Liên minh Âu Châu (EU)
Ngày 01
tháng 11, 1993
Liên minh châu Âu
Cờ Liên minh
"United
in diversity" (tiếng Anh)
"In
Varietate Concordia" (tiếng Latinh)
Minh ca:
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European
Union), cũng được gọi là Khối Liên Âu, viết tắt là EU,
là liên minh kinh tế – chính trị bao
gồm 28 quốc gia thành viên thuộc châu Âu. Liên
minh châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa
trên Cộng đồng châu Âu (EC). Với hơn 500 triệu dân, Liên minh châu Âu chiếm khoảng 22%
(16,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP danh nghĩa và
khoảng 17% (19,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP sức mua tương
đương của thế giới (PPP: Purchasing power parity).
Liên minh châu Âu đã phát triển thị trường chung thông qua hệ thống luật pháp tiêu
chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của
con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy trì các chính sách chung
về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa phương. 17 nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung
(đồng Euro), tạo
nên khu vực đồng Euro. Liên minh châu Âu đã phát triển vai
trò nhất định trong chính sách đối ngoại, có đại
diện trong Tổ chức
Thương mại Thế giới, G8, G-20 nền
kinh tế lớn và Liên Hiệp Quốc. Liên minh châu Âu đã thông qua việc bãi
bỏ kiểm tra hộ chiếu bằng Hiệp ước Schengen giữa 22 quốc gia thành
viên và 4 quốc gia không phải là thành viên Liên minh châu Âu.),
Là tổ chức quốc tế, Liên minh châu Âu hoạt động thông qua
hệ thống chính trị siêu quốc gia và liên chính phủ hỗn hợp. Những thể chế chính trị quan trọng của Liên minh châu Âu bao
gồm Ủy ban châu Âu, Nghị viện châu Âu Hội đồng
Liên minh châu Âu, Hội đồng châu Âu, Tòa án
Công lý Liên minh châu Âu và Ngân hàng
Trung ương châu Âu.
Liên minh châu Âu có nguồn gốc từ Cộng đồng
Than Thép châu Âu từ 6 quốc gia thành viên ban đầu vào năm 1951. Từ đó
cho đến nay, Liên minh châu Âu đã lớn mạnh hơn về số lượng
cũng như chất lượng thông qua việc tăng cường thẩm quyền của Liên minh
châu Âu.
Địa
lý
Lãnh thổ của Liên minh châu Âu là tập hợp lãnh
thổ của tất cả các quốc gia thành viên nhưng cũng có những ngoại lệ. Chẳng hạn
như quần đảo Faroe thuộc Đan
Mạch là một bộ phận lãnh thổ của châu Âu nhưng
không nằm trong lãnh thổ của Liên minh châu Âu hay đảo Síp, thành viên Liên minh châu Âu thường
được xem là một phần của châu Á vì
gần Thổ Nhĩ Kỳ hơn châu Âu lục địa.[20][21] Một
vài vùng lãnh thổ khác nằm ngoài châu Âu và cũng không thuộc lãnh thổ của Liên minh châu Âu như
trường hợp của Greenland hay Aruba.
Liên minh châu Âu chủ yếu nằm ở Tây và Trung Âu, với
diện tích 4.422.773 km2 (1.707.642 dặm vuông) [22]Ngược
lại, mặc dù trên danh nghĩa là một bộ phận của Liên minh châu Âu [23] tuy
nhiên luật pháp của Liên minh châu Âu không được áp dụng
ở Bắc Cyprus vì De
Facto vùng lãnh thổ này nằm dưới quyền quản lý của Cộng
hòa Bắc Cyprus thuộc Thổ Nhĩ Kỳ - một quốc gia tự tuyên bố độc lập và
chỉ được Thổ Nhĩ Kỳ thừa nhận.
Liên minh châu Âu kéo dài về phía đông bắc
đến Phần Lan, tây bắc về phía Ireland, đông nam về phía Cộng hòa Síp và tây nam về phía bán đảo Iberia, là lãnh thổ rộng thứ 7 thế
giới [24] và
có đường bờ biển dài thứ 2 thế giới sau Canada.[25][26] Điểm
cao nhất trên lãnh thổ Liên minh châu Âu đó là đỉnh Mont
Blanc, cao 4810,45 m trên mực nước biển [27] và
điểm thấp nhất là Zuidplaspolder ở Hà Lan, thấp
hơn mực nước biển 7m.
