Vua Lê Thánh Tông ban lệnh xuất quân đánh
Chiêm Thành.
Ngày 28 tháng 11, 1470
- 1470 – Lê Thánh Tông ban chiếu lệnh xuất quân đánh Chiêm Thành, chuẩn bị tiến hành Chiến dịch đánh Chiêm.
Chiến tranh Đại Việt-Chiêm Thành (1471)
Một phần của các cuộc chiến tranh Việt-Chiêm
Thời gian 1471
Kết quả Đại Việt toàn thắng
Thay đổi
lãnh thổ Miền bắc của
Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân - Đà
Nẵng đến đèo Cù Mông - Phú Yên)
được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
Tham chiến
Chỉ huy
Hoàng
Nhân Thiêm
Lê
Thế
Trịnh
Văn Sái
Tổn
thất
30.000 bị bắt[cần dẫn nguồn]
Chinh phạt từ Việt Nam
Việt-Chiêm (982) • Việt-Chiêm
(1044) • Việt-Chiêm
(1069) • Đánh Tống, 1075-1076•Việt-Chiêm (1075-1104) • Việt-Chiêm (1367-1396) • Việt-Chiêm (1400-1407) • Việt-Khmer (1145-?) • Việt-Chiêm
(1446) • Việt-Chiêm
(1471) • Việt-Lan Xang (1478-1479) • Việt-Chân Lạp (1699) • Việt-Luangprabang (1749) • Việt-Thái (1982-1988)
Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗; 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), là hoàng đế thứ năm của hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông trị vì từ tháng 6
năm 1460 đến tháng 3
năm 1497, tổng cộng 38 năm, là vị
hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê – giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
(Đại Việt (chữ Hán: 大越) tức Đại Việt
quốc (chữ Hán: 大越國) là quốc hiệu Việt Nam tồn tại trong 2 giai đoạn từ năm 1054 đến năm 1400 và từ năm 1428 đến năm 1805.)
(Chiêm Thành (chữ Hán: 占城) là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara)
trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693. Trước 859 Việt Nam gọi
vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 4 tiểu vương quốc
là: Amaravati (vùng Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay, và
vùng Bình - Trị - Thiên nhưng sau này bị sáp nhập vào Đại Việt), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara
(vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và
Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay).)
Quân đội Đại Việt thắng lớn, và
Chiêm Thành suy yếu đến mức hầu như không còn được nhắc đến trong sử sách.
Bối cảnh
Từ thời Lê Thái Tông, nhà Hậu Lê đã rất quan tâm tới vùng Hóa châu - biên
cương phía nam. Sang thời Lê Nhân Tông, do có sự xâm lấn của Chiêm Thành, triều
đình nhiều lần phát binh đánh nước này vào các năm 1444, 1445, 1446. Cuộc tiến
công năm 1446 giành thắng lợi lớn, đánh vào kinh thành Chà Bàn (Vijaya), bắt chúa Chiêm Thành là Bí Cai.
Lê Thái Tông (chữ Hán: 黎太宗; 22 tháng 12, 1423 - 7 tháng 9, 1442), tên húy Lê Nguyên Long(黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1433 tới năm 1442, tổng cộng 9 năm.
(Lê Nhân Tông (chữ Hán: 黎仁宗, 9 tháng 5 năm 1441 – 3 tháng 10 năm 1459), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, trị vì trong vòng 17 năm, từ năm 1442 sau khi Lê Thái Tông qua đời đến khi bị Lê Nghi Dân ám sát vào năm 1459.)
Tháp Cánh Tiên hiện còn trong thành Vijaya xưa
(Thành Đồ Bàn hay Vijaya (tiếng Phạn विजय, nghĩa Việt: Thắng
lợi) còn gọi là thành cổ Chà Bàn (Trà Bàn) hoặc thành
Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành
phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định, Việt Nam) 27 km về hướng tây
bắc, là tên kinh đô của Chăm Patrong thời kỳ Chăm Pa có
quốc hiệu là Chiêm Thành.)
