Đông Đức mở của bức tường Bá-Linh
Ngày 09
tháng 11, 1989
·
1989 – Cộng hòa Dân chủ Đức tuyên bố mở cửa khẩu tại Bức tường Berlin, cho phép công dân của mình được
sang Tây Berlin.
Bức tường Berlin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bức tường Berlin
(tiếng Đức) Berliner
Mauer
Thông tin chung
Xây dựng
Khởi công 13 tháng 8 năm 1961
Phá dỡ 10 tháng 11 năm 1989
Bức tường Berlin (tiếng Đức: Berliner
Mauer) từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường thành bảo vệ chống phát
xít" (tiếng Đức: Antifaschistischer Schutzwall) và bị người
dân Cộng hoà Liên bang Đức gọi là "Bức tường ô nhục" là một phần của
biên giới nội địa nước Đức và
đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía Đông của thành phố và với lãnh thổ
của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ
ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến
ngày 9 tháng 11năm 1989. Bức
tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh
và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000
người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng
khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.
Lịch
sử
Bối cảnh
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm
dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng
Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm
soát và quản lý.
Berlin từng là thủ đô của Đức Quốc xã, cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như
nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây cũng đã bắt đầu
trên nhiều phương diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến
giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. Trong năm 1948 Cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô Viết là
một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong Chiến tranh Lạnh.
Trong năm 1949, khi
nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập trong ba vùng chiếm đóng ở
phía tây và ngay sau đó là nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập
trong vùng chiếm đóng của Liên bang Xô Viết, biên giới bắt đầu được cả hai bên
tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành lập đã tạo nền tảng
cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát biên phòng
và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông Đức và
Tây Đức, sau đó Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình thức,
Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi quân
sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai
quốc gia Đức – những điều này thật ra không còn giá trị trong thực tế. Trên
nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ
như việc có đại diện (nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đi
ngược lại hiệp định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông
Đức.
Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm
vận kỹ thuật cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến
tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự, phía Đông đã tăng cường đóng
kín biên giới.
Đông Âu hoặc Khối Đông Âu là một khái niệm chính trị xã hội chủ yếu
bị ảnh hưởng bởi Chiến tranh lạnh -là yếu tố chính tạo ra biên giới của nó.
Vì thế biên giới này không đơn thuần là biên giới giữa hai phần
nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối
Warszawa, tức là giữa khối Tư bản Chủ nghĩa và khối Xã hội Chủ nghĩa.
NATO là tên tắt của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (tiếng Anh: North Atlantic Treaty Organization; tiếng Pháp: Organisation du Traité de l'Atlantique Nord và
viết tắt là OTAN) là một liên minh quân sự dựa trên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký kết vào ngày 4 tháng 4 năm 1949bao gồm Mỹ và một số nước ở châu Âu (các nước 2
bên bờ Đại Tây Dương).
Khối Warszawa (phiên âm tiếng Việt: khối Vác-sa-va) là hiệp ước quân sự được ký kết tại Warszawa (Ba Lan) vào
năm 1955, giữa 8 nước theo chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu, gồm Liên Xô, Albania (rút ra năm 1968), Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România và Tiệp Khắc.
Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức
ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên
giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng.
Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập,
người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ
cho những người dân cư trong vùng. Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ
rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải
đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Ngược lại, ranh giới của các khu vực
chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như
không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây
Berlin. Từ 1949 cho
đến 1961 khoảng
2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433
người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Ngoài ra Tây
Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc.
Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polska), tên chính thức là Cộng
hòa Ba Lan (tiếng Ba Lan: Rzeczpospolita
Polska), là một quốc gia ở Trung Âu, tiếp giáp với các
nước Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện tích
312.685 km², dân số 38,56 triệu gần như thuần chủng người Ba Lan, đa phần (95%) theo đạo Công giáo Rôma được truyền bá vào đây khi nhà nước Ba
Lan đầu tiên hình thành vào thế kỷ thứ X.
Tiệp Khắc (tiếng Séc: Československo, tiếng Slovak: Česko-Slovensko/trước 1990 Československo, tiếng Đức: Tschechoslowakei), còn gọi tắt
là Tiệp (nhất là trong khẩu ngữ), là một nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10
năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992.
Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào
tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và
cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này.
Thêm vào đó khoảng 50.000[cần dẫn nguồn] người
dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư
ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành
Berlin. Vào ngày 4 tháng
8 năm 1961 Hội đồng thành phố Berlin (Đông) ban quy định bắt
buộc những người này phải đăng ký và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn
phụ (điện, nước) bằng tiền Deutsche
Mark của Tây Đức. Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng
Công an Nhân dân của Đông Đức trong Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt
các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để
ngăn chặn những người "chạy trốn cộng hòa" và "buôn lậu".
Ngoài ra, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây
Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường ngoại tệ
chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm
tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. Qua đó hệ
thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi.
Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông
Đức, đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là
"bỏ phiếu bằng chân" – rời bỏ "quốc gia công nông xã hội chủ
nghĩa".