Dân cư của Liên minh châu Âu có tỉ lệ đô thị hóa cao. 75% người dân Liên minh
châu Âu sống ở các thành
phố (con số này dự kiến sẽ là 90% ở 7 quốc gia thành viên vào
năm 2020). Giải thích cho điều này có hai nguyên nhân chính: một là mật độ dân
cư đô thị hạn chế vươn ra những khu vực tự nhiên, hai là trong một số trường
hợp nguồn vốn của Liên minh châu Âu được dồn vào một khu vực
nào đó, chẳng hạn như Benelux.[28]
Thành
viên
Lịch sử của Liên
minh châu Âu bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Có
thể nói rằng nguyện vọng ngăn ngừa chiến tranh tàn phá tái diễn đã đẩy mạnh sự
hội nhập châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert
Schumann là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong
một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng
5 năm 1950. Cũng
chính ngày này là ngày mà hiện nay được coi là ngày sinh nhật của Liên minh
châu Âu và được kỉ niệm hàng năm là "Ngày châu Âu".
Ban đầu, Liên minh châu Âu bao gồm 6 quốc gia
thành viên: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan.
Năm 1973, tăng
lên thành 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng
lên thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng
lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành 25. Năm 2007, tăng
lên thành 27. Từ 1 tháng
7 năm 2013, EU có
28 thành viên.
Quá trình gia nhập của các quốc gia thành
viên Liên minh châu Âu
Sau đây là danh sách 28 quốc gia thành viên của Liên minh châu
Âu xếp theo năm gia nhập và theo bảng chữ cái tiếng Việt.
b/ 1973: Anh (chuẩn
bị ra đi sau trưng cầu dân ý ngày 24/6/2016), Đan Mạch (chuẩn
bị tổ chức trưng cầu dân ý về việc rời khỏi EU), Ireland
Hiện nay, Liên minh châu Âu có diện
tích là 4.422.773 km² với dân số là
492,9 triệu người (2006) [29]; với
tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (xấp xỉ 15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu
hết các quốc gia châu Âu đều
đang là thành viên của Liên minh châu Âu.
Tính đến cuối năm 2010, có 4 quốc gia được đánh giá là ứng viên
chính thức để kết nạp thành viên Liên minh châu Âu đó
là: Iceland, Macedonia,[nb 1][30] Montenegro và Thổ Nhĩ Kỳ. Albania, Bosnia và Herzegovina và Serbia là
những ứng viên tiềm năng.[31] Kosovo cũng
được xếp vào danh sách những ứng viên tiềm năng gia nhập vào Liên minh
châu Âu vì Ủy ban châu Âu và hầu như tất cả các
quốc gia thành viên Liên minh châu Âu khác đã thừa nhận Kosovo như
một quốc gia độc lập, tách biệt khỏi Serbia.[32]
5 quốc gia Tây Âu không
phải là thành viên Liên minh châu Âu nhưng đã có những thỏa
thuận hợp tác nhất định kinh tế và pháp
luật của Liên minh châu Âu đó là: Iceland (ứng
viên gia nhập Liên minh châu Âu), Liechtenstein và Na Uy, thành
viên thị trường duy nhất thông qua Khu vực kinh tế châu Âu, và Thụy Sĩ, tương
tự như trường hợp của Na Uy nhưng thông qua hiệp định song phương giữa nước này
và Liên minh châu Âu.[33][34]Ngoài
ra, đồng tiền chung EURO và các lĩnh vực hợp tác khác cũng được áp dụng đối với
các quốc gia thành viên nhỏ như Andorra, Monaco, San
Marino và Vatican.[35]
Tháng 6 năm 2016, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc
Ireland rời Liên
minh châu Âu sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/6/2016 và nước Anh có vị Thủ
tướng mới, nhưng phải đến 3 năm sau đó, tức 2019 thì quyết định
này mới chính thức có hiệu lực.
Ba
trụ cột chính của Liên minh châu Âu
Bài quá dài, phải cắt
bớt
Hiệp ước
Maastricht - Trụ cột thứ nhất
Các nước phê chuẩn Hiệp ước Maastricht
Hiệp ước Maastricht hay còn gọi là Hiệp
ước Liên minh châu Âu (tiếng
Anh, "Treaty of European Union"), ký ngày 7 tháng
2 năm 1992 tại Maastricht Hà Lan [36], nhằm
mục đích:
a/ Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ
vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung
và một ngân hàng trung ương độc lập,
b/ Thành lập một liên minh chính trị bao gồm
việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính
sách phòng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp.
Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể
hóa châu Âu và dẫn đến việc thành lập Cộng đồng châu Âu.
Liên minh
chính trị
a/ Tất cả các công dân của các nước thành
viên được quyền tự do đi lại và cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.
b/ Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền
địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư
trú.
c/ Thực hiện một chính sách đối ngoại và an
ninh chung trên cơ sở hợp tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo
đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực này.
d/ Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu
Âu.
e/ Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số
lĩnh vực như môi trường, xã hội, nghiên cứu...
f/ Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện
chính sách chung về nhập cư, quyền cư trú và thị thực.
Liên minh
kinh tế và tiền tệ
Được chia làm 3 giai đoạn, từ 1 tháng
7 năm 1990 tới 1 tháng
1 năm 1999, và
kết thúc bằng việc giải tán Viện tiền tệ châu Âu, thành lập Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).
Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi
là những tiêu chỉ hội nhập) là:
·
Lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3
nước có mức lạm phát thấp nhất;
·
Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP;
·
Nợ công dưới 60% GDP và biên độ dao động tỷ giá giữa các đồng tiền
ổn định trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM);
·
Lãi suất (tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở
lên) không quá 2% so với mức trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.
Kể từ ngày 1 tháng
1 năm 2002 đồng Euro đã
chính thức được lưu hành trong 12 quốc gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng
Euro) gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Phần
Lan, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha; các nước đứng ngoài là Anh, Đan
Mạch và Thuỵ Điển. Hiện nay, đồng Euro đang có tỷ giá hối
đoái cao hơn đồng đô la Mỹ.
Hiệp ước
Schengen
Các nước trong hiệp ước Schengen
Ngày 19
tháng 6 năm 1990, Hiệp ước Schengen được thoả thuận xong. Đến
ngày 27 tháng 11 năm 1990, 6 nước Pháp, Đức, Luxembourg, Bỉ, Hà Lan và Ý chính
thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha ký ngày 25 tháng
6 năm 1991.
Ngày 26 tháng 3 năm 1995, hiệp
ước này mới có hiệu lực tại 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi
lại của công dân các nước thành viên. Đối với công dân nước ngoài chỉ cần
có visa của một trong 9 nước trên là được phép đi lại trong toàn
bộ khu vực Schengen. Tính đến 19/12 năm 2011, tổng số quốc gia công nhận hoàn
toàn hiệp ước này là 26 nước: Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary, Slovakia, Slovenia, Estonia, Latvia, Litva, Malta, Iceland, Na Uy, Thụy Điển, Phần
Lan, Đan
Mạch, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Ý, Hy Lạp, Thụy Sĩ, Liechtenstein(trong
đó có 22 nước thuộc khối liên minh châu Âu).[37]
Hiệp ước
Amsterdam - Trụ cột thứ hai
Hiệp ước Amsterdam còn gọi là Hiệp
ước Maastricht sửa đổi, ký ngày 2 tháng
10 năm 1997 tại Amsterdam, bắt
đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng
5 năm 1999, đã có
một số sửa đổi và bổ sung trong các vấn đề như:
1.
Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử;
2.
Tư pháp và đối nội;
3.
Chính sách xã hội và việc làm;
4.
Chính sách đối ngoại và an ninh chung.
Hiệp ước
Nice - Trụ cột thứ ba
Hiệp ước Nice được lãnh đạo các quốc
gia thành viên châu Âu ký vào ngày 26
tháng 2 năm 2001 và
bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 2 năm 2003. Hiệp ước Nice là
sự bổ sung cho Hiệp ước Maastricht và Hiệp ước Rome. Hiệp
ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới
theo chính sách mở rộng về phía
Đông châu Âu, vốn ban đầu là nhiệm vụ của Hiệp ước Amsterdam nhưng
không được hoàn thành.[38]
Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra vào tháng 6 năm 2001, các cử
tri Ireland đã phản đối việc thông qua Hiệp
ước Nice. Tuy nhiên, sau hơn một năm, kết quả đã bị đảo ngược.