Tướng Chiêm là Ma Ha Quý Lai đầu
hàng trước, được lập làm quốc vương Chiêm mới. Vào năm 1449, Ma Ha Quý Do bỏ tù Quý Lai và cướp lấy ngôi vua. Quý Do truyền lệnh cho Giáo Nhĩ Mỗ, Bàn Thoa sang triều cống cho Triều đình Đại Việt. Hoàng đế Nhân Tông khi đọc tờ biểu thì phán: "Tôi giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, Trẫm không nhận đồ dâng", do đó không nhận lễ vật. Vào năm 1452, Ma Ha Quý Do được Minh Cảnh đế phong làm chúa Chiêm Thành.
22 tháng 9 năm 1449 – 11 tháng 2năm 1457
Minh Đại Tông (chữ Hán: 明代宗; 21 tháng 9 năm 1428 – 14 tháng 3 năm 1457), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Trong 7 năm trị vì ngắn ngủi của mình, ông
chỉ sử dụng một niên hiệu duy nhất là Cảnh Thái (景泰), do đó còn gọi là Cảnh
Thái Đế (景泰帝).
Sau đó Quý Do bị Bàn La Trà
Duyệt, người ở Thi Nại giết chết và cướp ngôi. Trà Duyệt chết, truyền ngôi cho
em là Trà Toàn (Pau Kubah). Trà Toàn được sử sách Việt Nam mô tả là "hung
hãn, hoang dâm, bạo ngược". Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Vào tháng 8 AL năm 1470, Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện với nhà Minh, thân hành đem hơn mười vạn quân thủy, quân bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa Châu. Viên tướng giữ Hóa Châu là Phạm Văn Hiển đánh nhau với quân Chiêm, không địch nổi, phải đóng cửa thành chống giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô. Việc này được Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng 8, quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp.
Bìa sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản. Cột chữ bên phải là Vựng lịch triều chi sự tích nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã qua". Cột chữ bên trái là Công vạn thế chi giám hoành nghĩa là "nêu gương chung công lao của vạn đời".
Lê Thánh Tông ra quân
Chuẩn bị
Trước khi đem đại quân đi đánh
Chiêm Thành vua Lê Thánh Tông đã chuẩn bị rất kỹ về đối nội, đối ngoại,
về lực lượng, về tinh thần quân dân Đại Việt: Vào tháng 10 AL (1470) ông sai Nguyễn Đình Mỹ và Quách Đình Bảo sang nhà Minh kể tội Chiêm Thành đánh úp biên giới, mò trộm trân châu và việc địa phương bị lấn cướp.
(Quách Đình Bảo (1434 – 1508), quê xã Thái Phúc huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình, là một trong 18 vị
quan ...phò tá có công lao và tài
đức nhà Lê sơ, được nhà sử học Phan Huy Chú chép trong Lịch triều
hiến chương loại chí. Ông là một thành viên của Tao đàn nhị thập bát tú[cần dẫn
nguồn], do vua Lê Thánh Tông sáng lập.)
Sau đó ông trưng thu lương thực ở
phủ Thiên Trường, sắc dụ Thừa tuyên sứ phủ Thiên Trường
rằng: Dẹp loạn thì trước hết phải dùng võ, quân mạnh vốn là ở đủ lương ăn.
Lệnh tới nơi, bọn ngươi phải trưng thu ở các hạng quân sắc, lại viên, sinh đồ
mỗi người 15 ống gạo, hạng hoàng đình và người già mỗi người 12 ống, bắt người
bị trưng thu lại phải đồ lên thành gạo chín, không được để chậm ngày giờ, đem
nộp lên sứ ty. Quan hạt đó đựng làm nhà kho, kiểm nghiệm thu vào rồi làm bản
tâu lên. Kẻ nào trốn chạy thì xử tội chém đầu. Tháng 11, hiệu định 52 điều lệnh về việc hành binh.