Xây dựng
bức tường
Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã
hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische
Einheitspartei Deutschlands - SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của
lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia – trái với những lời
cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter
Ulbricht, người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào
ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ
nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr:
"Tôi hiểu câu hỏi của
bà là có những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng của
thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường. Tôi không biết có một ý định như
thế vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây
chủ yếu là nhà dân cư. Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!"[cần dẫn nguồn]
Vì thế mà Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức
tường trong việc này – hai tháng trước khi bức tường được dựng lên.
Walter Ernst Paul Ulbricht Walter Ulbricht Ernst Paul (30 tháng 6
năm 1893 - ngày 01 tháng 8 năm 1973) là một chính trị gia cộng sản Đức.
Ulbricht đã đóng một vai trò hàng đầu trong việc lập ra Đảng Cộng sản Đức thời Weimar và sau này (trải qua các
năm Đức Quốc xã cai trị sống lưu vong ở Pháp và Liên Xô) trong việc phát triển
sớm và thành lập Đông Đức (Cộng hòa Dân chủ Đức).
Công nhân Đông Đức đang xây dựng Bức tường
Berlin (20 tháng 11 năm 1961)
Tuy quân đội Đồng
Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của "những biện
pháp cứng rắn" nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy,
nhưng họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền
ra vào Tây Berlin không bị cắn xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân
sự. Cơ quan tình báo Liên bang Đức (Bundesnachrichtendienst -
BND) cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng 7. Sau khi
Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong
thời gian của cuộc họp cấp cao các nước trong khối
Warszawa tại Moskva từ
3 tháng 8 đến 5 tháng 8, báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi
lại:
"Thông tin cho thấy
chế độ Pankow đang cố gắng đạt được sự đồng ý của Mátxcơva để tiến hành nhiều
biện pháp ngăn cản có hiệu quả hơn – thuộc vào trong số đó đặc biệt là việc thắt
chặt biên giới của các khu vực chiếm đóng ở Berlin và làm gián đoạn giao thông
tàu điện ngầm và tàu nhanh ở Berlin. [...] còn phải chờ xem liệu Ulbricht [...]
ở Moskva [...] có khả năng đạt được các yêu cầu về việc này hay không và đạt được
đến đâu."[cần dẫn nguồn]
Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của
khối Warszawa đã có lời đề nghị "phải chặn đứng các hoạt động phá hoại
ngấm ngầm chống lại các nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin và
phải đảm bảo canh gác và kiểm soát có hiệu quả vùng Tây Berlin." Vào
ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp thuận kết
quả của hội nghị Moskva và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất cả các
biện pháp tương ứng. Vào ngày 12
tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử dụng các "lực lượng
vũ trang" để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng rào chắn
biên giới.
Hoàn tất phần trên cùng của Bức tường Berlin
tại đường Bernau (1980)
Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8 BND nhận được thông tin từ Đông
Berlin, rằng "vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư của
các nhà xuất bản thuộc Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng
Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức. Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố:
[...] Do tình hình dòng người di tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía
đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía đông cần phải thực hiện trong những
ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được nêu ra – chứ không như theo kế
hoạch là đến 14 ngày nữa."
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13
tháng 8 năm 1961 Quân
đội Nhân dân Quốc gia, 5.000[cần dẫn nguồn]người
của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau này), 5.000[cần dẫn nguồn] người
thuộc Công an Nhân dân và 4.500[cần dẫn nguồn] người
thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt
dẫn đến Tây Berlin. Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện
diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông
còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.
Erich Honecker vào thời điểm đó dưới
cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng
chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức
tường.
Erich Honecker (25 tháng 8 năm 1912 – 29 tháng 5 năm 1994) là một chính trị gia người Đức, từng nắm vị
trí lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) từ 1971 tới 1989.
Cho đến tháng 9 năm 1961, chỉ riêng từ lực lượng canh phòng đã
có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin, ngoài ra là 216[cần dẫn nguồn] lần
chạy trốn thành công của tổng cộng 400 người. Một số bức ảnh nổi tiếng chụp
những người chạy trốn được thả xuống từ các ngôi nhà lân cận bằng dây làm từ
tấm vải trải giường hay của người cảnh sát biên phòng trẻ tuổi Conrad
Schumann đang chạy qua hàng rào kẽm gai trên đường Bernau (Bernauer
Straße).
Hans Conrad Schumann (28 tháng 3, 1942 – 20 tháng 6, 1998) là
một người lính Đông Đức đã đào thoát
sang Tây Đức trong quá trình xây
dựng Bức tường Berlin vào năm 1961.
Phản ứng
của Tây Đức
Ngay trong cùng ngày Thủ tướng Liên bang Konrad
Adenauer đã kêu gọi qua đài phát thanh yêu cầu người dân hãy bình
tĩnh và thận trọng, nhắc đến việc sẽ phối hợp cùng với lực lượng Đồng Minh để
có phản ứng tiếp theo.