Hiệp
ước Lisbon – tái cấu trúc Liên minh châu Âu
Ngày 1 tháng
12 năm 2009, Hiệp
ước Lisbon chính thức có hiệu lực và đã cải tổ nhiều khía cạnh
của Liên minh châu Âu. Đặc biệt, Hiệp ước Lisbon đã thay đổi cấu
trúc pháp lý của Liên minh châu Âu bằng cách sáp nhập cấu trúc 3 trụ cột thành
một chính thể pháp lý duy nhất. Hiệp ước là cơ sở pháp lý cho vị trí Chủ tịch
thường trực Hội đồng Liên minh châu Âu, chức vụ mà ngài Herman
Van Rompuy đang nắm giữ, cũng như vị trí Đại diện cấp cao của Liên
minh châu Âu về ngoại
giao và an ninh, chức vụ mà bà Catherine Ashton đang
phụ trách.[39]
Cơ
cấu tổ chức
Liên minh châu Âu có 7 thể chế chính trị chính
đó là: Nghị viện châu Âu, Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu, Tòa án Công lý Liên minh châu
Âu và Tòa án Kiểm toán châu Âu. Thẩm
quyền xem xét và sửa đổi hệ thống luật pháp của Liên minh châu Âu -
quyền lập pháp - thuộc về Nghị viện châu Âu và Hội
đồng Bộ trưởng. Quyền hành pháp được giao cho Ủy ban châu Âu và một bộ phận
nhỏ thuộc về Hội đồng châu Âu (trong tiếng
Anh, cần tránh nhầm lẫn giữa "Council of the European
Union" bản chất thuộc về các quốc gia thành viên và "European
Council" bản chất thuộc về Liên minh châu Âu). Chính sách tiền
tệ của khu vực đồng tiền chung châu Âu (tiếng
Anh, "eurozone") được quyết định bởi Ngân hàng
Trung ương châu Âu. Việc giải thích và áp dụng luật của Liên minh
châu Âu và các điều ước quốc tế có liên quan - quyền tư pháp - được
thực thi bởi Tòa án Công lý Liên minh châu Âu. Ngoài ra còn có một
số cơ quan nhỏ khác phụ trách tư vấn cho Liên minh châu Âu hoặc
hoạt động riêng biệt trong các lĩnh vực đặc thù.
Hội đồng
châu Âu
Hội đồng châu Âu phụ trách điều hành Liên
minh châu Âu và có nhiệm vụ nhóm họp ít nhất 4 lần trong năm. Hội đồng
châu Âu bao gồm Chủ tịch Hội đồng châu Âu, Chủ tịch của Ủy ban châu Âu và một
đại diện của mỗi quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, có thể là
người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ của quốc gia thành viên đó. Hội đồng
châu Âu được xem là cơ quan lãnh đạo tối cao của Liên minh châu Âu.[40] Hội đồng châu Âu chủ động
xem xét những thay đổi trong các hiệp ước điều chỉnh hoạt động Liên
minh châu Âu cũng như xác định chương trình nghị sự và chiến lược
cho Liên minh châu Âu.
Hội đồng châu Âu sử dụng vai trò lãnh đạo
của mình để dàn xếp các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và các thể chế
chính trị của Liên minh châu Âu cũng như giải quyết các cuộc
khủng hoảng chính trị và bất đồng trong những vấn đề và chính sách gây nhiều
tranh cãi. Về đối ngoại, hoạt động của Hội đồng châu Âu có thể
ví với một nguyên thủ của tập thể các nguyên thủ quốc gia để ký kết, phê chuẩn
các thỏa thuận và điều ước quốc tế quan trọng giữa Liên minh châu Âu và
các quốc gia khác trên thế giới.[41]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Hội đồng
Bộ trưởng
Hội đồng Liên minh châu Âu thường được gọi
tắt trong tiếng Anh là Council [43] hay
còn gọi là Hội đồng Bộ trưởng (tiếng
Anh, "Council of Ministers") [44] là
một trong hai bộ phận lập pháp của Liên minh châu Âu (bộ phận
còn lại là sự kết hợp của Ủy ban châu Âu và Nghị viện châu Âu) chịu trách nhiệm quyết định
các chính sách lớn của EU, bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nghị viện châu Âu
Gồm 751 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo nguyên tắc phổ
thông đầu phiếu từ tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Trong Nghị viện châu Âu các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị
khác nhau, không theo quốc tịch.[46]
Thủ tục lập pháp của Liên minh châu Âu.
