấn đề đó sẽ dẫn đến
bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là
lý do một số nhà nghiên cứu cho rằng Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ
là sự nối tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất sau gần 20 năm tạm nghỉ lấy
sức.
Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa hai khối liên minh
quân sự được hình thành sau thế kỷ XIX: một bên là liên minh ba đế quốc Anh - Pháp - Nga, hay được gọi là khối Hiệp ước Entente
ba bên (trong tiếng
Pháp entente có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước)
sau này còn thêm Hoa Kỳ và
một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh Trung tâm (Central Powers,
hay còn gọi là Liên minh ba nước) gồm Đức, Áo – Hung và Ý. Tuy nhiên sau đó Ý
chiến đấu bên phía Entente ba bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng
minh là Đế quốc Ottoman và Bulgaria. Trong
khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente ba bên khá đồng đều trong
việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò
các đồng minh chính là mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu
thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế
của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, hai cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của
châu Âu là Đức và Anh.
Quy mô, tính chất
Các nước tham chiến tại
châu Âu. Hình dáng tiểu bang Illinois nằm ở bên trái để có thể so sánh diện tích.
Khối
Trung tâm (Central Powers)
Khối
Liên minh (Entente Powers)
Các
nước trung lập
Về khía cạnh chính trị – quân sự đây là lần đầu tiên thế giới
biết đến một kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không
những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp
nghẹt kinh tếcủa nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu
đựng của dân tộc, thử thách tiềm lực kinh tế và
sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga, Đế quốc
Áo-Hung và Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ dù quân đội của họ vẫn còn hiện
hữu (đặc biệt quân đội Đức vẫn còn đang trên đất đối phương, và quân địch còn
chưa xâm phạm tới lãnh thổ của họ). Các nước này đã thua trận vì xã hội kiệt
sức, không thể kham nổi chiến tranh – một kiểu chiến tranh tiêu hao với cường độ cực cao,
khiến chính phủ của họ bị các lực lượng trong nước lật đổ.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nguyên nhân, bản chất
chiến tranh
Nguyên
nhân trực tiếp
Sự việc Đại công tước (tiếng Đức: Erzherzog, tiếng Anh: Archduke) Franz Ferdinand của
Áo – Hung bị một phần tử dân tộc chủ nghĩa người Serbia tên
là Gavrilo Princip ám sát tại Sarajevo vào
ngày 28 tháng 6 năm 1914 được
coi là khởi nguồn của cuộc thế chiến này, nhưng thực ra đó chỉ là "giọt
nước tràn ly". Vụ ám sát thái tử Áo-Hung chỉ là cái cớ để các bên chính
thức khai chiến sau một thời gian dài chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị chiến
tranh. Chiến tranh là "phải nổ ra" do mâu thuẫn giữa các quốc gia ở
châu Âu đã chín muồi, các bên tham chiến từ trước đó khá lâu đã có các mâu
thuẫn đối kháng với nhau, và muốn triệt hạ nhau bằng quân sự để phân chia lại
thế giới.
Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa
diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:
Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh giành thuộc địa
Lenin và những người Bolshevik, cùng
một phần lớn những người xã hội chủ nghĩa của châu Âu phân
tích có cơ sở rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các
nước chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và
chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: đó là
cuộc chiến nhằm tranh giành, phân chia lại thuộc địa giữa các nước đế quốc, là cuộc chiến
tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.
Theo phân tích của Lenin, nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn ngay
từ giữa thế kỷ 16: ở thời điểm này, các nước châu Âu bắt đầu hình thành chủ nghĩa tư bản. Để tìm kiếm tài nguyên và lợi
nhuận, các nước thực dân châu
Âu bắt đầu bành trướng lãnh thổ, đem quân xâm chiếm các nước châu Á, châu Phi
để biến các nước này thành thuộc địa. Đến cuối thế kỷ 19, về cơ bản thì tất cả
châu Á, châu Phi đã bị biến thành thuộc địa. Nhưng sự phân chia thuộc địa giữa
các nước châu Âu là rất không đồng đều. Anh-Pháp là 2 nước đã xâm chiếm thuộc
địa từ khá sớm nên chiếm được rất nhiều thuộc địa, trong khi các nước châu Âu
khác thì chiếm được ít hơn nhiều.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt
Từ nguyên nhân mâu thuẫn lợi ích, sự thèm muốn tranh giành thuộc
địa đã dẫn tới một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra,
là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và chủ nghĩa quân phiệt
của các đế chế:
·
Liên minh quân sự theo khối: …
Lính
Áo trên chiến trường
·
Chạy đua vũ trang: ….
·
Chủ nghĩa quân phiệt: ….
Chủ nghĩa dân tộc
Sau thế kỷ XIX tại châu Âu khi những giá trị tự do
cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức
về quyền dân tộc tự quyết của
các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp
phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi
kèm với chủ nghĩa xô-vanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ
thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề.
Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối
cùng.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chiến tranh là tất yếu?