Trước khi xuất quân, để tăng thêm tinh thần cho binh lính, ông cho soạn tờ chiếu kể tội Trà Toàn và những việc làm sai trái của quân Chiêm đọc trước 26 vạn quân.
Hành
quân
Ngày mồng 6 tháng 11 âm lịch năm Canh Dần (tức ngày 28 tháng 11 năm 1470) Vua Lê Thánh Tông hạ chiếu ban 24 điều quân lệnh cho các
doanh các vệ, ra lệnh cho thái sư Đinh Liệt và thái bảo Lê Niệm làm Chinh Lỗ tướng quân, thống lĩnh quân thủy
trong các vệ thuộc ba phủ Đông, Nam và Bắc 10 vạn quân xuất phát đi trước. Ngày 16 vua Lê Thánh Tông thân hành đốc xuất 15 vạn thủy quân, hôm ấy trời mưa nhỏ, gió bấc. Tạ Khắc Hải có câu thơ rằng:
Bách vạn sư đồ viễn khai hành,
Xao bồng vũ tác nhuận quân thanh.
(Trăm vạn quân đi đánh cõi xa, Mui thuyền mưa dội thấm quân ta)
Dọc đường, hễ qua đền thờ thần nào đều sai quan tới dâng lễ tế, để cầu cho quân đánh thắng trận. Bảo Nguyễn Như Đổ vào tế đền Đinh Tiên Hoàng.
Nguyễn Như Đổ (chữ Hán: 阮如堵; 1424 - 1526), biểu tự Mạnh An (孟安), hiệu Khiêm Trai (謙齋), là nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà giáo dục thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Đầu tháng 12 âl đại quân của Lê Thánh Tông đến núi Thiết Sơn Nghệ An. https://s20.postimg.cc/zcnetaivx/Di_t_ch_th_Vua_Ninh_B_nh.jpg
Di tích thờ vua ở Ninh Bình
Đến giữa tháng 12 âl, quân Đại Việt vào đến đất Chiêm Thành. Sau đó Lê Thánh Tông cho quân luyện tập thuỷ chiến, ông còn cho người vẽ lại bản đồ nước Chiêm.
Ngày mồng sáu tết âl quân Đại Việt bắt sống được viên quan lại giữ cửa quan của Chiêm Thành tên là Bồng Nga Sa.
Lê Thánh Tông còn tự mình soạn ra cuốn Bình Chiêm sách sau đó cho dịch ra chữ Nôm rồi ban phát cho các doanh. Trong Bình Chiêm sách, nói có 10 lẽ tất thắng, có 3 việc đáng lo.
Diễn biến
Ngày mồng 5 tháng 2 âl (1471) Trà Toàn sai em đem 6 viên tướng và 50.000 lính lẻn đến
sát doanh trại quân Đại Việt.
(Maha Sajan (Phạn văn: महा साजन, chữ Hán: 槃羅茶全 / Bàn-la Trà-toàn; ?
- 1471), là vua cuối cùng của Champa trước khi bị Đại Việt đánh bại và chia nhỏ
trong cuộc nam tiến 1471.)
Ngày mồng 6 tháng 2 âl Lê Thánh
Tông bí mật sai Tả du kích tướng quân Lê Hi Cát, Hoàng Nhân Thiêm và Tiền phong
tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiếc thuyền và 30.000 lính vượt
biển, lẻn vào cửa biển Sa Kỳ lập dinh lũy, đặt đồn ải, để chặn đường về của
quân Chiêm. Nhà vua còn bí mật sai viên tướng giữ quân bộ là Nguyễn Đức Trung đem quân lẻn đi vào chân núi mai phục. Vua Lê Thánh Tông thân hành đem hơn 1000 chiếc thuyền và hàng trăm ngàn quân ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa dựng cờ thiên tử vừa đánh trống vừa hò reo tiến thẳng về đằng trước mặt.