Nhiệm vụ của Nghị viện châu Âu là phối hợp
với Hội đồng Bộ trưởng (hay Hội đồng Liên minh châu Âu)
thông qua đề xuất lập pháp của Ủy ban châu Âu trong hầu hết các lĩnh vực. Nghị
viện châu Âu còn có thẩm quyền thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chính sách của Liên minh châu Âu. Ủy ban
châu Âu chịu trách nhiệm trước Nghị viện châu Âu, đối với mọi hoạt
động phải có sự chấp thuận của Nghị viện châu Âu, báo cáo kết quả
công tác trước Nghị viện châu Âu để đánh giá, phê bình và rút kinh nghiệm. Chủ
tịch Nghị viện châu Âu, được bầu bởi các nghị sĩ với nhiệm kì 2 năm rưỡi, đồng
thời phải phụ trách vai trò người phát ngôn trong và ngoài nghị viện.[47]
Chủ tịch Nghị viện Châu Âu đương nhiệm là ông
Antonio Tajani, thuộc Đảng Nhân dân Châu Âu từ ngày 17 tháng 1 năm 2017.
Ủy ban
châu Âu
Là cơ quan điều hành của Liên minh châu Âu chịu
trách nhiệm đề xuất lập pháp và những hoạt động thường nhật của Liên
minh châu Âu. Ủy ban châu Âu bao gồm 27 uỷ viên đại
diện cho 27 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, nhiệm kỳ 5 năm
do các chính phủ nhất trí cử và chỉ bị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện châu Âu.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu đương nhiệm là ông Jean-Claude Juncker, cựu Thủ tướng Luxembourg nhiệm
kỳ 1995-2013, được Nghị viện châu Âu phê chuẩn ngày 15/7/2014.[48]
Tòa án
Công lý Liên minh châu Âu
Có thẩm quyền tư pháp đối với các vấn đề liên quan đến luật pháp
của Liên minh châu Âu. Bao gồm hai tòa án chính, đó là: "Tòa sơ thẩm châu Âu" (tiếng
Anh, "European General Court") và "Tòa án Công lý châu Âu"
(tiếng Anh, "European Court of Justice").[49]
Hệ
thống pháp luật
Cơ sở pháp lý hình thành Liên minh châu Âu là
các hiệp ước được ký kết và phê chuẩn bởi các quốc gia thành viên Liên
minh châu Âu. Các hiệp ước đầu tiên đánh dâu sự thành lập Cộng đồng châu Âu và Liên minh châu
Âu. Các hiệp ước kế tiếp chỉnh sửa và bổ sung các hiệp ước đầu tiền ngày
một đầy đủ và hoàn thiện hơn.[50] Đó
chính là những hiệp ước tạo ra các thể chế chính trị của Liên minh châu
Âu cũng như cung cấp cho các thể chế chính trị đó thẩm quyền thực hiện
các mục tiêu và chính sách đã đặt ra ngay trong chính các hiệp ước. Những thẩm
quyền này bao gồm thẩm quyền lập pháp [nb 2] ảnh
hưởng trực tiếp đến tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu và
công dân của các quốc gia thành viên đó.[nb 3] Liên minh châu
Âu có đầy đủ tư cách pháp nhân để ký kết các thỏa thuận và điều ước
quốc tế.[51]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các quyền cơ bản
Điều 1 và 2 Hiến chương Liên minh châu Âu về những quyền cơ bản:
"Nhân phẩm là không thể xâm phạm. Nhân phẩm phải được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi người đều có quyền được sống. Không một ai bị kết án tử hình hoặc bị xử tử."
"Nhân phẩm là không thể xâm phạm. Nhân phẩm phải được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi người đều có quyền được sống. Không một ai bị kết án tử hình hoặc bị xử tử."