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các quan
tâm quyền lợi
Các nước tham chiến
·
Pháp: Cũng giống như Anh nhưng ngoài ra còn để phục thù Chiến tranh
Pháp – Phổ (1871) quyết giành lại hai tỉnh Alsace và Lorraine từ
Đức. …
·
Đức: Thoát khỏi sự kiềm tỏa của
Anh-Pháp, …
·
Áo – Hung: Nỗ lực cuối cùng chứng
tỏ mình còn là một cường quốc, …
·
Ý: Một cường quốc đang lên nhưng
chưa định hình, muốn có một vai trò và tiếng nói lớn hơn ở châu Âu và đặc biệt
tại Balkans. …
·
Ottoman: Đây là một đế chế lâu
đời và lạc hậu ở Trung Cận
Đông bị Anh, Pháp, Nga chèn ép ở Cận Đông (Anh, Pháp) và tại
Kavkaz và Balkans (Nga). Đây là nỗ lực cuối cùng để duy trì đế chế.
·
Nhật Bản: Cũng là một cường quốc
đang lên. …
Ngoài ra các đế quốc quân chủ Nga, Đức, Ottoman, Áo-Hung, Nhật
Bản muốn dùng chiến thắng trong chiến tranh với tinh thần yêu nước dâng cao để
trì hoãn cải cách dân chủ, xã hội trong nước.
Các nước đồng tham chiến khác
·
Hoa Kỳ: Giống như Ý và Nhật,
Hoa Kỳ cũng là một cường quốc đang nổi. …
·
Brazil: Từng là một đế quốc, song Brazil vẫn không từ bỏ tham vọng được
gây ảnh hưởng trên thế giới. …
·
Bulgaria: Là nước mạnh nhất vùng
Balkan. …
·
Hy Lạp: Muốn chiếm lại những
vùng đất đã mất dưới tay người Thổ. Chiếm đảo Síp và chiếm lại cố đô Constantinople.
·
Bồ Đào Nha: Theo
Anh, không muốn chia thị trường cho Đức.
·
Bỉ: Có quyền lợi giống như Anh,
nhưng do lãnh thổ nhỏ và dân số ít nên chấp nhận trung lập. …
·
Serbia: Là nước mang nặng chủ
nghĩa dân tộc nhất vùng Balkan. Serbia muốn chiếm toàn bộ Balkan, chủ yếu là
Bosnia, Croatia và Slovenia khỏi
tay Áo-Hung.
Các nước trung lập có liên quan
·
Tây Ban Nha: Là một
cựu đế quốc đã suy yếu và khủng hoảng trầm trọng,
thậm chí nặng hơn Nga, Tây Ban Nha đã vậy còn thua trận trong chiến tranh với Hoa Kỳ. …
·
México: Là quốc gia có biên giới
chung với Hoa Kỳ. Sau chiến tranh Hoa Kỳ-México,
México đã bị Hoa Kỳ cướp mất một phần lãnh thổ lớn ở phía Bắc mà ngày nay đã
sáp nhập vào Hoa Kỳ. ….
·
Hà Lan: Là một đế quốc già và ốm yếu, nhưng Hà Lan đã tránh
xung đột thành công với Đức và sau đó là Anh. …
·
Đan Mạch: Khi Đức còn mang
tên Phổ, Phổ đã đưa quân tấn công Đan Mạch và thắng lớn trong chiến tranh Schleswig. …
·
Na Uy: Là một vương quốc độc
lập nhưng lệ thuộc Thụy Điển, Na Uy tỏ ra ủng hộ Thụy Điển hơn so với các nước
khác. …
Diễn biến
Quân Đức tiến công Bỉ năm 1914
Bài quá dài, phải cắt bớt
1914: Đức
phải chiến đấu trên hai mặt trận
Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức bị phá vỡ:
Ngày 1 tháng 8 năm 1914 Đức
tuyên chiến với Nga, ngày 3 tháng 8 với
Pháp; ngày 4 tháng 8 Anh tuyên chiến với Đức và đổ bộ vào
lục địa. Chiến tranh lớn đã nổ ra.
Mặt trận phía Tây
Ngày 2 tháng 8 năm 1914 quân
Đức chiếm Luxembourg và hai ngày sau tràn vào Bỉ, vi
phạm tình trạng trung lập của
nước này để lấy đường tiến vào miền bắc nước Pháp. Kế hoạch Schlieffen của
bộ tổng chỉ huy Đức tính toán rằng bằng cuộc tấn công bất ngờ qua Bỉ đánh thẳng
vào Bắc Pháp, là khu vực ít bố phòng, sẽ nhanh chóng loại nước này ra khỏi
chiến tranh trước khi quân đội Nga kịp tổng động viên và tập hợp; sau khi đánh
tan quân Pháp sẽ quay sang mặt trận
phía Đông giải quyết quân Nga và kết thúc chiến tranh.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Mặt trận phía Đông
Bài chi tiết: Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ nhất)
Để giúp đồng minh đang khó khăn tại mặt trận Pháp – Bỉ, đầu
tháng 9 năm 1914 quân đội Nga tổng tấn công trên 2 hướng: Galicia đối đầu với Áo-Hung và đặc biệt là
tấn công rất nhanh, mạnh vào Đông Phổ thuộc
Đức. Vào ngày 17 tháng
8 năm 1914, Quân đội Đức đánh thắng quân Nga trong trận đánh
mở đầu tại Stallupönen - một chiến thắng có tầm quan trọng
về chiến lược.[30] Các
cuộc tấn công sau đó của quân Nga đã thắng lợi nhưng thiệt hại nặng về nhân
mạng: đánh lui quân đội Đức trong trận Gumbinnen và quân đội Áo – Hung tại
Galicia,[31] Đông Phổ có nguy cơ mất
vào tay Nga.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Diễn biến ở các chiến trường khác trong năm 1914
Bài quá dài, phải cắt bớt
1915– 1916:
Đức chủ động tấn công
·
Chiến tranh chiến hào trên các chiến trường:
Sau thất bại của kế hoạch năm 1914 nhằm
loại Pháp ra khỏi vòng chiến, nước Đức đã
rơi vào thế bị động: tiềm năng tài nguyên, nhân lực không bằng liên minh Anh – Pháp – Nga mà
lại phải đối đầu trên cả hai mặt trận. Tình trạng này càng kéo dài thì càng bất
lợi cho Đức. Để thoát thế kẹt trên hai mặt trận, năm 1915 Đức tấn công quy mô
lớn ở phía Đông để loại Nga ra
khỏi chiến tranh và năm 1916 tổng tấn công để loại Pháp nhưng đều không thành.