Mãi hai tuần sau khi bức tường được xây dựng ông mới viếng thăm
Tây Berlin. Chỉ riêng thị trưởng Berlin đương nhiệm Willy
Brandt đã cực lực phản đối, nhưng cuối cùng ông cũng bất lực
trước việc xây bức tường bao quanh Tây Berlin chia cắt thành phố.
Willy Brandt, tên khai sinh Herbert Ernst Karl Frahm (18 tháng 12 1913 - 8 tháng 10 1992) là một chính trị gia, thủ tướng Tây Đức từ 1969–1974, lãnh đạo Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) giai đoạn 1964–1987. Ông Được
trao giải Nobel Hoà bình năm 1971 vì những nỗ lực của ông trong
việc tăng cường hợp tác ở Tây Âu thông qua [EEC] và để đạt được hòa giải
giữa Tây Đức và các quốc
gia Đông Âu.
Ngay trong năm đó, các tiểu bang Tây Đức đã thành lập Trung tâm
Thu thập của Hành chánh Tư pháp Tiểu bang (Zentrale Erfassungsstelle der
Landesjustizverwaltungen) tại Salzgitter để
ghi nhận lại các vi phạm về quyền
con người trên lãnh thổ Đông Đức. Vào ngày 16
tháng 8 năm 1961 Willy
Brandt và 300.000 người dân Tây Berlin đã biểu tình trước Tòa thị chính
Schöneberg.
Phản ứng
của Đồng Minh
Đồng Minh phía tây phản ứng rất chậm chạp: mãi 20 tiếng sau đó,
lực lượng quân sự mới xuất hiện tại biên giới. Sau 40 tiếng một bức thư mới
được gửi đến Ban chỉ huy quân sự Xô Viết Berlin, và mãi đến 72 tiếng sau đó, để
cho đầy đủ về mặt hình thức, các phản đối mang tính ngoại giao của phe Đồng
Minh phía tây mới được gửi đến Moskva. Có
nhiều tin đồn cho rằng trước đó Liên bang Xô Viết đã bảo đảm với phe Đồng Minh
phía tây là Liên bang Xô Viết sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của họ ở Tây
Berlin. Trên thực tế, từ kinh nghiệm của Cuộc phong tỏa Berlin, trong mắt của Đồng Minh phía
Tây thể chế của Tây Berlin luôn luôn bị đe dọa – việc xây bức tường giờ đây
chính là tuyên ngôn bằng hiện vật của nguyên trạng đương thời, cái mà giờ đây
chỉ được xây nền tảng bằng bê tông theo đúng nghĩa đen của nó. Có thể thấy rõ
rằng Liên bang Xô Viết đã từ bỏ yêu cầu về một thành phố Berlin "tự
do", phi quân sự được thể hiện trong tối hậu thư của Khrushchyov năm 1958.
Phản ứng quốc tế năm 1961:
·
"Một giải pháp không hay lắm nhưng vẫn tốt hơn chiến tranh
hằng ngàn lần." John F.
Kennedy, Tổng thống Mỹ [cần dẫn nguồn].
·
"Người Đông Đức chặn dòng người tỵ nạn lại và cố thủ sau một
bức màng sắt dày hơn. Điều đấy không có gì là phạm pháp cả." Harold
Macmillan, Thủ tướng Anh.
Tuy vậy Tổng thống John F. Kennedy cũng đã đứng sát cạnh với
"thành phố tự do" Berlin. Ông gửi thêm lực lượng quân sự gồm 1.500
người đến Tây Berlin và tái động viên tướng Lucius D. Clay. Vào
ngày 19 tháng 8năm 1961 Clay và Phó Tổng thống Lyndon
B. Johnson đến thăm Berlin.
Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và
Xô Viết xảy ra vào ngày 27
tháng 10năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên
đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối
diện nhau ngay trước vạch ranh giới. Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm
tăng đều được rút về. Cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối
cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Tự do có nhiều khó khăn và dân
chủ không phải là tuyệt hảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ
phải dựng lên một bức tường để giữ lại những người dân của chúng tôi - để
ngăn cản họ rời bỏ chúng tôi.
|
Ngày 26 tháng 6 năm 1963, Tổng thống Kennedy đã đến thăm và
trong một bài phát biểu sôi nổi trước Bức tường Berlin, ông nói "Tây
Berlin là một biểu tượng của tự dotrong một thế giới bị đe dọa bởi chiến tranh lạnh",
"Tất cả những người tự do, dù sống tại bất cứ nơi nào, đều là công dân của
Berlin, và do đó, như là một người dân tự do, tôi tự hào trong (khi nói) các từ
ngữ Ich bin ein Berliner (tôi là một người
Berlin)" [1], và
ông cũng nói:
“
|
”
|
Đất nước
bị chia cắt
Một người phụ nữ ở Tây
Berlin vẫy tay chào người thân sau 3 tiếng chờ đợi, 1961
Diễn hành tuyên truyền của Đông Đức, nhân kỷ
niệm 25 năm dựng "bức tường thành chống phát xít" (antifaschistischer
Wall), 13 tháng 8 năm 1986
Từ ngày 1 tháng
6 năm 1952 dân
cư trong Tây Berlin không còn được phép tự do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc
thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành (Passierscheinabkommen)
được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng
họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm.
Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận
giữa Đông Đức và Tây Đức do Willy
Brandt và Erich
Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn một
ít. Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những
nhóm người "phi sản xuất" như những người đang nghỉ hưu và cho phép
công dân Tây Đức thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới.
Một quyền tự do du lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể
chế là một quốc gia độc lập và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du
lịch nhưng không muốn trở về nữa. Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu
này vì hiến pháp không cho phép.
Trong tuyên truyền, Đông Đức đã gọi bức tường này cũng như toàn
bộ việc bảo vệ biên giới là "bức tường thành chống phát xít" (antifaschistischer
Wall), bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc "di dân, xâm nhập, gián
điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây".
Thực chất các hệ thống phòng thủ này chủ yếu là chống lại chính những người
công dân của Đông Đức.[3]
Bức tường
sụp đổ
Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reaganđọc diễn văn trước Cổng
Brandenburgở giữa Bức tường Berlin ngày 12 tháng 6 năm
1987, mà trong đó ông thách thức nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Sergeyevich
Gorbachyov: "Hãy
phá đổ bức tường này !"
Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng
11, rạng sáng ngày thứ Sáu ngày 10 tháng
11 năm 1989, sau
hơn 28 năm. Dẫn đến việc mở cửa bức tường về một mặt là các cuộc biểu tình tuần
hành rộng lớn và yêu cầu tự do đi lại trong Đông Đức trước kia, về mặt khác là
việc "bỏ trốn Cộng hòa" (Republikflucht) liên tục của một số
lớn người dân từ Đông Đức sang Tây Đức đi vòng qua nước ngoài như Hungary, nước
đã mở cửa biên giới với Áo từ
ngày 11 tháng 9 hay trực tiếp từ Tiệp
Khắc từ đầu tháng 11 hoặc qua các đại sứ quán Đức tại các thủ
đô của các quốc gia ở Đông Âu (trong đó là các đại sứ quán tại Praha và Warszawa).
Sau khi bản dự thảo cho Luật đi lại mới (Reisegesetz)
được công bố vào ngày 6 tháng
11 vấp phải phản đối cực lực và lãnh đạo Tiệp Khắc bằng con
đường ngoại giao ngày càng phản đối mạnh mẽ hơn việc công dân Đông Đức bỏ đi
thông qua đất nước Tiệp Khắc, Bộ chính trị của Đảng Xã
hội Chủ nghĩa Thống nhất Đứcquyết định thay đạo luật mới
bằng một quy định về việc ra nước ngoài. Một bản dự thảo cho quyết định này, có
thêm phần về việc xuất ngoại để thăm viếng, được Bộ chính trị xác nhận và
chuyển tiếp đến Hội đồng Bộ trưởng. Tại đấy, theo như dự tính thì bản dự thảo
trình Hội đồng Bộ trưởng cần được hoàn thành và thông qua ngay trong ngày để có
thể được công bố bắt đầu từ lúc 4 giờ ngày hôm sau thông qua hãng thông tấn xã
nhà nước ADN. Thế nhưng trong quy trình thông qua đã có ý kiến phản đối từ Bộ
Tư pháp. Song song với việc này, bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng được đưa
ra bàn thảo vào buổi chiều ngày hôm đó trong Ủy ban Trung ương Đảng và được sửa
đổi nhỏ. Phiên bản này của dự thảo được Egon
Krenz trao cho thành viên của Bộ Chính trị Günter Schabowski, người
vắng mặt trong các cuộc họp trước đó của Bộ chính trị và Ủy ban Trung ương
Đảng, trước khi Schabowski tổ chức họp báo về kết quả của lần họp Ủy ban Trung
ương Đảng[4][5].
Cuộc họp báo với Günter Schabowski trong Sở Báo chí/Trung tâm
Báo chí Quốc tế trên đường Mohren (Mohrenstraße) số 38 tại Đông Berlin
(hiện nay là một phần của Bộ Tư pháp Liên bang) được truyền hình trực tiếp và
được nhiều người theo dõi, và chính là ngòi nổ mở cửa bức tường. Vào cuối cuộc
họp báo vào lúc 18 giờ 57, gần như là việc phụ, Schabowski đọc từ tờ giấy được
đưa cho ông bản dự thảo dành cho Hội đồng Bộ trưởng:
"Có thể làm đơn xin
du lịch cá nhân ra nước ngoài mà không cần có điều kiện như lý do xuất ngoại
hay quan hệ họ hàng. Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn ngắn. Các ban phòng
có thẩm quyền về hộ chiếu và khai báo cư trú của các cơ quan Công an Nhân dân cấp
huyện trong nước Đông Đức có thể nhanh chóng cấp giấy thông hành ra nước ngoài
thường xuyên theo như chỉ thị. Có thể liên tục ra nước ngoài tại tất cả các cửa
khẩu biên giới giữa nước Đông Đức và Tây Đức."
"Khi nào? Ngay lập tức?"