Các điều ước đã ký kết giữa các quốc gia thành viên Liên
minh châu Âu công nhận rằng Liên minh châu Âuđược
"thành lập trên cơ sở tôn trọng những giá trị nhân phẩm, tự do, dân chủ,
công bằng, pháp trị và nhân quyền, bao gồm quyền của những người thuộc những
sắc tộc thiểu số... trong một xã hội đa dạng, không phân biệt, khoan dung, công
lý, đoàn kết và bình đẳng giới."[52]
Hiệp ước Lisbon đã
trao hiệu lực pháp lý cho Hiến
chương Liên minh châu Âu về những quyền cơ bản vào
năm 2009. Hiến chương là sự tập hợp có chỉnh sửa những quyền
lợi cơ bản của con người mà từ đó các điều luật của Liên minh châu Âu có
thể bị xem xét và đánh giá lại trước Tòa án Công lý Liên minh châu
Âu. Hiến chương cũng là sự hợp nhất nhiều quyền
khác nhau vốn trước đây đã được Tòa án Công lý Liên minh châu
Âu thừa nhận và đồng thời là "những giá trị truyền thống
được thừa nhận trong hiến pháp của nhiều quốc gia thành viên Liên minh
châu Âu." [53] Tòa án Công lý Liên minh châu
Âu từ lâu đã công nhận những quyền cơ bản và đôi lúc đã hủy
bỏ một số điều luật của Liên minh châu Âu vì đi ngược lại với
những quyền cơ bản đó.[54] Hiến
chương được soạn thảo vào năm 2000. Mặc dù ban đầu Hiến chương không
có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý nhưng các điều khoản của Hiến chương luôn
được nêu ra trước các tòa án Liên minh châu Âu. Bởi vì Hiến
chương, bản thân nó, đã chứa đựng những quyền lợi hợp pháp mà các tòa
án Liên minh châu Âu công nhận như các nguyên tắc nền tảng của
luật pháp Liên minh châu Âu.
Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu ban
hành hộ chiếu riêng của Liên
minh châu Âu trên đó có ghi tên gọi cùng với biểu tượng và dòng
chữ Liên minh châu Âu bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia
thành viên đó - (Mẫu hộ chiếu của Ireland)
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các đạo
luật
Các đạo luật chính của Liên minh châu Âu được
thông qua dưới 3 dạng có tính chất pháp lý và phạm vi ảnh hưởng khác nhau: quy
chế (tiếng Anh, "regulation"), sắc lệnh (tiếng
Anh, "directive") và phán quyết (tiếng
Anh, "decision"). Quy chế của Liên minh châu Âu tự
động bổ sung vào luật pháp hiện hành của các quốc gia thành viên Liên
minh châu Âu vào thời điểm các quy chế này bắt đầu có hiệu lực mà
không cần bất kì một biện pháp can thiệp pháp lý hay triển khai nào từ các quốc
gia thành viên Liên minh châu Âu,[nb 8] và
có giá trị pháp lý cao hơn nội luật của các quốc gia thành viên đó nếu phát
sinh xung đột pháp luật.[nb 2] Sắc
lệnh đòi hỏi các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu hoàn
tất một yêu cầu nhất định đưa ra bởi Liên minh châu Âu nhưng
để cho các quốc gia thành viên đó quyền tự quyết về cách thức thực hiện hoặc
triển khai sắc lệnh.[nb 9] Đến
hết thời hạn triển khai sắc lệnh, nếu những sắc lệnh đó không được thực thi,
thì chúng có thể, trong một số điều kiện nhất định, sẽ có "hiệu lực trực
tiếp" (tiếng Anh, "direct effect") vượt trên nội
luật của các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tư
pháp và Nội vụ
Kể từ khi thành lập vào năm 1993, Liên minh châu Âu bước
đầu đã có những phát triển trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ từ cấp độ liên
chính phủ đến chủ nghĩa siêu quốc gia. Hàng loạt các cơ quan được thành lập để
phối hợp hành động: Europol giữa lực lượng cảnh sát các quốc gia
thành viên Liên minh châu Âu,[58]Eurojust đối
với các công tố viên,[59] và Frontex đối
với các cơ quan phụ trách biên giới và cửa khẩu.[60]Liên
minh châu Âu cũng triển khai Hệ thống thông tin Schegen (tiếng
Anh, "Schengen Information System") có
khả năng cung cấp cơ sở dữ liệu chung cho lực lượng cảnh sát và cơ quan nhập
cảnh của các quốc gia thành viên. Công tác phối hợp hoạt động được quan tâm đặc
biệt kể từ khi Hiệp ước Schengen được ký kết tạo điều kiện
cho việc mở cửa biên giới cũng như sự gia tăng đáng kể của vấn đề tội phạm
xuyên quốc gia.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ngoại giao
Việc hợp tác trong các vấn đề đối ngoại giữa các quốc gia thành
viên Liên minh châu Âu được bắt đầu vào năm 1957 với sự hình
thành Cộng đồng châu Âu. Vào thời điểm đó, các quốc
gia thành viên tập hợp lại như một khối thống nhất trong việc thương lượng các
vấn đề thương mại quốc tế theo Chính sách thương mại chung (tiếng
Anh, "Common Commercial Policy").[65] Quan