Trong hai năm này đánh nhau rất to, thương vong của hai bên là cực lớn nhất là
năm 1916 tại mặt trận phía Tây.
Mặt trận phía Đông 1915 – 1916
Năm 1915 nước Đức quyết định tập trung lực lượng loại Nga ra khỏi
vòng chiến, xoá bỏ mặt trận phía Đông. Quân Đức trên mặt trận phía Tây chủ động
chuyển sang phòng ngự trước liên quân Anh, Pháp và từ tháng 4 đến tháng 8 năm
1915 để dồn binh lực sang mặt trận phía Đông, đánh đòn tiêu diệt đối với quân
đội Nga. Mục tiêu là buộc Nga hoàng phải ký hòa ước và rút ra khỏi chiến tranh.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Sĩ quan Đức đang chuẩn bị nạp đạn pháo 250 mm
Minenwerfer
Tuy thất bại trong mục tiêu loại Nga ra khỏi chiến tranh, quân
Đức vẫn chiếm được nhiều vùng lãnh thổ với 23 triệu dân, trong đó có các vùng
kinh tế quan trọng của Nga, khiến sản lượng kinh tế của Nga sụt giảm nghiêm
trọng. Đây là một nhân tố sẽ góp phần tạo ra cách mạng lật đổ Nga hoàng sau
này.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Mặt trận phía Tây 1915 - 1916
Phút giải lao của binh sĩ Anh trong chiến hào
- Chiến trường Sông Somme 1916
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tại các mặt trận phía Nam 1915 – 1916
Ngày 23 tháng
5 năm 1915 Ý
gia nhập khối Đồng minh ba bên (Anh- Pháp- Nga) để chống Áo, 14 tháng
10 năm 1915 Bulgary
tham gia vào phe liên minh Đức, Áo để chống Serbia. Mặt trận phía Nam tuy quy
mô nhỏ nhưng sôi động hẳn lên.
a/ Chiến trường Ý – Áo: tháng
5 năm 1915 quân Ý mở chiến dịch Isonzo chống
quân Áo nhưng thất bại và bị Áo phản công chiếm Gorizia sau
lợi thế nhỏ bé này mặt trận Ý – Áo đi vào ổn định cho đến tận cuối năm 1917.
b/ Chiến trường Balkans: Chiến
thắng vẻ vang của quân Đức trong Chiến dịch Gorlice–Tarnów trên Mặt trận phía
Đông tạo điều kiện cho Bulgaria nhảy vào tham chiến.[44] Tại
Balkans tháng 10 năm 1915 liên quân Đức – Áo – Bulgaria đánh tan quân Serbia tại Novo Brdo và
quân Serbia phải rút lui sâu vào Albania và Hy Lạp. Để cứu
nguy cho Serbia và gây áp lực lên Hy Lạp tham gia chống Liên minh Trung tâm, cuối năm 1915 liên quân Anh,
Pháp tiến hành chiến dịch đổ bộ lên Salonica của
Hy lạp nhưng nước này không tham gia chống Đức, Áo, Bulgaria. Chiến sự tại mặt
trận Balkans tại Salonica ổn định, yên tĩnh lạ thường và các bên dường như
không muốn đánh nhau cho đến tận cuối chiến tranh. Người ta gọi mặt trận Salonica
là "trại tù binh lớn".
c/ Chiến trường Trung Cận Đông: từ
tháng 2 năm 1915 đến tận tháng 1 năm 1916 liên
quân Anh, Pháp mở chiến dịch hải quân đổ bộ rất lớn trong lịch sử chiến tranh
thế giới – chiến dịch Dardanelles đổ
bộ gần 60 vạn quân để chiếm hai eo biển Dardanelles, Bosporus và
thủ đô Istanbul để buộc Đế quốc Ottoman ra khỏi chiến
tranh. Người anh hùng dân tộc Mustafa Kemal Atatürk đã xuất binh đập tan tác
quân Entente, làm thất bại chiến dịch của địch.[47] Nhờ
đó, Đế quốc Ottoman vẫn đứng vững và giáng trả hiệu quả, Entente ba bên phải di
tản quân về Hy Lạp.
d/ Chiến trường Kavkaz: Tại
Kavkaz quân Nga có lực lượng nhỏ hơn nhưng đã đại thắng quân Ottoman tại trận Sarikamis (từ
29 tháng 12 năm 1914 đến 4 tháng 1 năm 1915) sau đó trong năm 1915, 1916 và cho
đến tận cuối năm 1917 khi Nga sụp đổ vì cách mạng, quân Nga tại Kavkaz liên tiếp
đánh lui quân Ottoman, tiến lên chiếm xứ nay là Armenia. Vì
người Armenia theo Chính thống giáo có
cảm tình với Nga nên chính quyền Đế quốc Ottoman đã thi hành chính sách diệt chủng người Armenia làm
gần 1 triệu người Armenia chết, có chấn động lớn trong dư luận châu Âu và thế
giới về Thế chiến I.