Tại một cổng trên cầu
Bösebrücke, người dân phía Đông được chào đón khi qua bên phía Tây, 10 tháng 11
năm 1989
Người dân hai miền Đông-Tây, náo nức đợi chờ
cổng chính thức mở cửa. Hình chụp ngày 1 tháng 12 năm 1989
Schabowski (lục lọi trong chồng giấy tờ của ông):
"Theo như tôi biết –
thì ngay lập tức, không chậm trễ".
(Trích dẫn theo
Hans-Hermann Hertle, Katrin Elsner trong quyển "Mein 9. November",
Nhà xuất bản Nicolai, Berlin,1999)
Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của
Tây Đức và Tây Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là "Bức
tường đã mở!" hằng ngàn người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và
yêu cầu mở cổng. Vào thời điểm này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả
các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc
gia cũng hoàn toàn không được thông báo gì về vấn đề này. Dưới áp lực của số
đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu biên giới tại đường Bornholm (Bornholmer
Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau
đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin cũng như tại biên giới nội địa
Đức. Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở các cửa khẩu biên giới
qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. "Cơn bão" bắt đầu vào
sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang
ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya. Ngày 22 tháng 12 năm 1989, toàn
bộ những cổng ngăn cách giữa bức tường được chính thức mở cửa.
Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng
nhiệt. Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả
tiền và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những
người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. Khi có thông tin về việc bức tường
được mở cửa, Quốc hội Liên bang đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và
các nghị sĩ đã tự phát hát quốc ca. Mỗi người dân Đông Đức được chính phủ CHLB
Đức tặng 100 DM khi
qua cổng (lúc đó trị giá trên thị trường chợ đen là 1000 tiền Đông Đức, gần
bằng 1 tháng lương trung bình), gọi là "tiền chào mừng".
Tiếp theo sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm
1989, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất đi đa số trong Quốc hội tại cuộc
bầu cử ngày 18 tháng 3 năm 1990. Ngày 23 tháng 8 cùng năm, Quốc hội Đông Đức
quyết định rằng lãnh thổ quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của
Cộng hòa Liên bang Đức và nước Đức tái thống nhất kể từ ngày 3 tháng 10 năm
1990.
Di cư
Tổng cộng nửa triệu người Tây Đức sang Đông Đức, hầu hết trước
khi bức tường Berlin được xây, con số này cũng bao gồm số người Đông Đức trở về
xứ. Trong khi đó, 3,8 triệu người Đông Đức bỏ sang sống ở Tây Đức. Những người
từ Tây sang Đông thường vì ý thức hệ, nghĩ là Đông Đức là một nước chống Phát
Xít, và nhất là khi đảng Cộng sản bị cấm hoạt động ở Tây Đức 1956. Riêng năm
1954, 75.000 người sang Đông Đức, tuy nhiên hơn phân nửa là những người trở về,
những người mà trước đó từ Đông Đức sang. 35% nói là vì lý do gia đình, và 25% vì
thất nghiệp đã lâu. Trong thời gian này, Đông Đức đã chiêu dụ với những hứa hẹn
như được ưu tiên cấp chỗ cư trú, bảo đảm việc làm, được dễ dàng mượn tiền. Có
những người chuyên quảng cáo về việc này, để mà nhập khẩu người làm đang thiếu
ở Đông Đức. Tuy nhiên khi bức tường được xây, thì hầu như không còn ai muốn
sang Đông Đức hết, vì họ biết là ra đi thì sẽ không được phép trở lại. Theo
thống kê 1968, 1.500 người sang Đông Đức, 2/3 là những người trở về – bởi vì
không ai sang Tây Đức cũng thỏa mãn với đời sống mới, một số nhớ nhà, khó hội
nhập và thất vọng vì mong đợi quá cao. Còn những người sang vào thập niên
1970-80, đa số là được đảng Cộng sản Đức (Tây Đức) (DKP), thành lập năm 1968,
gởi sang nghiên cứu về những lợi điểm của chủ nghĩa xã hội, một số khác là
thành viên của "Rote-Armee-Fraktion" (RAF), được cơ quan an ninh Đông
Đức cho trú ẩn tránh sự truy nã của Tây Đức.
Tuy nhiên cơ quan an ninh Đông Đức luôn nghi ngờ và theo dõi họ.
Còn dân chúng thì lại không hiểu nổi, tại sao người Tây Đức lại sang bên này.
Họ thường bị cho là có vấn đề trong xã hội hay là thân chế độ Cộng sản nắm
quyền. Cho nên có sự cô lập về chính trị và xã hội dẫn đến sự di cư trở lại.
Trước khi bức tường được xây, số trở về là hơn 50%. Nó chứng tỏ sự thất vọng về
chính trị của những công dân mới ở Đông Đức.[6]
Cấu
trúc hệ thống bảo vệ biên giới tại Berlin
Biển cảnh báo tại vùng biên giới (Vùng
biên giới, chỉ được phép vào với giấy phép đặc biệt.)