hệ đối ngoại của Liên minh châu Âu chuyển sang một giai đoạn mới vào năm 1970
với nhiều phát triển đáng lưu ý, trong đó có thể kể tới sự ra đời của Tổ chức
hợp tác chính trị châu Âu (tiếng
Anh, "European Political Cooperation") có vai trò như nơi
để các quốc gia thành viên tham vấn một cách không chính thức để hướng tới một
chính sách đối ngoại chung. Nhưng phải đến tận năm 1987 khi Luật châu Âu duy
nhất (tiếng Anh, "Single European Act") được ban
hành, Tổ chức hợp tác chính trị châu Âu mới có được một cơ sở pháp lý hoàn
chỉnh. Sau đó, tổ chức này được đổi thành Chính sách an ninh và đối ngoại chung
(tiếng Anh, "Common Foreign and Security
Policy" hay "CFSP") khi Hiệp ước Maastricht bắt đầu có hiệu lực.[66]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quân sự
Chiến đấu cơ Eurofighter được
chế tạo bởi một tập đoàn hợp tác giữa bốn quốc gia thành viên Liên minh
châu Âu.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Kinh
tế
10 nền kinh tế có GDP và PPP lớn nhất tính theo
USD
trong đó Liên minh châu Âu được tính là một thể chế duy nhất (IMF, 2009).[75]
trong đó Liên minh châu Âu được tính là một thể chế duy nhất (IMF, 2009).[75]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thị trường nội địa châu Âu
Hai trong số những mục tiêu cơ bản của Cộng đồng Kinh tế châu Âu là
việc phát triển của một thị trường chung (tiếng
Anh, "common market"), hay sau này thường được biết với
tên gọi thị trường duy nhất (tiếng
Anh, "single market"), và một liên minh hải quan giữa các
quốc gia thành viên. Thị trường duy nhất của Liên minh châu Âu liên quan mật
thiết đến bốn vấn đề tự do bao gồm tự do lưu thông hàng hóa, vốn, con người và
dịch vụ trong phạm vi của Liên minh châu Âu.[82] Còn
liên minh hải quan là việc áp dụng một hệ thống thuế khóa chung cho tất cả các
loại hàng hóa nhập khẩu vào thị trường duy nhất này. Một khi hàng hóa đã được
nhập vào thị trường duy nhất, hàng hóa đó sẽ không phải chịu thuế hải quan, các
loại thuế về hạn chế nhập khẩu (quota) mang tính chất phân
biệt đối xử khi lưu thông trong phạm vi Liên minh châu Âu. Các quốc
gia không phải là thành viên của Liên minh châu Âu như Iceland, Na Uy, Liechtenstein hay Thụy Sĩđều đã
gia nhập vào thị trường duy nhất nhưng chưa tham gia vào liên minh hải quan.[33] Một
nửa các hoạt động thương mại của Liên minh châu Âu chịu sự
điều chỉnh của hệ thống cân đối pháp luật của Liên minh châu Âu (giữa
các quốc gia thành viên với pháp luật của Liên minh).[83]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Liên minh tiền tệ
Đồng tiền chung Euro được sử dụng từ năm
2002.
Khu vực đồng tiền chung euro (eurozone) (màu
xanh đậm) bao gồm 16 quốc gia thành viên sử dụng đồng euro như đồng tiền chính
thức.
Tất cả các nước thành viên của Liên minh châu Âu,
trừ Đan Mạch và Vương quốc Anh, đều bị ràng buộc trên cơ sở
pháp lý về việc sử dụng đồng euro như đơn vị tiền tệ chính thức.[87] khi
đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn kinh tế đặt ra. Tuy nhiên, chỉ có một vài quốc gia
thành viên của Liên minh châu Âu lên thời gian biểu cụ thể cho
việc gia nhập hệ thống tiền tệ này. Ví dụ như Thụy Điển đã cố tình không đáp ứng đủ các tiêu
chuẩn thành viên của Liên minh châu Âu để lẩn tránh việc sử
dụng đồng euro.[nb 13]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Luật cạnh
tranh
Liên minh châu Âu thực hiện chính sách cạnh
tranh nhằm mục đích đảm bảo tính lành mạnh của việc cạnh tranh kinh tế trong
thị trường nội địa Liên minh châu Âu.[nb 14] Hội đồng châu Âu với vai trò là người quản
lý luật cạnh tranh chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này
cũng như cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các công ty/tập đoàn lớn của Liên
minh châu Âu hay giải thế các cartel để
phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ giá từ chính phủ của các quốc gia
thành viên cho các công ty/tập đoàn lớn của nước mình.[91]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Dân
số
Ngày 1 tháng 1 năm 2011, tổng
dân số của 27 quốc gia thành viên thuộc Liên minh châu Âu dự
tính đạt 501.259.840 người. Tuy Liên
minh châu Âu chỉ chiếm 3% diện tích đất liền, dân số liên minh này
chiếm đến 7,3% dân số thế giới. Mật độ dân số lên đến 115,9 người/km ² đã khiến cho Liên minh châu Âu trở thành
một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới.