1917 Năm
bản lề
Năm này là năm bản lề của
chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh
tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại
Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh.
Quân Anh-Pháp-Nga chuyển sang tấn công
Trong năm 1917 lợi thế đã nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên,
vòng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đã cho thấy
các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả
các mặt trận.
Một quân đoàn súng máy của
đế quốc Ottoman tại tuyến phòng thủ Tel esh Sheria và Gaza vào năm 1917
a/ Chiến trường Trung Cận Đông: quân
Anh liên tiếp chiến thắng quân Ottoman và chiếm Baghdad (Iraq) tháng
3 năm 1917 và tổ chức thành công chiến dịch Sinai và chiến dịch Palestine chiếm Jerusalem vào
tháng 12 năm 1917.
b/ Chiến trường Ý – Áo: tại
chiến trường này cuối năm 1917 khi cách mạng nổ ra ở Nga, không còn mặt trận
phía Đông, quân Đức – Áo được tiếp viện một lực lượng hùng hậu trong đó có các
đơn vị xung kích của Đức làm nòng cốt, đã tổ chức chiến dịch Caporetto (26
tháng 10 năm 1917) và đã
thắng lợi vang dội tiêu diệt 6 vạn và bắt gần 30 vạn quân Ý. Quân Anh, Pháp phải
cứu viện lập phòng tuyến cố thủ tại sông Piave. Và thế trận dừng lại ở đây cho đến hết
chiến tranh. Tuy thắng lợi của Đức, Áo tại Caporetto rất to lớn nhưng vai trò
thứ yếu của mặt trận Ý – Áo không làm đảo lộn thế chiến lược của chiến tranh và
thực lực của phe Trung tâm cũng không cho phép phát triển thành quả.
c/ Mặt trận phía Tây: Liên
quân Anh, Pháp đã nắm quyền chủ động chiến trường, trong năm 1917 tại mặt trận
này chỉ có họ tấn công nhưng không thể chọc thủng nổi tuyến phòng thủ rắn chắc
của quân Đức. Các cuộc tấn công tại Verdun, Ypres, Cambrai với
sử dụng ồ ạt xe tăng đều thất bại. Đặc biệt từ 9 tháng
4 đến 5 tháng
5năm này quân đội Pháp mở chiến dịch Nivelle (theo tên của Tổng tư lệnh
quân đội Pháp Robert Georges Nivelle – người soạn thảo kế hoạch) với số lượng
áp đảo gấp 2 lần quân Đức, kết quả: với số thương vong 50 vạn và đã thất bại và
ngày nay trận này được gọi là "lò mổ của Nivelle". Đến cuối năm 1917
phòng tuyến Đức tại mặt trận phía Tây vẫn chưa thể phá vỡ nổi.
Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế
Sau này nhiều nhà nghiên cứu Anh đã công nhận Anh thực tế đã
trên nguy cơ thua trận nếu chiến tranh tàu ngầm của Đức hiệu quả hơn nữa. Ban
đầu Đức trông cậy vào hạm đội tàu nổi của mình nhưng hạm đội Đức không thể đua
tranh được với hạm đội hùng hậu của Hải quân Hoàng gia Anh nên nhiệm vụ bóp
nghẹt kinh tế Anh được giao cho hạm đội tàu ngầm rất
nổi tiếng của Đức. Đức chạy đua với thời gian xây dựng lực lượng tàu ngầm và sử
dụng chúng hiệu quả để đánh phá tuyến vận tải biển quan trọng sống còn đối với
Anh.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hoa Kỳ tham chiến
Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ XX theo
đuổi chính
sách không can thiệp và giữ trung lập trong chiến tranh.
Nhưng do phần lớn người Mỹ là con cháu của những người Anh di cư sang nên tâm
lý nhân dân và chính giới Hoa Kỳ luôn giành tình cảm cho người Anh nên
dù vẫn giữ quan hệ với Đức, Hoa Kỳ luôn dành cho Anh những thuận lợi để duy trì
chiến tranh.
Quân Mỹ tham chiến ở miền Bắc nước Pháp trong
năm 1918
Ban đầu, Hoa Kỳ không muốn tham gia chiến tranh, họ chỉ muốn
đứng ngoài thu lợi từ các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa cho các nước tham chiến.