Bức tường Berlin được hoàn thiện bằng nhiều công trình rộng khắp
ở cạnh biên giới với Tây Đức. Cũng như phần biên giới nội Đức còn lại, Bức
tường Berlin được củng cố với nhiều hệ thống rộng lớn bao gồm hàng rào kẽm gai,
hào, vật cản xe tăng, đường tuần tra và tháp canh. Chỉ riêng chó đặc nhiệm đã
có khoảng 1.000 con đã được sử dụng cho đến đầu thập niên 1980. Các hệ thống này được liên
tục mở rộng qua nhiều thập niên. Các ngôi nhà gần bức tường đều bị giật sập,
dân cư trong các ngôi nhà đó đã bị bắt buộc di chuyển sang nơi khác trước đấy.
Ngay cả Nhà thờ Hòa giải trên đường Bernau (Bernauer Straße) cũng bị
giật sập vào ngày 28
tháng 1 năm 1985. Theo
thông tin của Bộ An ninh Quốc gia trong mùa xuân 1989[cần dẫn nguồn], hệ
thống chung quanh Bức tường Berlin bao gồm:
·
41,91 km tường có chiều cao 3.60 m
·
58,95 km tường có chiều cao 3,40 m
·
68,42 km hàng rào bằng kim loại có chiều cao 2,90 m làm
"vật cản trước"
·
161 km đường đi có hệ thống chiếu sáng
·
113,85 km hàng rào có hệ thống báo động
·
186 tháp canh
·
31 cơ sở chỉ huy
Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin 1989
Trong tổng số 156,4 km biên giới với Tây Berlin,
43,7 km nằm trong thành phố Berlin và 112,7 km nằm trong tỉnh Potsdam. Có
63,8 km chạy qua khu vực có công trình xây dựng, 32 km xuyên qua vùng
có rừng, 22,65 km qua đồng trống và 37,95 km nằm cạnh sông hay hồ.
Cấu trúc
Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng
của Đông Đức):
·
Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét
·
Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào
·
Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động
·
Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và
cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hằng tỷ đồng DM.
·
Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng
·
Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989)
·
Bức tường Berlin
·
Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức.
Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ
30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy
thuộc vào địa hình. Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức
tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.
Lực lượng
bảo vệ
Biển cảnh báo hướng Tây Berlin (Bạn đang
rời khỏi khu vực thuộc Hoa Kỳ)
Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia (Đông Đức), lực lượng
biên phòng của khu vực biên giới với Tây Berlin bao gồm 11.500 quân nhân và 500
nhân viên dân sự. Ngoài bộ tham mưu đóng ở Berlin-Karlshorstlực
lượng này bao gồm 7 trung đoàn đóng tại Berlin-Treptow, Berlin-Pankow, Berlin-Rummelsburg, Hennigsdorf, Groß-Glienicke, Potsdam-Babelsberg và Kleinmachnow cũng
như là 2 trung đoàn tập huấn tại Wilhelmshagen và Oranienburg.
Mỗi trung đoàn có 5 đại đội biên phòng, ngoài ra là mỗi một
trung đội của các binh chủng công binh, truyền tin, vận tải, súng cối và pháo
binh, súng phóng lửa và một đội chó đặc nhiệm. Ngoài ra còn có thể có một đại
đội thuyền hải quân.
Lực lượng canh phòng biên giới có hơn 567[cần dẫn nguồn] xe
bọc thép chở quân, 48 súng cối, 48 đại bác chống tăng, 114 súng phóng lửa cũng
như là 156 xe bọc thép hay xe công binh và 2.295 xe cơ giới khác. Ngoài ra là
992 chó đặc nhiệm[cần dẫn nguồn].
Vào một ngày bình thường có khoảng 2.300[cần dẫn nguồn] quân
nhân nhận nhiệm vụ canh phòng trực tiếp tại biên giới và vùng cận biên giới.
Cửa khẩu
Tại Bức tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa khẩu cho
đường ô tô, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa khẩu đường sông, chiếm 60% tất cả các cửa
khẩu biên giới giữa Đông Đức và Tây Đức. Sau khi hai nước Đức thống nhất tiền
tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, toàn bộ các cửa khẩu biên giới nội địa Đức được
hủy bỏ. Một vài phần còn lại được giữ làm kỷ niệm.
Nạn
nhân của Bức tường Berlin và những người bắn
Nạn nhân
Tưởng nhớ các nạn nhân của Bức tường Berlin
(ảnh chụp năm 1990)
Thông tin về con số những người chết tại Bức tường Berlin chứa
nhiều mâu thuẫn và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa chắc chắn vì những vụ việc này
đã được Đông Đức che đậy một cách có hệ thống. Vào năm 2000 Viện công tố Berlin
cho biết con số có thể minh chứng được của những nạn nhân đã chết vì bạo lực
tại Bức tường Berlin là 86 người. Theo tin tức ghi nhận của tổ chức 13 tháng 8
thì số người bị thiệt mạng lên đến 1135. Theo sự điều tra của
Staatsanwaltschaft văn phòng tổng kiểm sát trưởng của Bá Linh thì có 270 trường
hợp các nạn nhân bị nhà cầm quyền Đông Đức hành hình rất dã man. 421 người vượt
tường tìm tự do bị quân đội cộng sản Đức hạ sát.