Đô thị
hóa
Bài quá dài, phải cắt bớt
Liên minh châu Âu là nơi có nhiều thành phố
toàn cầu hơn bất cứ khu vực nào khác trên thế giới, có tất cả 16 thành phố trên
một triệu dân, trong đó lớn nhất là Luân
Đôn.[96]
Ngoài các thành phố lớn, Liên minh châu Âucòn có
những vùng với mật độ dân cư dày đặc với không chỉ một trung tâm đơn lẻ mà mở
rộng kết nối với những thành phố khác, hiện nay đều được những vùng đô thị vây
quanh. Vùng đông dân nhất là Rhine-Ruhr với
khoảng 11,5 triệu dân (bao gồm Köln, Dortmund, Düsseldorf,...), Randstad có
xấp xỉ 7 triệu dân (gồm Amsterdam, Rotterdam, The
Hague, Utrecht,...), Frankfurt/Rhine-Main có
khoảng 5,8 triệu dân (gồm Frankfurt, Wiesbaden,...), Flemish diamond xấp
xỉ 5,5 triệu dân (gồm vùng đô thị giữa Antwerp, Brussel, Leuven và Ghent),
vùng Öresund xấp xỉ 3,7 triệu dân (gồm Copenhagen, Đan
Mạch và Malmö, Thụy Điển) và vùng công nghiệp Thượng Silesia có
khoảng 3,5 triệu dân (gồm Katowice, Sosnowiec,...).[97]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ngôn ngữ
Trong số rất nhiều ngôn ngữ và tiếng địa phương được sử dụng
ở Liên minh châu Âu, có 23 ngôn ngữ chính thức và tiếng phổ
thông: Bungary, Séc, Đan Mạch, Hà Lan, Anh, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Ailen, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani, Slovak, Slovenia, Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển.[100][101] Các
tài liệu quan trọng, chẳng hạn như luật pháp, được dịch sang mọi ngôn ngữ chính
thức. Nghị viện châu Âu cung cấp các bản dịch tài
liệu văn bản và phiên toàn thể ở
tất cả các ngôn ngữ.[102] Một số tổ chức sử dụng
chỉ một số ít các ngôn ngữ phổ thông nội bộ.[103] Chính sách ngôn ngữ do
các thành viên trong liên minh quản lý, nhưng các tổ chức Liên minh
châu Âu luôn thúc đẩy việc học các ngôn ngữ khác.[nb 15][104]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tôn giáo
Tôn giáo phổ biến nhất trong Liên minh châu Âu là Kitô
giáo, mặc dù nhiều tôn giáo khác cũng được thực hành. Liên
minh châu Âu chính thức thế tục, mặc dù một số quốc gia thành viên có
giáo hội được nhà nước bảo trợ: Malta (Giáo hội Công giáo Rôma), Hy Lạp (Chính thống giáo phương Đông), Đan
Mạch (Giáo hội Luther), và các bộ phận của Vương quốc Anh (Anh
giáo) và Scotland (Trưởng Nhiệm),
tại Đức và một số quốc gia Bắc Âu khác
tôn giáo chiếm phần lớn dân số là các nhóm Kháng
Cách.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Văn
hóa
Kể từ Hiệp ước Maastricht, hợp tác văn hóa giữa các quốc
gia thành viên là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Liên minh
châu Âu.[116] Những hành động thiết
thực của Liên minh châu Âu trong lĩnh vực này bao gồm chương
trình "Văn hóa 2000" kéo dài trong 7 năm,[116] các
sự kiện trong "Tháng văn hóa châu Âu",[117] hay
chương trình hòa nhạc "Media Plus",[118][119] và
đặc biệt là chương trình "Thủ đô văn hóa châu Âu" – diễn ra đều
đặn hàng năm nhằm mục đích tôn vinh một thủ đô đã được lựa chọn trong số các
quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.[120]
No comments:
Post a Comment