Các khoản chi phí quân sự cực lớn của các nước châu Âu đã đem lại lợi nhuận cực
kỳ lớn cho các công ty Mỹ (bằng việc bán lương thực, đồ dùng và cho vay nặng
lãi đối với các nước tham chiến). Đến năm 1917, xuất khẩu của Mỹ đã tăng 2,5
lần so với mức trước chiến tranh (từ 825 triệu USD lên 2,25 tỷ USD), chủ yếu là
nhờ xuất khẩu hàng hóa sang châu Âu. Giữa năm 1914 và 1917, sản xuất công
nghiệp Mỹ tăng 32% và GNP tăng gần 20%, trái ngược hẳn với tình trạng suy thoái
trước chiến tranh. Riêng hãng thép Bethlehem Steel đã
xuất khẩu 500.000 tấn vỏ thép và 20,1 triệu viên đạn pháo cho Anh và Pháp trong
giai đoạn 1914-1917.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Cách mạng tại Nga, Nga ra khỏi chiến tranh
Tướng Nga Brusilov năm 1917
Nền kinh tế Nga không chịu nổi sức nặng chiến tranh, dân chúng
khốn cùng, thất nghiệp, chết đói... Lại cùng những thất bại nặng nề trước quân
Đức trên mặt trận, tất cả những cái đó gây bất mãn cao độ trong nhân dân và
quân đội. Quân lính đã quá khổ vì chiến tranh lại căm thù tầng lớp sĩ quan quý
tộc, không còn lòng ái quốc ban đầu khi mới chiến đấu. Mâu thuẫn nội bộ của
quân đội Nga cũng là quá lớn: thậm chí chiến dịch tấn công của tướng Brusilov
tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung tại Galicia cũng bị các sĩ quan cao cấp
khác ghen ghét, không chịu hợp tác.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Lãnh thổ Nga mất theo Hiệp ước Brest-Litovsk
Sau cách mạng tháng 10, Lenin đề nghị các bên tham chiến một nền
hoà bình ngay lập tức không có chia cắt lãnh thổ, không bồi thường chiến phí,
đề nghị này không được ai chấp nhận. Với việc ký kết hoà ước Brest-litovsk riêng rẽ với Đức vào ngày
3 tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết ra khỏi chiến tranh với những nhân nhượng
rất to lớn: trao cho Đức vùng Ba Lan, Tây Belarus, Ukraina, các
tỉnh Baltic, trả bồi thường 6 tỷ mark vàng cho Đức, ngoài ra nước Nga Xô
viết không thể đủ lực lượng để ngăn cản phong trào độc lập của Phần Lan nên
đã dễ dàng trao trả độc lập cho nước này.
Bài quá dài, phải cắt bớt
1918: Phe
Liên Minh thua trận
Nhờ việc Nga rút khỏi chiến tranh, trong năm 1918, Đế chế Đức có
thể tập trung những nỗ lực tấn công về phía Tây, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Khi Đức đã kiệt quệ các nguồn lực, Đồng minh (mới có thêm sự gia nhập của Hoa
Kỳ) tấn công tổng lực thắng lợi. Nước Đức suy kiệt và cách mạng đã nổ ra. Trong
khi đó, quân Áo - Hung bị Ý tấn công, ngọn lửa phong trào dân tộc chủ nghĩa đã
bùng cháy ở nhiều miền đất trên khắp Đế quốc Áo - Hung. Vào tháng 10 năm 1918,
Đế quốc Áo - Hung sụp đổ.[48] Phe
Trung tâm đầu hàng.
Cuộc tấn công mùa xuân của Đức
Mặt trận phía Đông biến mất cho phép Đức có thể tăng một lực
lượng quân đội lớn (khoảng 1 triệu quân) cho mặt trận phía Tây. Bộ Tổng tham
mưu Đức trù tính một trận tổng tấn công thắng lợi trước khi quân đội Hoa Kỳ có
thể kịp triển khai.
Kế hoạch là đánh vào tuyến phân chia của quân Anh và Pháp tại
đầu mối đường sắt Amiens (chiến dịch Michael) chiến dịch bắt đầu 21 tháng
3 năm 1918. Khác
với mọi chiến dịch tấn công trước đây, lần này quân Đức áp dụng chiến
thuật bộ binh xung kích và
thành công lớn, tiến nhanh mạnh về phía trước 60 km. Thủ đô Paris bị
uy hiếp, thậm chí vua Wilhelm II công bố ngày 24 tháng
3 là ngày hội quốc gia, nhiều người Đức đã thấy thắng lợi
đến gần. Tuy nhiên sau những trận đánh ác liệt và với việc quân Mỹ tham chiến,
quân Đức đã bị chặn đứng với thương vong trong khoảng tháng ba và tháng tư là
gần 30 vạn người.
Xe tăng Mk IV của Anh bị quân Đức tịch thu và sử dụng trong
cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918
Các chỉ huy của Đức Hindenburg và Ludendorff
Tiếp theo chiến dịch Michael quân Đức tuyệt vọng ném thêm quân
liên tiếp vào các chiến dịch tiếp theo nhưng đó đã là những nỗ lực ngày càng
bất lực (cho dầu họ đạt được chiến thắng vang dội trong trận sông Aisne lần thứ ba[49]), và
cuối cùng là cố gắng bao vây Reims vào
ngày 15 tháng 7 năm 1918 đó
là trận sông Marne lần thứ hai, tại
đây liên quân Anh, Pháp phản công thắng lợi. Đến cuối tháng 7 quân Đức lại trở
về vị trí ban đầu. Nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng của Đức đã tiêu tan.
Đồng minh tấn công tổng lực thắng lợi
Khi Quân Đức đã rã rời suy kiệt không còn dự bị để phát triển
tiến công, liên quân Entente liền huy động tổng phản công trên toàn mặt trận.