Quân Chiêm thấy thế quân Đại Việt lớn, lại trông thấy ngự doanh thì tan vỡ, giày xéo lẫn nhau bỏ chạy về thành Chà Bàn. Khi đến núi Mạc Nô, quân Chiêm gặp toán quân của Hy Cát đã đón sẵn ở đó. Quân Chiêm cuống cuồng sợ hãi, chạy rẽ ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân bỏ lại đầy núi đầy đường. Lê Niệm và Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được một đại tướng và thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.
(Lê Niệm (? - 1485), là nhà chính trị, quân sự cao cấp của Đại Việt thời Lê. Ông quê ở xã Duy Trinh, huyện Thuần Hựu, là con trai của
tướng Lê Lâm, cháu trai của Trung Túc Vương Lê Lai – một trong những
anh hùng khởi nghĩa Lam Sơn. Ông làm quan trải 4 triều vua, Lê Thái Tông,
Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân, Lê Thánh Tông; tham gia lật đổ vua Lê Nghi Dân lập
vua Lê Thánh Tông.)
Vua Lê Thánh Tông đến cửa biển
Thái Cân, tung quân ra đánh mạnh, chém được hơn 300 thủ cấp và bắt sống được
hơn 60 người. Trà Toàn sợ hãi, bèn dâng biểu xin hàng. Ngày 27 Lê Thánh Tông đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp. Ngày 28, 29 vua tới vây thành Chà Bàn, bao vây nhiều vòng. Ông sai các doanh chế tạo phi thê chuẩn bị đánh thành. Trà Toàn trong tình thế cùng quẫn, hằng ngày đệ nộp tờ cam kết đầu hàng. Vua Thánh Tông triệu Lê Viết Trung đến nói:
Rồi ông bí mật hẹn cho các doanh phải tức tốc trèo thành mà vào; lại dụ bảo các tướng sĩ:
“
|
Trong lúc thành Chà Bàn đã bị hạ, các kho tàng đều phải niêm phong,
canh giữ không được phá hủy, bắt sống chúa Chiêm là Trà Toàn giải đến hành
doanh không được giết hại. |
”
|
— Lê
Thánh Tông
|
Ngày mồng 2 tháng 3 âl (1471) Lê Thánh Tông hạ lệnh kéo quân về. Quân Đại Việt đã toàn thắng, Trà Toàn đã bị bắt. Nhưng một tướng của Trà Toàn tên là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung, chiếm cứ vùng đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành, người này chiếm được một phần năm đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần, nộp cống, được Lê Thánh Tông phong làm vương. Ông lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để dễ ràng buộc.
Hậu quả
Cuộc tấn công của Đại Việt đã gây
ra cái chết cho 60 ngàn quân và dân Chiêm Thành và khoảng 30 ngàn người bị bắt
làm nô lệ. Kinh đô Vijaya bị phá hủy. Do mất nước, rất nhiều người Chiêm đã
phải di cư sang Khmer và bán đảo Malaca. Miền bắc của Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân - Đà Nẵng đến đèo Cù Mông - Phú Yên) được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Nhiều người Chăm bị ép làm nô lệ và bị
buộc phải đồng hóa vào xã hội Đại Việt. Sau khi Trà Toàn đã bị bắt, tướng nước Chiêm là Bô Trì Trì chạy đến Phan Lung, chiếm giữ đất Chiêm, xưng là chúa Chiêm Thành. Trì Trì chiếm giữ được một phần năm đất đai trong nước, sai sứ sang xưng làm tôi và xin vào cống nạp. Lê Thánh Tông phong cho Trì Trì làm vương, lại phong hai tước vương nữa ở Hoa Anh và Nam Bàn, gồm ba nước, để làm kế ràng buộc họ. Vùng đất từ đèo Cù Mông đến núi Đá Bia (thuộc tỉnh Phú Yên ngày nay) là nước Hoa Anh. Nam Bàn ở vùng núi phía tây nước Hoa Anh. Nước Chiêm Thành từ đây chính thức bị chia làm ba.