Từ tháng 8 năm 2005 một dự án được Hội Bức tường Berlin (Verein
Berliner Mauer) cùng với Trung tâm nghiên cứu lịch sử đương đại Potsdam
tiến hành với mục đích điều tra con số chính xác của những nạn nhân bức tường
và lịch sử của những nạn nhân này.[7].
Nạn nhân đầu tiên của Bức tường là Ida Siekmann, người đã tử nạn
khi nhảy từ cửa sổ của một căn nhà trên đường Bernau (Bernauer Straße)
xuống vào ngày 22
tháng 8 năm 1961. Vào
ngày 24 tháng 8 năm 1961 các phát súng đầu tiên đã
bắn chết Günter Litfin, 24 tuổi, trong khi anh cố chạy trốn ở gần Nhà ga trên
đường Friedrich. Trong năm 1966 hai
trẻ em 10 và 13 tuổi đã bị bắn chết bởi 40 phát súng. Nạn nhân cuối cùng bị bắn
chết là Chris Gueffroy vào ngày 6 tháng
2 năm 1989.
Theo nhiều dự tính, khoảng 75.000 người đã phải ra tòa án trong
Đông Đức vì tội chạy trốn, tội mà theo điều 213 Bộ Luật hình sự nước Đông Đức
có thể lãnh án đến 8 năm tù. Những ai giúp đỡ chạy trốn còn có thể bị án tù
chung thân.
Xử án
những người bắn
Các vụ án xử những người ra lệnh bắn kéo dài cho đến mùa thu
năm 2004. Thuộc
vào trong số những người chịu trách nhiệm bị xử án là Erich
Honecker, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và người kế nhiệm Egon
Krenz, các thành viên của Hội đồng Quốc phòng Erich Mielke, Willi Stoph, Heinz Keßler, Fritz Streletz và Hans Albrecht, bí
thư tỉnh Suhl, cũng như là một vài tướng lãnh như cựu chỉ huy lực lượng biên
phòng (1979-1990), đại tướng Klaus-Dieter Baumgarten.
Tổng cộng có 35 người được trắng án, 44 người bị tù treo và 11
người lãnh án tù giam, trong đó Albrecht, Streletz và Kessler cũng như là
Baumgarten đã lãnh án từ 4 năm 6 tháng đến 7 năm 6 tháng tù giam. Trong tháng 8
năm 2004 Hans-Joachim Böhme và Werner Lorenz, cựu thành viên của Bộ Chính trị,
đã nhận án treo từ Tòa án Berlin (Landgericht Berlin).
Tưởng
niệm
Một phần còn lại của Bức tường Berlin, được
bảo tồn để tưởng niệm
Viện bảo
tàng Bức tường Berlin tại Checkpoint Charlie
Viện bảo tàng Bức tường ở Checkppoint Charlie ngay
tại biên giới nội địa Đức ngày trước được nhà sử học Rainer Hildebrandt khai
trương trong năm 1963 và do Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 chịu trách nhiệm vận hành.
Viện bảo tàng là một trong những viện bảo tàng có du khách đến tham quan nhiều
nhất của Berlin. Viện trưng bày hệ thống bảo vệ biên giới, tư liệu về các cuộc
chạy trốn thành công và các phương tiện đã được sử dụng để bỏ trốn như khinh
khí cầu, ô tô hay
một tàu ngầm nhỏ. Giám đốc hiện nay là góa phụ của
người sáng lập, bà Alexandra Hildebrandt.
Khu tưởng
niệm Bức tường Berlin tại đường Bernau
Khu tưởng niệm Bức tường Berlin trên đường Bernau được hoàn
thành vào cuối thập niên 1990 bao gồm đài tưởng niệm,
Trung tâm tư liệu Bức tường Berlin và ngôi nhà thờ hòa giải.
Đài tưởng niệm xuất phát từ một cuộc thi đua do Liên bang tổ
chức và được khánh thành vào ngày 13
tháng 8 năm 1998 sau
nhiều cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài. Trung tâm tư liệu do một hiệp hội vận
hành và được khai trương vào ngày 9 tháng
11 năm 1999. Nhà
thờ hòa giải của Cộng đồng hòa giải Tin Lành được khánh thành vào ngày 9 tháng
11 năm 2000 và
được xây dựng trên nền móng của Nhà thờ hòa giải đã bị giật sập trong năm 1985.
Đường mòn
Bức tường Berlin
Bức tường Berlin ở Đức sau khi nó bị phá đổ năm 1989 đã không
còn dấu vết. Để gợi nhớ di tích lịch sử này, năm 2007, người ta hoàn thành một
tuyến đường cho xe đạp dọc theo bức tường dài 160 km xưa kia.