Đức không còn khả năng chống trả kiên cường như trước đây nữa.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Cách mạng tại Đức
Đức đã hoàn toàn suy kiệt trong chiến tranh. Trong tháng 10
trong nước rối loạn chẳng còn ai còn tin vào ảo tưởng chiến thắng nữa chỉ trừ
Tổng chỉ huy Erich
Ludendorff và một số tướng lĩnh quân phiệt. Ludendorff cùng Đô
đốc Reinhard Scheer trù
tính dùng toàn lực hạm đội Đức tổ chức một trận hải chiến mang tính phiêu lưu
xông thẳng vào hạm đội đối phương để tỏ rõ vinh quang của hạm đội Đức. Các
tướng lĩnh quân phiệt Đức âm mưu không thông báo cho Thủ tướng vì biết rằng
hành động này sẽ không được chấp nhận. Tuy nhiên tin tức về cuộc tấn công đã
được các thuỷ binh tại hải cảng Kiel biết,
họ nổi loạn vì không muốn làm một việc tự sát.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phe Trung tâm đầu hàng
Bắt đầu từ cuối tháng 9 năm 1918 phe Trung tâm nhanh chóng đầu
hàng: đầu tiên là Bulgaria (29 tháng
9), 30 tháng
10 Đế quốc Ottoman đầu hàng, 4 tháng
11 hai nước Áo, Hungary đầu hàng riêng biệt do Đế quốc Áo -
Hung của Vương triều Habsburg đã sụp đổ.
Vào ngày 8 tháng
11 năm 1918 phái
đoàn Đức đến toa tàu hoả riêng của Thống chế Ferdinand
Foch tại cánh rừng Compiegne (Pháp). Khi Foch hỏi họ đến để làm
gì, họ nói với ông ta rằng họ muốn nghe những lời thỉnh cầu ngừng bắn của phe
Entente. Foch trả lời rằng ông ta không hề có yêu cầu ngừng bắn gì cả. Nhưng
rồi, Matthias Erzberger đã buộc Foch phải đọc các điều khoản của thỏa thuận
ngừng bắn. Vào ngày 11 tháng
11 năm 1918, cũng chính tại toa tàu hỏa cá nhân của Foch,
ngừng bắn được ký kết giữa hai bên.[51]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Đặc điểm chiến
tranh trong thế chiến thứ nhất
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chiến
tranh trên bộ
Bộ binh Romania
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quân Nga trong chiến hào
Cũng trong chiến tranh này đã xuất hiện các hình thức chiến
thuật để đánh chiếm chiến tuyến địch và phát triển tấn công trên cơ sở vũ khí
hiện có và thể hiện sáng chói nhất là chiến thắng vang dội của phương diện quân Tây Nam của
Nga dưới sự chỉ huy của tướng Aleksey Alekseyevich Brusilov tại
Galicia tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung: với một quân đội Nga yếu kém,
lạc hậu, mất tinh thần sau trận thảm bại năm 1915, nhưng với sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, quân Nga đã chọc thủng chiến tuyến Áo – Hung và tấn công ồ ạt trên diện
rộng đánh bại quân đội Áo – Hung. Tuy nhiên sau khi rút kinh nghiệm, quân phòng
thủ cũng đã khắc chế được các chiến thuật mới này và hình thức chiến tranh
chiến hào vẫn là chủ đạo và bất biến.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chiến
tranh trên biển, trên không
Chiến tranh trên biển của thế chiến thứ nhất diễn ra rất quyết
liệt và được gọi là trận chiến
Đại Tây Dương lần thứ nhấtnó mang tính chất hoàn toàn mới so với các
cuộc chiến tranh trên biển trước đây: Cuộc chiến này báo hiệu chấm dứt thời đại
các trận hải chiến lớn của các armada cổ điển (hạm đội mặt nước). Việc
bao vây kinh tế đánh phá giao thông trên biển được thực hiện một cách hiệu quả
hơn bằng phương tiện chiến tranh rất mới là tàu ngầm. Và
trong cuộc chiến này tuy lực lượng Hải quân Đức còn thua xa Hải quân Hoàng gia Anh nhưng lực lượng tàu ngầm
Đức khi đó với kỹ thuật hiện đại đã làm rất tốt công việc đánh phá vận tải biển của
Anh, đã có lúc làm phát sinh nạn đói ở nước này.
Thời gian đầu chiến tranh các tàu vận tải của
Anh đi tự do không có bảo vệ nên bị tàu ngầm Đức đánh đắm rất nhiều dưới hình
thức "săn mồi tự do". Để hạn chế thiệt hại do tàu ngầm, Anh đã áp
dụng biện pháp "convoy" (đoàn hộ tống): các tàu vận tải đi theo đoàn
lớn dưới sự bảo vệ bên ngoài của tàu chiến. Biện pháp này ban đầu rất hiệu quả
vì khi đó tàu ngầm còn rất thô sơ mang được ít ngư lôi và
ngư lôi chất lượng không cao hay bắn trượt, nên tàu ngầm thường chỉ bắn ngư lôi
vào tàu chiến đối phương, còn để tiêu diệt tàu vận
tải thì bằng cách nổi lên dùng pháo bắn. Với sự bảo vệ của đoàn tàu chiến trong
convoy thì việc này không thực hiện được nữa.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các vũ
khí mới
Lính kỵ binh Anh và ngựa
đều phải mang "mặt nạ phòng độc"
a/ Vũ khí hoá học là đặc sản của Thế chiến
I: lần đầu tiên loài người sử dụng vũ khí hoá học nhân tạo một cách ồ ạt và
quy mô lớn với các dạng hoá chất độc khác nhau từ loại ít nguy hiểm nhất
là hơi cay hay chất làm chảy nước mắt đến
loại khí nguy hiểm hơn nhưng không chết người chỉ loại khỏi vòng chiến
như hơi mù tạc, Yprit (gây lở loét da và
lấy tên theo địa điểm diễn ra trận tấn công hoá học là Ypres) và cao hơn nữa
là hơi ngạt clo và
các chất gây tử vong khác như phosgene. …
b/ Súng
máy: là loại vũ khí tuy ra đời từ trước thế chiến nhưng trong thế
chiến đã thể hiện rõ uy lực của mình và làm thay đổi chiến thuật chiến đấu. …
c/ Đạn pháo phá mảnh: Để chống
lại làn sóng bộ binh tấn công các bên áp dụng đạn pháo phá mảnh để
tăng tính sát thương, chính số lượng chết trận nhiều nhất của quân sĩ là do
pháo binh với đạn pháo phá mảnh. …
d/ Máy bay: đây
là cuộc chiến tranh có sự tham gia đông đảo đầu tiên của máy bay, do
máy bay đang ở giai đoạn đầu phát triển còn rất thô sơ nhưng nó đã có các hành
động chiến đấu rất hiệu quả và sau này được các bên nhận thấy các tiềm năng
phát triển rất lớn. Trong đại chiến máy bay làm các nhiệm vụ không chiến (đánh
nhau với máy bay địch), tấn công mặt đất, trinh sát, liên lạc.