Phần đất Đại Chiêm và Cổ Lũy, vua Thánh Tông dùng người đầu hàng là Ba Thái làm đồng tri phủ ở Đại Chiêm và dùng Đa Thủy làm thiêm tri châu. Sau đó ông lệnh cho Đỗ Tử Quy làm đồng tri châu giữ việc quân và dân ở Đại Chiêm; Lê Ỷ Đà làm tri châu Cổ Lũy, giữ việc quân và dân ở Cổ Lũy, để đề phòng người Chiêm Thành làm phản.
Thế nhưng, gốm sứ Việt Nam cũng bị thiệt hại nặng do sự sụp đổ thương mại bởi việc xâm chiếm Chiêm Thành.
Phản ứng
của các láng giềng
Nhà Minh Trung Quốc đã cử một phái đoàn đi tìm hiểu nguồn
cội của sự việc vong quốc này của người Chăm, và những người Chăm tị nạn thuật
rằng họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu chống người Việt, sau khi đất nước của họ bị
sáp nhập vào Đại Việt. Trần Thật, trưởng đoàn Trung Quốc năm 1474, để tìm hiểu tại sao lại xảy ra sự vụ này, đã tìm cách tái đưa vua Chiêm Thành lên ngôi vương, song lại bị cản trở bởi người Việt và ông phải xuống Vương quốc Malacca để lập vua thay thế. Thế nhưng, phái đoàn Mã Lai năm 1481 kêu rằng người Việt đã tấn công bọn họ, song không dám phản kháng do không có ủng hộ của nhà Minh. Minh Hiến Tông đã đề nghị người Mã Lai nên trang bị và tìm cách đánh trả nếu bị người Việt tấn công, đồng thời cũng gửi sứ sang Đại Việt yêu cầu Đại Việt chấm dứt hoạt động tấn công cướp bóc người Mã Lai và người Chăm hoặc phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh.
Các quốc gia khác như Lan Xang, Ayutthaya, Campuchia, Lan Na và Ava đã bị báo động về việc này, và vô cùng sợ hãi trước nguy cơ chiến tranh với Đại Việt, mà sau đó thực sự nổ ra về sau cũng trong cùng thời kỳ Hậu Lê.
NHỮNG VÙNG ĐẤT CHIÊM THÀNH Cổ Xưa
https://www.youtube.com/watch?v=mIkYrekiwdU
Vương quốc Chăm Pa đã biến mất như thế nào? | Lịch Sử Việt
Nam
https://www.youtube.com/watch?v=z9-rJQcXdIo
Xem thêm
Tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư
- Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt
Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Lịch sử Phú Yên từ thế kỷ XVII đến thế
kỷ XVIII (2009), Nguyễn Quốc lộc (chủ biên)
Chú thích
12.
^ Ben Kiernan (2009). Blood and Soil: A World History of
Genocide and Extermination from Sparta to Darfur. Yale University
Press. tr. 110. ISBN 0-300-14425-3. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2011.
13.
^ Royal Asiatic Society of
Great Britain and Ireland. Straits Branch, Reinhold Rost (1887). Miscellaneous papers relating to
Indo-China: reprinted for the Straits Branch of the Royal Asiatic Society from
Dalrymple's "Oriental Repertory," and the "Asiatic
Researches" and "Journal" of the Asiatic Society of Bengal,
Volume 1. LONDON: Trübner & Co. tr. 251. Truy cập
ngày 9 tháng 1 năm 2011.(Original from
the New York Public Library)
14.
^ Royal Asiatic Society of
Great Britain and Ireland. Straits Branch, Reinhold Rost (1887). Miscellaneous papers relating to
Indo-China: reprinted for the Straits Branch of the Royal Asiatic Society from
Dalrymple's "Oriental Repertory," and the "Asiatic
Researches" and "Journal" of the Asiatic Society of Bengal, Volume
1. LONDON: Trübner & Co. tr. 252. Truy cập
ngày 9 tháng 1 năm 2011.(Original from
the New York Public Library)
15.
^ Shih-shan Henry Tsai (1996).
The eunuchs in the Ming dynasty. SUNY Press.
tr. 15. ISBN 0-7914-2687-4. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
No comments:
Post a Comment