Tuyến đường này có tên Đường mòn Bức tường Berlin trị
giá 6 triệu USD, nó vừa là một vành đai xanh vừa là công trình gợi lại một thời
kỳ lịch sử của nước Đức. Dọc tuyến đường này có chừng 30 biển báo chỉ dẫn các
di tích lịch sử. Theo ông M.Cramer, một chính trị gia ở Berlin và cũng là người
đưa ra ý tưởng trên xây dựng đường mòn: "Bức tường Berlin là một phần
của quá khứ và chúng ta không thể xóa bỏ nó. Đó không chỉ là lời nhắc nhở về sự
chia cắt mà còn là ký ức về chuyện bức tường đã bị phá đổ một cách hòa bình như
thế nào".[8]
Lễ kỷ
niệm 20 năm
Ba vị cựu lãnh đạo của Chiến tranh Lạnh, George
H. W. Bush, Helmut Kohl, và Mikhail Gorbachev, cùng
có mặt tại Berlin ngày 31 tháng 10 năm 2009, để đánh dấu ngày đầu tiên cho một
loạt lễ kỷ niệm sự sụp đổ của bức tường Berlin, mà cách đây 20 năm còn chia đôi
thành phố này. Cả ba vị cựu lãnh đạo, vào khoảng thời gian đó đều là lãnh đạo
của Hoa Kỳ, của Cộng
hòa Liên bang Ðức và của Liên Xô, và
mỗi người trong trách nhiệm của mình, đã đóng góp vào sự sụp đổ của bức tường
Berlin và từ đó đã đưa đến sự tái thống nhất nước Ðức vào tháng 11 năm 1989, mà
từ diễn tiến đó đã đưa đến sự kết thúc luôn của cuộc Chiến tranh Lạnh.[9]
Cựu Thủ tướng Kohl, từng lãnh đạo nước Ðức được tái thống nhất,
trong các năm từ 1982 đến 1998, phải đi xe lăn, và phát biểu có phần khó khăn,
tuyên bố: "Chúng tôi, người Ðức, không có bao nhiêu điều để hãnh diện về
lịch sử của chúng tôi. Nhưng chúng tôi có tất cả các lý do để được hãnh diện về
sự tái thống nhất nước Ðức." Cựu Tổng thống Bush, lãnh đạo Hoa Kỳ từ năm
1989-1993, cũng lên phát biểu trong buổi lễ đầy cảm động này, không quên nhắc
lại hàng chục ngàn người dân Ðông Ðức đã không hề run sợ trước các sự đàn
áp của chế độ Cộng sản Ðông Ðức, mà xuống đường trong nhiều tháng liền đòi hỏi
sự đổi mới của đất nước, dẫn đến sự sụp đổ luôn của bức tường Berlin. Cựu Tổng
thống Bush cũng nói tiếp: "Thật là một niềm vui khi được có mặt tại nơi
đây cùng với các bạn lãnh đạo cũ của chúng tôi," và nhân đó ông đã nhiều
lần ôm cựu Chủ tịch Gorbachev và cựu Thủ tướng Kohl, trong buổi lễ kéo dài hai
tiếng đồng hồ, được tổ chức tại rạp hát Friedrich Strasse, nằm về phía Ðông của
Bức Tường cũ. Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây, là các diễn tiến lịch sử mà chúng ta
đang kỷ niệm ở đây bằng sự hiện diện của chúng ta, đã không hề được dàn xếp
tại Bonn, Moskva hay Washington
DC, mà từ trong các trái tim và khối óc của các người đã bị mất
các quyền thiêng liêng của họ quá lâu rồi."[10]
Cựu Tổng thống Bush, phải di chuyển bằng một chiếc gậy trống, tỏ
ra vui mừng khi gặp lại được các nhà lãnh đạo cũ, phát biểu tiếp như sau:
"Bức tường không thể nào xóa nhòa được giấc mơ của chúng ta, đó là một
nước Ðức duy nhất, một nước Ðức tự do và một nước Ðức hiên ngang." Cựu Chủ
tịch Liên Xô Gorbachev, từng được giải Nobel Hòa bình vì sự đóng góp của ông
vào việc kết thúc cuộc Chiến tranh Lạnh cùng với năm Bức Tường sụp đổ, tuyên bố
rằng hai sự kiện trên đã đứng đầu một thập niên của sự xích lại giữa hai khối
"mà những người anh hùng chính là dân chúng." Vị chủ tịch cuối cùng
của Liên Xô nhấn mạnh tiếp: "Không có ai trong ba chúng ta muốn giành lấy
các thành quả của các thế hệ tiền nhiệm," sau khi ngợi khen việc Tổng
thống Bush đã giữ vững tay chèo của đất nước Hoa Kỳ, trong suốt thời kỳ lịch sử
đó.[11]
Khoảng 1.800 khách mời, trong đó có ba vị cựu lãnh đạo trên, còn
có thủ tướng Ðức vừa tái cử Angela
Merkel, các cựu thủ tướng Hungary Miklos Nemeth và Balan Tadeus Mazowiecki, cùng
hàng chục vị đại sứ, tham dự lễ kỷ niệm sự sụp đổ của Bức tường Berlin này, nằm
trong lễ kỷ niệm kéo dài một tuần lễ cho đến ngày 9 tháng 11 năm 2009.[12]
No comments:
Post a Comment