Tàu ngầm U16 của Đức
e/ Tàu ngầm: đây
là vũ khí có hiệu quả nhất của Thế chiến I. Với tàu ngầm thì
một hạm đội yếu có thể chống lại một hạm đội mạnh một cách hiệu quả. Một sự đầu
tư nhỏ hơn (vào tàu ngầm) mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều khi xây dựng các hạm
tàu mặt nước lớn. Điều đó giải thích tại sao Hải quân Đức dồn sức xây dựng lực lượng tàu ngầm U-boat của
mình trong cả Thế chiến I và Thế chiến II. …
Xe tăng đi trước, bộ
binh Canada theo sau, mặt trận Vimy 1917
f/ Xe tăng: đây
là vũ khí ra đời trong thế chiến để khắc phục sự mất cân đối giữa tấn công và phòng
ngự tuy xe tăng còn rất thô sơ thiếu độ tin cậy nhưng
đã chứng minh được tiềm năng phát triển của mình và các bên đua nhau chế tạo xe
tăng. …
Hậu quả của chiến
tranh
Ảnh hưởng
kinh tế, địa - chính trị
1/ Chiến tranh thế giới thứ nhất để lại rất
nhiều hậu quả trước mắt và lâu dài. Cuộc chiến làm hơn mười triệu người chết và
hàng chục triệu người khác bị tàn phế, các thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống,
nhà máy bị phá hủy. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh lên tới
khoảng 85 tỉ đôla. Ngoài sức mạnh tàn phá nhân mạng, kinh tế, vật chất, nó còn
gây hãi hùng lâu dài về tâm lý cho cả châu Âu gây
ra một thế hệ bị mất mát của châu Âu. Chính cuộc chiến này làm cho châu Âu tụt
hậu và mất đi vai trò lãnh đạo văn minh nhân loại mà nó đã đảm đương trong hơn
300 năm qua và dần dần vai trò đó chuyển sang bên kia đại dương cho Hoa Kỳ.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ảnh hưởng
tâm lý - xã hội
Chiến tranh đồng thời gây ra các xu hướng tâm lý - xã hội đối
nghịch:
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những bài học chính
trị của Chiến tranh thế giới thứ nhất
“
|
Về công nghiệp và thương mại, Đức đã chiến thắng cuộc chiến tranh. Những công xưởng của họ
vẫn còn nguyên, những khoản nợ chiến tranh của họ chỉ nằm trong nước và sẽ được
thanh toán dễ dàng bằng việc vận động hành chính...
|
”
|
Mustafa Kemal Atatürk -
người anh hùng dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
và Chiến tranh Giải phóng Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.
1/ Chiến tranh thế giới cho thấy, trong điều
kiện của các mối quan hệ chặt chẽ của thế giới, của công nghệ cao, quy mô toàn
cầu, với độ tàn phá khủng khiếp của chiến tranh thì "không ai có thể có lợi
trong chiến tranh nếu nó nổ ra, thậm chí là chiến tranh khu vực". Đối với Đế quốc Anh, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là
một chiến thắng kiểu Pyrros của
họ. Họ gặp khó khăn trong việc duy trì Đế chế rộng lớn của họ kể từ sau cuộc
chiến kinh hoàng này.[57] Pháp
còn thể hiện chiến thắng kiểu Pyrros rõ ràng hơn Anh Quốc. Nhờ
có cao trào Cách mạng Nga năm 1917, Pháp không thể
liên minh với nước Nga được nữa.[58] Người
Đức đã đập phá tan tành những trung tâm công nghiệp của Pháp và chinh phạt được
đủ đất đai để có thể thực hiện phần lớn chiến lược về cuối cuộc Đại chiến.[59] Cả
Anh Quốc và Pháp đều chỉ có thể chấm dứt cuộc chiến nhờ sự đổ bộ của quân Mỹ.[60] Cuộc
chiến tranh chứng tỏ rằng nước Đức mạnh hơn Pháp, do đó Pháp không thể nào một
mình thắng Đức.[61] Bị
khánh kiệt, nhiều người Pháp sau cuộc Đại chiến thường cho rằng "chúng
ta không thể làm nên một trận Verdun nữa".[62] Thủ
tướng Pháp Clemenceau cũng thừa nhận rằng trong vài năm tới, nước Đức sẽ bỏ xa
Pháp về công nghiệp, thương mại và tài chính.[63] Với
những lợi thế này, sau chiến tranh nước Đức phát triển bỏ xa Pháp và tạo điều
kiện cho Đức một lần nữa lên tranh hùng tranh bá.[64] Giữa
thập niên năm 1920, nhiều người Pháp tin chắc rằng nước này sẽ một lần nữa bị người
Đức tiến công. Cho
đến năm 1939, mọi việc đã chứng tỏ chiến thắng kiểu Pyrros của
các nước Entente dẫn đến sự suy yếu của bọn họ.[65] Chiến
thắng kiểu Pyrros của Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
kế tiếp đại bại thê thảm của Pháp trong cuộc chiến tranh chống Phổ (1870 - 1871), và
được kế tiếp bởi đại bại tả tơi của quân Pháp trước các chiến binh tinh nhuệ Đức
vào năm 1940và trước
những cao trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa (như vào
năm 1954 tại Việt
Nam và 1962 tại Algérie). Và,
như đã nói, không lâu sau cuộc Đại chiến, vào năm 1923, các
nước Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp đều phải chịu thất bại trong cuộc Chiến tranh Giải
phóng Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.[66][67] Những
chiến bại thê thảm ấy cũng là vì sự nhừ đòn và tổn hại khủng khiếp của Pháp
trong cuộc Đại chiến 1914 - 1918 này.[68]
2/ Thế giới đã đi vào giai đoạn phát triển kinh tế, văn hoá, chính
trị có trình độ cao, ở mức trình độ đó thế giới không thể còn
chỗ cho chủ nghĩa đế quốc và các loại chủ nghĩa nước lớn trắng trợn. Với các
quan hệ quốc tế chặt chẽ và quyền lợi đan xen thì chủ nghĩa ích kỷ ở phạm vi quốc
gia và quốc tế tất yếu dẫn đến xung đột đối kháng, và chiến tranh thì đều thiệt
hại cho tất cả các bên. Tư duy đế quốc chủ nghĩa phải bị loại trừ ra khỏi các
quan hệ quốc tế, nảy sinh loại tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, thoả
hiệp các lợi ích trên cơ sở các bên cùng có lợi". Chính vì vậy ngay sau Thế
chiến I các nước đã đồng lòng tổ chức ra Hội Quốc Liên với mục tiêu để điều hoà
các quan hệ quốc tế trên cơ sở các bên cùng chấp nhận được.
3/ Hệ thống thuộc địa như
nguyên nhân của mâu thuẫn phải bị loại bỏ, bắt đầu từ Thế chiến I hệ thống thuộc
địa thế giới bắt đầu lỏng lẻo và đến sau Thế chiến II thì diễn ra quá
trình phi thực dân hoá ồ
ạt với sự cổ vũ và chấp nhận của nhiều cường quốc thế giới.
Quân Đức tiêu diệt một
nhóm lính Pháp năm 1917
4/ Một bài học rất to lớn của Thế chiến I
và II cho thấy: "Yếu tố dân tộc quốc gia là có động lực rất lớn và các quyền
lợi chính đáng của nó phải được tôn trọng". Tình hình quốc tế không thể
yên nếu dựa trên cơ sở không tôn trọng tình cảm, quyền lợi chính đáng của quốc
gia, dân tộc. Một dân tộc bị dồn vào thế cùng đường sẽ phản ứng rất mãnh liệt
gây hậu hoạ cho hoà bình thế giới. Một ví dụ rất điển hình: sự kiềm chế kìm hãm
càng chặt chẽ đối với Đức sau Thế chiến I chỉ càng thúc đẩy chủ nghĩa phục thù
với sự tìm kiếm các phương sách càng quyết liệt, cực đoan hơn của Hitler và cuối
cùng là với các kết quả thảm khốc đối với người kìm hãm. Sau Thế chiến II Hoa Kỳ
như một thế lực lãnh đạo thế giới đã nhận thức được vấn đề này nên trong chương trình tái thiết sau chiến tranh đã
giúp đỡ cả các nước kẻ thù thua trận: Đức, Ý, Nhật để các nước này vươn lên
không ở vị thế buộc phải lao tiếp vào chủ nghĩa phục thù.
5/ Và một bài học cuối đúc rút từ các bài học
trên "Vấn đề chiến tranh và hoà bình là vấn đề chung của cả thế giới".
Một khi chiến tranh nổ ra nó dễ dàng kéo cả thế giới vào cuộc. Với hậu quả quá
khốc liệt của chiến tranh loài người phải nhận thức được sự cần thiết "cần
ngăn chặn nó trước khi quá muộn" đó phải là nỗ lực chung của tất cả các nước.
Hiện nay, tuy đã có rất nhiều cuộc chiến tranh khu vực nổ ra và
đã có lúc thế giới bên bờ vực chiến tranh, nhưng về cơ bản hoà bình thế giới
vẫn được giữ vững và chưa thấy có triệu chứng của một đại chiến mới điều đó cho
thấy ít nhiều thì nhân loại cũng đã rút được các bài học chính trị của hai cuộc
đại chiến, đã biết hoá giải các mâu thuẫn bằng hoà bình, và chí ít thì đó cũng
là một đóng góp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (và thứ hai) vào tri thức nhân
loại.
No comments:
Post a Comment